NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Trang trí trong nghệ thuật Tây Tạng
Ðạo Phật tại Tây Tạng là một tôn giáo độc nhất vô nhị,
còn được gọi là Lạt Ma Giáo (Lamaism). Ðiều nầy một phần là do những
điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt, phần khác là do ảnh hưởng
liên tục của những tập tục Shaman-giáo ngay từ lúc ban đầu. Kết quả là
đạo Phật khi xâm nhập đã sản xuất một nền tín ngưỡng và mỹ thuật thờ
cúng bách thần, đa dạng, phức tạp, trong thế giới Phật Giáo.
Sự pha trộn nầy đội khi dẫn tới lại hình tướng nghệ
thuật thời hoang sơ, những pho tượng trông dữ dằn, màu sắc loè loẹt, đã
biết các Thần thánh dữ dằn, trở thành các vị hộ thủ cho Phật Giáo.
Mẫu mực tinh túy nhất của nghệ thuật tôn giáo Tây
Tạng là các đồ vật dùng cho các nghi lễ: Ðó là những đạo cụ, trang trí
khá phức tạp và tinh vi; chẳng hạn: các dao găm thiêng (loại loại pháp
khí đặc trưng của Tây Tạng) và các bộ thờ có gắn châu báu vô cùng quý
giá. Các cao tăng ở đây có những giải thích sâu sắc về những đạo cụ nầy.
Những đạo cụ đó, đội khi được đưa trực tiếp vào nghi
thức nhật tụng, và gồm có những món vật không chính thống; chẳng hãạn:
các xương người chạm trổ phức tạp thành những thẻ bài nhỏ và sau đó được
đan lại thành một tấm màn của một u sĩ Lạt Man; hay những đỉnh sọ người
biến thành những “chiếc trống” nghi lễ.
Với những vật dụng rút ra từ cơ trhể, lại thêm kỹ
thuật đúc bằng kim loại tinh vi, các vật dụng nầy đã gây một ấn tượng
trong khi thực hành nghi thức lễ bái.
Nền hội họa Tây Tạng cũng rất đa dạng, về chủ đề và
về kỹ thuật, thực hiện những món đồ có kích thước từ nhỏ đến lớn, gồm có
những bản viết tay nhỏ xíu, những màn trước treo tường cao trên 20m.
Những tranh nầy đại diện cho hình thức nghệ thuật nổi tiếng của Tây Tạng,
có thể là phương tiện hội họa đa dạng và mang tính chất sáng tạo trong
thế giới tôn giáo Tây Tạng.
Các bức tường của những tu viện đều được vẽ lên những
bức tranh tường, có màu sắc sặc sỡ, những dàn rui được khắc chạm tinh
vi, hay gắn vào những tâm trong vải “thanka”. Những công trình trang trí
nầy khác khá công phu: những nghệ nhân tu sĩ sơn phết bằng loại màu keo
đục, như chất liệu trong trong sơn màu. Trên những bức tranh nầy,
thông thường vẽ lên hình ảnh của vị Nữ thần Tara nối tiếp nhau, do những
bàn tay tài hoa, tô màu sặc sỡ, linh động.
Theo những nhà nghiên cứu
nghệ thuật Ðông Phương, thì đây là một hình thức thể hiện nghệ thuật
“liên Á châu” trong đó do ảnh hưởng của nhiều nền hội họa Phật Giáo khác
được chọn lọc, kể cả tranh hang động Allora của Ấn hay tranh vẽ tại
động Ðôn Hoàng ở Trung Hoa (trước là của Tây Tạng).
Du khách đến viếng những đền chùa nầy làn đầu sẽ ngạc
nhiên trước những bức tranh lạ đập ngay vào mắt mình, qua ảnh hưởng của
hình tượng, màu sắc và kiểu vẽ. Thật khó đoán định giá trị và ý nghĩa.
Có nhà nghiên cứu xem đây do ảnh hưởng của nền “văn hoá sơ khai” (?),
chẳng hạn văn hoá châu Ðại Dương, những “Lent gurt” của dân du mục, với
màu sắc táo bạo. Không thể không nhắc đến ảnh hưởng của Saman-giáo trong
nền nghệ thuật nầy.
Một số nhà khảo cổ học có tìm những liên hệ của
những kiểu hội họa nầy với tranh vẽ của Népal, Butan, Bắc Ấn, Trung Quốc...
những không hề thấy được một ý niệm tương đồng nào cả! Nhìn xa hơn,
nếu trong những Thiền đường Nhật Bản đơn sơ, thanh tịnh bao nhiêu, trái
lại, chùa chiền Tây Tây lại năng về trang trí, màu sắc bấy nhiêu.
Kiến trúc Phật Giáo Tây
Tạng
Tây Tạng là vùng đất cao nhất trong vùng. Trong nhiều
thời đại trước, nhiều quốc gia mưu toan xâm chiếm vùng đất nầy, dù cho
địa thế cheo leo, khí hậu khắc nghiệt. Hiểu được những mang tâm nầy,
người Tây Tạng, thoạt kỳ thủy, đã cố tạo ra một lốI kiến trúc đặc thù:
Vừa dễ chống ngoại xâm, vừa dễ di động tính. Ðó là 2 yếu tố cần thiết.
Do vậy. trong buổi đầu, người Tây Tạng chuyên lo
dựng những loại lều kiên cố (để ơ) và những thành lũy để chống xâm lăng.
Từ hai mô hình nầy, kiến trúc Tây Tạng được đặt trên nền tảng đó.
Những lều trại
Tương tự như nội thấy của các ngôi đền, lều trại đều
được trang trí phong phú, nhiều màu sắc. Bên trong lều trại đều có những
bích họa và những tranh Tanka thường thấy trong những ngôi đền. Bên
ngoài mỗi căn lều đều có pho tượng Hắc thần Mahakara (phúc thần bảo hộ).
Những thành luỹ
Những “cung điện” nguyên thủy của các triều vua trước
kia ổ Tây Tạng cũng được xây theo kiểu “lều trại”. Có điều là rộng lớn
hơn và uy nghiêm hơn. Tính chất uy nghiêm nầy lại được dựng chung quanh
bằng những thành lũy. Muốn kiên cố hơn, một phần thành luỹ được bố trtí
bên sườn những ngọn núi dựng đứng.. Những núi đá nầy cũng nhằm tạo nên
những công trình điêu khắc, kiến trúc. Ðộng Ðôn Hoàng ở thế kỷ VII-VIII
thuộc Tây Tạng là một kiệt tác, có hàng vạn tượng Phật.
Toà “lều” vương giả của Tây Tạng tại Leh, xây dựng
vào thế kỷ XVI thì đã chuyển đổi khá nhiều: từ lều trại chuyển sang lâu
đài. Tuy nhiên, vẫn lấy thành trì làm chỗ dựa. Toà cung điện Potala ở
Lhasa cũng được bố cục theo chiều hướng đó.
Do tín ngưỡng Shaman
giáo và Mật Tông, những ngôi mộ tại Tây Tạng cũng được xây theo kiểu lều
trại và thành luỹ, nhất là cổ mộ vua chúa. Mộ hình tròn, xoay về hướng
đông, trang trí lồng lẫy, có tượng Hắc thần Mahakara.
Các nhà khảo cổ học trong mấy thập niên gần đây đã
khai quật nhiều chứng tích về các công trình xây dựng kiểu nầy. Một số
mộ được xây dựng quanh một cột đá duy nhất, trên đó có khắc những minh
văn. Ðây là mộ của những vua chúa, hàng vương giả. Ý nghĩa của cột đá
là vũ trụ. Cũng như cột đá của vua Asoka. Dường như những cột trụ nầy
cũng đã đóng một vai trò nhất định nào đó trong tập tục tang lễ của
người Tây Tạng.
Căn cứ theo những tài liệu dẫn trên, thì sự biến đổi
của Tháp bát úp như loại tháp Sanchi (Ấn Độ) để trở thành thành nhiều
tầng chính là một hiện tượng phản ảnh về ý nghĩa của Phật Giáo khi
truyền sang các nước phương Đông, trong một môi trường xã hội. Những
tháp Phật Giáo tại Tây Tạng về việc quy định các tầng đã không theo
những ý nghĩa nêu trên. Tính chất và thể loại của những loại tháp được
phân chia ra: Phù đồ (stupa) và bảo tháp (pagoda).
Cả hai được kiến tạo ở Tây Tạng để ghi dấu tích
Phật. Tuy nhiên, nếu xét về hình dạng kiến trúc thì hoàn toàn khác, mặc
dù bảo tháp bắt nguồn và là biến thể của phù đồ. Những nhà khảo cổ cho
rằng: Phù đồ được hình dung từ thời tiền sử; đó là những nấm mồ của
các vị tù trưởng hay vua chúa. Phù đồ đắp kiểu hình vòm cầu, rồi sau
nầy phát triển thêm thành đài kỷ niệm.
Trong kiến trúc Phật Giáo, phù đồ dược sử dụng như là
vật tiêu biểu chính, đồng thời là trung tâm của những chốn thờ tự.Tại
Ấn Độ, trong thời Phật Giáo hưng thịnh, vua A Dục (Asoka) đã cho dựng
trên 4,800 toà phù đồ; những công trình nầy để ghi dấu tích đức Phật
Thích Ca rải rác khắp lãnh thổ của ngài; thời đó, vật kiến trúc này trở
thành yếu tố căn bản cho mỗi tu viện, mỗi cảnh chùa.
Kiểu thức như những toà phù đồ Ấn Độ, có nơi biến
dạng đôi chút, nhưng căn bản kiến trúc vẫn không đổi. Thành thử, phù
đồ hay bảo tháp dựng lên, nếu không là nơi chứa những vật kỷ niệm, cũng
là nơi tàng chứa xá lợi Phật hay những di vật của những cao tăng, thiền
đức viên tịch. Tại Ấn-Tạng, phù đồ được coi như là chính sự hiện diện
của đức Phật; thành thử, trong khi xây dựng thì hướng về những tổ chức
nghi lễ cần thiết. Vì thế, những phù đồ thường xây lên một cách độc
lập, riêng rẻ, mặc dù đây chỉ là một vật liên hệ phụ thuộc trong lòng
một điện thờ. Phù đồ là vật kiến trúc xưa nhất của Phật Giáo.
Thời đó, các tu sĩ chỉ cần một chỗ trú ngụ tạm thời
trong những hang động; còn những cơ sở lớn dùng trong việc thờ phụng,
với những tượng pháp, thì chỉ bắt đầu khi Phật Giáo Đại thùa phát
triển.
Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng khi xây tháp thì chủ
trương xây theo loại hình "Cối Kinh". Phật Giáo Tiểu thừa thì về sau đã
chuyển đổi loại tháp "bát úp" để trở thành những loại "That" hay "Vát".
Những loại tháp nầy thì xây theo hình chuông. Những ngôi tháp nầy chính
là ngôi đền thờ, trong đó thờ đức Thích Ca Mâu Ni. Những loại tháp
không có tầng nầy được gọi là "Hoả châu tháp". (Chaitya)
Cần phân biệt kiểu tháp Ấn Độ và kiểu tháp Trung Hoa.
Tháp theo nghĩa Ấn Độ, là một kiến trúc theo chiều cao, không phải theo
dạng thức nhà ở, nghĩa là không có khoảng không gian bên trong kiến
trúc nầy. Kiến trúc của tháp tạo ra để tạo "không giao chứa đựng". (Chorten)
Tháp theo nguyên nghĩa vốn là ngôi mộ, tức là bình
đồ kiến trúc đặc.Tự ngôi tháp là biểu tượng thờ Phật từ nguyên ủy, được
đặt bên ngoài kiến trúc chứ không phải bên trong kiến trúc. Đây là nội
dung và hình thứ của tháp (Stupa) của Ấn Độ. Tuy nhiên những tháp của
Việt Nam và Trung Hoa thì lại phát triển theo kiểu "kiến trúc nhà".
Cũng có khoảng không gian bên trong tháp. Xét về mặt
kiến trúc, những ngôi tháp Tạng-Hoa chia ra 2 phần: phầm diêm thức và
phần lầu thức. Diêm thức là kiến trúc có nhiều điểm nhô ra. Tiêu biểu
cho loại nầy tháp ở Tung Nhạc Tự tại Khai Phong. Tháp bằng gạch, bình
đồ 12 cạnh, 15 tầng. Tầng dưới là một phòng bát giác với 4 cửa.
(Vihara)
Các tầng trên thì được xây bằng gạch nhô ra dần, rồi
đặt cấp vào dần thành ra "diêm". Các tầng sát nhau, có tam cấp lên.
Còn lầu thức thì tháp được xây theo kiến trúc lầu, vốn bằng gỗ, mỗi
tầng có mái lợp nhô ra. Tiêu biểu là tháp Thích Ca của Phật Cung Tự
(Sơn Tây).
Đàn pháp
(Mandala)
Đàn Pháp (hay Đàn Tràng) được định nghĩa qua nhiều
ý niệm khác nhau, và trong những trường hợp đó cũng đã được phân chia
ra những loại khác nhau. Trong phần dẫn nhập về "Đàn Pháp" trong kinh
Đại Nhật, Kim Cang Thủ Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn, thế
nào là Mạn ĐàLa?". Đức Phật dạy: "Phát sanh chư Phật gọi là Mạn Đà La.
Trong các pháp không chi hơn được. Về Pháp Vị cũng không chi sánh bằng
được..."
Nhiều tác giả khi nhận thức ý nghĩa và công năng
của Mạn Đà la giải thích: Mạn Đà La là biểu trưng về thậm thâm diệu
pháp của đức Phật, qua nhận định của chúng sanh. Trong Quán tưởng
Đàn Pháp, có thể mỗi Phật Tử hiểu theo một cách khác nhau, tuy nhiên,
về mục đích quán tưởng vẫn là đồng nhất. Mạn Đà La có nhiều thể tướng,
để biểu trưng ý nghĩa khác nhau về các vấn đề Phật Học. Chẳng hạn
như Đàn Pháp về Giác Ngộ, Đàn Pháp về Luân Hồi, Đàn Pháp về Tái
Sanh...Trong truyền thống Kim Cang Thừa (Vijrayana) hay Mật Điển
(Secret Mantra), thế giới được trình bày qua 3 phạm vi khác nhau:
thọ uẩn, sắc uẩn và thức uẩn. Thế giới của thọ uẩn tương quan với
chúng ta được gọi là "Ngoại Đàn Pháp"; tương quan với thế giới sắc
uẩn thì gọi là "Nội Đàn Pháp"; tương quan với thế giới thức uẩn thì
gọi là "Mật Đàn Pháp" hay "Đàn Pháp bí mật".
Hình thể Về hình
thể trình bày, theo cách phân chia trong Kinh Đại Nhật, Đàn Pháp thể
hiện hình thức bