Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

PHẬT GIÁO THÁI LAN

Kiêm Đạt

 

Thái Lan nằm vào vị trí 5, 35' đến 20,35' vĩ độ bắc và 97,0 đến 106 kinh  độ đông. Diện tích rộng hơn 513,000 km2. Phía đông giáp Kampuchia, phiá nam là vịnh Thái Lan, mũi nhọn sâu nhất giáp với Malaysia, phía tây có biên giới chung với Miến Điện,  phía đông bắc giáp Lào, lấy sông Mékong làm biên giới.

Dân số toàn quốc hiện  nay (2003) là  62,500,000 người. Dân tộc chính là người Thái, thứ đến  là người Khmer, Java, Môn, Shan,  Mã Lai, Negrito,  Sakai. Các dân tộc ít người ở miền bắc   có đến 30 dân tộc chung sống. Hoa Kiều tại Thái Lan khoảng 3,600,000 người nên ảnh hưởng đến tôn giáo, kinh tế, xã hội của xứ nầy không ít. Thái Lan là nước duy nhất ở vùng Đông Nam Á tránh được tình trạng chia cắt do sự thống trị của thực dân phương Tây cho nên ít gặp những biến động của quá trình phi thực dân hoá.

I- Phật Giáo du nhập

Phật Giáo  truyền bá vào  Thái Lan đầu tiên  vào khoảng năm 304 Phật Lịch  (năm 241 trước Công Nguyên), sau khi  vua A Dục (Asoka) của Ấn Độ bảo trợ việc kết tập  Kinh tạng lần thứ  III, liền phái các  vị sư truyền giáo chia là 9 đường đi về các địa phương khác nhau để hoằng pháp.  Theo ghi chép trong Đại Sử (Mahavamsa) của Sri Lanka, hai vị trưởng lão là ngài Sona và ngài  Uttara đi hoằng pháp  ở Kim Địa (SuphanBuri). 

Tài liệu  trên viết: "Vào ngày 1 tháng 11  năm 689, theo thuyền buồm  rời khỏi  Phiên Ngung,  hướng về  Champa giương  buồm thẳng tiến,  lại rong  ruỗi về  phía Phật  Thệ (Srivijaya).  Có lời tán thán: Ta là bạn tốt, cùng đến Kim Châu". Như vậy đây là lộ trình đến vùng đất Sumatra ngày nay.

Những cuộc khảo cổ học gần đây  đã cho thấy nhiều di tích, di chỉ Phật Giáo được truyền bá vào đất  Thái Lan vào năm 241 trước Công Nguyên, tức là thời kỳ kết tập kinh  điển lần thứ III. Nhiều di tích khác lại liên quan đến Phật  Giáo thời vua  A Dục (Asoka)  tức là vào khoảng 272 - 231 trước  Công nguyên. Đại Tháp Phật Thống tại Thái Lan là di tích thời nầy.

II- Thời phát triển

Ngay đó đã diễn ra những cuộc tranh chấp và chiến tranh liên tiếp:

Năm 1057:  Vua Anarata của Vương  triều Pagan ở Miến  Điện từng yêu cầu  triều đình Kim  Địa cung cấp  bộ Tam  tạng kinh điển Phật Giáo, nhưng đã bị vua Kim Địa khước từ cho nên đã đem quân sang  đánh Thaton,  cướp bộ  Tam Tạng  và đón  một số  sư tăng về Pagan. Lúc bấy giờ Thaton dưới sự thống trị của người Môn cho nên Phật Giáo Thượng Toạ bộ (Tiểu Thừa) hết sức phát triển.

Vào thế kỷ XI: Người Môn tập trung ở lưu vực sông Mékong, thành lập triều đình Tharavadi. Triều đình nầy dần dà củng cố địa vị của mình. The "Cựu Đường Thư" thì: Dưới triều đại Tharavadi, Phật Giáo phát triển tại vùng nầy. Triều  đình Tharavadi đã tiếp thu được  văn hoá tôn  giáo và nghệ  thuật của Ấn  Độ. Những di  vật khai quật  cho thấy:  nghệ  thuật ở đây  gần gủi với phong cách Gopta của Ấn Độ. Ngoài ra còn tìm thấy: pháp luận, toà Phật, phục lộc đồ, tháp cổ,  ấn song túc... chung  quanh khu vực chùa Phật  Thống.

Những nhà  khảo cổ học  nhấn mạnh rằng:  những cổ vật  tìm thấy ở chùa  Phật Thống  cho thấy  nghệ  thuật  tạo hình  của triều  đại Thaeavadi tuy mô phỏng theo nghệ thuật Phật Giáo  tại Ấn Độ, tuy nhiên các  nghệ nhân thời đó  cũng đã sáng tạo  ra phong cách mới mang tính bản địa.

 III- Phật Giáo thời  Xụ Khổ Thay

Năm 1237, lịch sử Thái Lan đánh dấu những biến chuyển quan trọng. Trước thời kỳ đó, đất đai Thái Lan với bị các thế lực người Khmer và người Môn thống trị.  Đến năm  1237, trong số các dân tộc Thái xuất hiện vị lãnh tụ là Bang Khang Thao lãnh đạo cuộc kháng chiến chống  lại Khmer, giành  chiến thắng,  chiếm thành  Xụ Khổ Thay, lập  chính quyền độc lập đầu tiên của dân  tộc Thái. Trong thời gian quân Mông Cổ xâm  chiếm Trung Quốc, nhiều  người Trung Quốc di cư xuống miền Nam, nhất  là tại xứ Thái. Phật Giáo truyền bá tại vương triều nầy là Thượng Tọa bộ (Tiểu Thừa) lẫn Đại Chúng bộ (Đại Thừa). Còn những vùng miền bắc Thái Lan thời đó chịu ảnh hưởng Phật Giáo Pagan của Miến Điện.

Những vùng miền nam của Vương  triều nầy thì do  Phật Giáo du nhập  từ Tích Lan sang. Trước đó, người Thái theo nhiều tín ngưỡng khác nhau, và khi Phật Giáo du nhập thì vẫn hoà nhập tín ngưỡng bản địa.

Vua Ram Khăm Hẻng:  Vị Hoàng  đế thứ 3  của triều đại  Xụ Khổ Thay  là Ram Khăm  Hẻng (1277-1317) là một vị anh quân, có tài quân sự lẫn chính trị. Khi lên ngôi, ông mở mang bờ cõi, và Thái Lan trở thành quốc gia hùng mạnh vùng lưu vực sống Mékong.

Nhà vua nầy trong việc củng cố văn hoá nước nhà, cũng tích cực phát huy Phật Giáo.  Văn hoá và tôn giáo Ấn Độ và Tích Lan cũng được du nhập và Thái Lan kể từ đó. Nhiều nhà tu hành vùng Lục Khôn đã sang du học ở Tích Lan để trở về nước tổ chức tăng đoàn Phật Giáo. Nhà vua cũng cho cung thỉnh các cao tăng từ Tích Lan đến kinh đô Xụ Khổ Thay để thuyết giảng. Nhà vua cho kiến tạo  nhiều chùa  chiền. Ngôi chùa lớn nhất là Aranik ở phía tây thành Xụ Khổ Thay là  trung tâm Phật Giáo quan trọng nhất trong thời kỳ nầy. Tăng đoàn Phật Giáo Tích Lan truyền bá Tam Tạng kinh điển bằng tiếng Pali, đồng  thời cũng tiến hành chú giải những kinh văn trọng yếu. 

Bi ký còn chép: Dưới triều Xụ Khổ Thay, tín đồ trì giới nghiêm minh, cúng dường quy củ. Nhà vua, triều đình, quan lại và dân chúng đều theo đạo Phật. Việc trì giới, dịch kinh, tổ chức giới đàn trọng thể. Như thế Phật  Giáo Tiểu Thừa bành trướng  mạnh mẽ dưới triều Xụ Khổ Thay, trong khi ảnh  hưởng Phật Giáo Đại Thừa của Khmer và người Môn thì suy thoái dần.

Vua Li Thay: Sau khi  vua Ram Khăm  Hẻng băng hà,  Thái Lan trải  qua một giai đoạn  biến động,  như khi  vua Li  Thay lên  ngôi (1354-1376) thì trong nước trở  lại an bình, thịnh vượng. Nhà vua không những là một nhà  chính trị tài  ba, mà còn là  một học giả vĩ đại. Nhà vua tinh thông Phật học, triết học, địa lý, thiên văn. Ông đã  biên soạn bộ "Ba  Thế Giới" (Tray Phum),  dẫn chứng nhiều kinh luận,  sách chú giải và  thư tịch Phật Giáo,  trình bày nhân sinh quan  và thế giới quan  Phật Giáo. Bộ "Ba Thế Giới" đã trở thành tác phẩm triết học và văn học quan trọng cổ điển bằng tiếng Thái.

Năm 1362, nhà vua xuất gia ở chùa Ana Bavannarama trong một thời gian hạn định. Đây là vị vua đầu tiên trong lịch sử Thái Lan xuất gia quy Phật.  Điều nầy làm khuôn mẫu cho nhân dân Thái, tác động đến các thế hệ con trai Thái sau nầy, trong đời ít nhất phải một giai đoạn xuất gia, tiếp thu rèn luyện đạo đức Phật Giáo.

Khi vua Li Thay  trị vì, nhà vua đã cho kiến  tạo nhiều pho tượng Phật lớn  rất nổi tiếng. Đáng  kể nhất là  tượng Phật bằng đồng Thanh La Rạc (Buddhajinanarai) ở chùa Đại Xá Lợi (Wat Phrarinat Namabadhatu) và  pho tượng Phật bằng đồng khác tại chùa Thiện Kiến (Wat Sadassana)  tại Bangkok. Cả hai còn được bảo lưu cho đến nầy dù trải qua bao nhiêu cuộc biến động.

Nghệ thuật tạc tượng Phật trong thời đại Sukhothay chịu ảnh hưởng phong cách tạo hình của Tharavadi, Khmer và người Môn trước đây. Trong giai  đoạn nầy, người Thái  đã biết dùng chữ  viết khá giản tiện, việc truyền bá kinh sách cũng được  phổ cập  hơn. Để truyền  bá Phật Giáo, nhà  vua đã cung thỉnh  tăng đoàn từ Tích Lan sang để hoằng dương Phật Pháp; số người quy y ngày càng đông. Tổ chức Phật Giáo Thái  Lan cũng được  thành lập và  có giáo quy vững chắc. 

Sách "Tăng Già Sử"  của Thái Lan có  chép: "Tăng tước của  Thái Lan  thời vua  Li  Thay  có tăng  vương, tăng  già tôn trưởng, đại trưởng  lão, thượng tọa". Tăng vương là tăng chức cao nhất trong cả  nước. Tăng già là tăng chức từng vùng. Đại trưởng lão và thượng tọa là những vị sư đạo cao đức  trọng, có tuổi lạp cao, theo giới luật của nhà vua quy định.

Nhưng đến khi  vua Li Thay băng hà, thế  lực vương triều cũng suy yếu. Chư hầu khắp nơi nổi dậy. Cuối cùng bị A Du Tha Da thôn tính (1436). Phật Giáo thời kỳ Chiêng May: Vua Kue Na lên ngôi tại Chiêng May mở đầu cho một giai đoạn lịch sử mới. nhà vua đã cung thỉnh vị  luận sư nổi tiếng Tích  Lan là Ngài Udambamaha đến Chiêng May để tổ chức tăng đoàn.

Nhà vua cũng sai sứ đến kinh thành Sukhothay để thỉnh sư tăng người Thái là Sumana đến Chiêng May để hiệp trợ cho tăng đoàn nầy. Triều đình cho xây cất chùa Hoa Viên (Wat Suon Doọc) trở thành trung tâm truyền bá giáo lý tại kinh thành Chiêng May. Ngôi chùa nay vẫn còn là thắng cảnh  bậc nhất tại Chiêng  May. Để phát huy sâu rộng Thượng Tọa bộ, nhiều nhà sư Thái  Lan được phép sang du học giáo  lý tại Tích Lan.  Hệ thống tổ chức và truyền giáo được củng cố thêm.

Năm 1441, sau khi Tam Giới Vương (Tilokaraja) lên ngôi, Ngài cũng là một tín đồ Phật Giáo thuần thành.  Đạo Phật có cơ hội phát triển thêm. Giớ trí thức tu học ngày càng  đông. văn hoá, nghệ thuật Phật Giáo nở rộ hơn bao  giờ hết. Kiến trúc, điêu khắc, hội họa Phật Giáo thời nầy lưu lại nhiều công trình  nổi tiếng. Năm 1455, chùa Đại Bồ Đề (Maha Badrarama) được xây dựng, mô  phỏng theo kiểu thức kiến trúc chùa tháp Ấn Độ.

Vào mùa thu năm 1477, một đại  hội kết tập kinh điển được tổ chức tại chùa Đại Bồ Đề. Khoảng 100  vị cao tăng trong cả nước được mời tham dự kết tập, dưới quyền chủ toạ của Trưởng Lão Pháp Thụ (Dram Madinna).  Đây là lần kết tập Tam Tạng Kinh  Điển lần đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Thái Lan. Từ đó, Chiêng May đã trở thành trung tâm nghiên cứu Phật Pháp trong toàn vùng Đông Nam Á.

Nhiều cao tăng học giả chuyên tâm dịch thuật và trước tác kinh điển bằng tiếng  Paki và tiếng Thái Lan. Ngài Tri  Xứng biên soạn bộ "A  Tỳ Đạt Ma Tổ ký";  ngài Diệu Cát  Tường   (Sirimangala)  biên  soạn  "Cát   Tường  Đăng  Luận" (Mangalatthadipani); Ngài Bảo Trí biên soạn "Thăng Giả Thời Mạn Lục" (Gisakalalimi)...

IV- Phật Giáo Vương triều Ayodrya

Năm  1350, vua  U Thông  chính thức  lên ngôi,  niên hiệu là Rama Thibodi  đệ I. Về mặt nội trị, nhà vua Thiboldi đã xây dựng một nền chánh trị vàtư pháp hoàn chỉnh, ban hành nhiều đạo luật  mới để đem lại thái bình, thịnh  trị đất nước.

Phật Giáo tại Ayodrya trong buổi đầu cũng chỉ xây dựng rất ít. Theo  sách sử và di tích khảo cổ, trong giai đoạn  nầy, ảnh hưởng  văn hoá ở  đây do 3  thế lực: thế  lực Tharavadi,  thế  lực  Srijaya  và  thế  lực  Hariphunsay. Thế lực Tharavadi chịu ảnh hưởng Phật Giáo Thượng Tọa Bộ; thế lực Srijayachịu  ảnh  hưởng  Traowa  theo   Phật  Giáo  Đại  Thừa;  thế  lực Hariphunsay theo Phật Giáo Thượng Toạ bộ nhưng còn chịu ảnh hưởng Bà La Môn giáo.  

Vào  thời Boromaraja triều  đình giao hảo với Trung Quốc, hàng năm  sang triều cống. Cũng thời gian  đó, nhiều nhà sư Trung Quốc  sang hoằng pháp,  lập chùa và  tổ chức Đại  giới đàn. Liên hệ nầy được kéo dài suốt triều đại Aduthada.

Lịch sử ghi  chép về phái đoàn của Trịnh  Hoà tuần du phương Nam, đến tận Aduthada. Tập Du Ký của Trịnh Hoà biên chép kỹ về văn hoá Thái Lan thời đó. Tiếp theo là Mã Hoan và Phí Tín cũng  du hành nhiều năm sang  vùng nầy.

Mã Hoan viết tập  "Danh Nhai Thắng Lãm"và  Phí Tín  viết tập  "Tinh xà thắng lãm",  ghi nhận nhiều chùa chiền, bửu tháp, đồ tượng tại kinh đô nước nầy. Năm 1393, Kampuchia đem quân  lấn  chiếm  biên  giới  Thái vào những vùng Chantaburi và Chanburi. Vua Thái chống trả mãnh liệt, rồi thẳng đà đem đại quân chinh phục Kampuchia, công phá hoàn toàn kinh đô Angkor. Tuy thất trận nhưng Kampuchia đã gây ảnh hưởng  lớn đến văn hoá Thái Lan, kể cả Phật Giáo.

Vào thời đại Tray Lokanat   có nhiều cải cách về chính trị, văn  hoá, giáo dục.  Nhà vua vốn là tín đồ  Phật Giáo thuần thành, cho  xây nhiều chùa tháp,  trong đó ngôi chùa  lớn nhất là quốc tự Tối Thắng Biên (Virisarvajna). Toà vương cung cũng là nơi thờ Phật quan trọng khác.

Cuộc tranh giành ảnh hưởng với các thế lực ở Chiêng May đã khiến nhà vua dời đô về Pissanulok năm 1463, lập trung tâm văn hoá khác.  Sau cuộc chiến với Chiêng Mây, vua Tray Lokanat xuất  gia tu hành trong vòng 8  tháng. Việc xuất gia của nhà vua đã tạo hòa khí với nhiều vùng. Miến Điện và Lào lập bang giao và trao đổi văn hoá Phật Giáo. 

Nhiều cao tăng của hai nước nầy cũng sang Pissanulok thuyết giảng  và tặng nhiều kinh sách. Tăng đoàn Tích Lan cũng sang thủ đô nầy trong giao lưu văn hoá Phật Giáo. Dân chúng theo đạo Phật ngày càng đông.

Tình hình bang giao tốt đẹp nầy cũng được củng cố vào thời kỳ trị vì của vua Rama Thibodi II (1491-1529). Nhiều ngôi chùa mới được kiến tạo; những ngôi chùa cũ được trùng tu, mở rộng thêm. Quan trọng nhất là phát triển chùa Tối Thắng Biến Tri. Sử  liệu ghi chép  về việc  nhà vua  cho  đúc  tượng Phật  Tối Thắng  Biến Tri (Buddha Srisarvajna)  cao 60 mét, dùng  286 cân vàng để  bao trát thân tượng Phật.

Cho đến  đời vua Song  Tham lên cầm  quyền (1610-1828), nước  nhà được hưng  thịnh trở lại; nhà  vua đã một thời  kỳ xuất gia, pháp danh là Tịnh Pháp (Vinala Dranma) cho  nên khi nắm quyền đã ra sức củng cố hệ thống tổ chức Phật  Giáo về tăng thống lẫn Hoá đạo rất quy củ.

V- Phật Giáo 1782 đến ngày nay

Người khai sáng ra triều đại  Bangkok là vua Rama  đệ I. Ông tên thật là Chao  Phyachkri, vốn là bộ tướng của  Trịnh Vương đã bình định những quân  phiến loạn trong triều, dời  kinh đô từ Thonburi đến. Khi Raman còn trẻ đã từng xuất gia, cho nên việc đầu tiên sau khi xây  dựng kinh  thành được  hoàn chỉnh  đã tổ  chức lại Phật Giáo trong nước,  xây chùa Phật  Ngọc tại kinh  đô và chuà  chiền khác trong cả nước.

Nhà vua cũng cho khôi phục lại chùa Tăng Vương đã bị Trịnh Vương phá hoại trước đây để quản lý tăng đoàn trong cả nước. Những chùa chiền có những pho tượng Phật bị phá hủy trước đây cũng được  kiến tạo  và điêu  khắc lại.  Năm 1788,  Hội nghị Trưởng Lão Phật Giáo được triệu tập tại thủ đô Bangkok để chỉnh lý lại Tam tạng Kinh Điển, lên  đến 354 bộ kinh chính. Tất cả đều được ấn hành để cho  đưa về các  trung tâm Phật  Giáo nghiên cứu giảng dạy.

Vua Rama I đã sử dụng quyền lực của quốc vương, ra sức cải cách và củng cố lại tăng đoàn. Năm 1805, nhà vua ban bố sắc lệnh nhấn mạnh đến vai trò của quốc vương là giữ gìn Tăng đoàn nghiêm minh, trong sạch. Những  người tu hành phạm giới sẽ  bị đưa ra Hội Đồng Giám Tu nghị tội và có thể bị đuổi khỏi Tăng Đoàn để hoàn tục.

Trong thời kỳ nầy, có những trước tác Phật Học rất quan trọng: Bộ "Tam Giới Luận Khảo Thích" của  Ngài Phya Phamma Priya;  bộ "Tam Giới Luận" của vua Li Thay (trước  đây chưa in ấn); bộ "Tam Tạng Kết Tập Sử" của vị Tăng Vương Tunglaconnarac.

Vị vua kế ngôi là Mongkut tức Rama đệ II. Nhà vua tiếp tục chương trình của phụ vương, đã ra lệnh cho xây  dựng nhiều chùa chiền ở các địa phương  chưa hoàn tất; cho phiên dịch  những phần còn lại của Tam  tạng Kinh Điển,  giúp việc phổ  biến Giáo pháp  trong cả nước.  Kiến trúc,  điêu khắc, hội hoạ Phật Giáo  Thái Lan cũng đều được phát triển ở mức cao nhất.

Vào thời kỳ trị vì của vua Rama đệ III, chính người em  trai của  nhà vua  là Maha  Mongkút, pháp  danh Kim Cương Trí (Vajira Nara) nổi tiếng tinh tông Tam Tạng, hiểu biết tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Anh, đề ra chương trình chân hưng Phật Giáo, giới  luật nghiêm minh  để củng cố  đạo hạnh của  Tăng đoàn cả nước.

Thái Lan từ ngày lập quốc đến nay, trải qua hơn 700 năm, qua từng giai đoạn lịch sử, Phật Giáo được coi trọng. Ngay trong pháp luật Thái Lan, Phật Giáo cũng được xiển dương.  Chẳng hạn như  trong những  Hiến Pháp  1946, Hiến  Pháp 1949  và Hiến  pháp hiện  hành (11-10-1997) nhấn mạnh:  "Quốc vương cần phải kính  tin Phật Giáo, hơn nữa, còn là người ủng hộ  Phật Giáo" (Điều VII - HP 1997) hay là "Nhà vua tín ngưỡng  Phật Giáo và  là người bảo  vệ tôn giáo"(Điều  IX -  HP 1997). 

Chính phủ Thái Lan ngoài việc tôn trọng quyền phát huy Phật Giáo, lại còn lập ra Vụ Tôn Giáo để quản lý công việc của các tôn giáo. Tín đồ Phật Giáo Thái Lan hiện nay chiếm 93,4%  dân số cả nước. Hàng năm, chính phủ giành ra ngân khoản cần thiết cho các tổ chức Phật Giáo: tu bổ, xây dựng chùa chiền, Viện Phật Học, Viện Phật Học Palu, tăng đoàn Phật Giáo, các trường Đại Học Phật Giáo.

 

 

http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/PhatgiaoThaiLan.htm

 


Vào mạng: 1-8-2007

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang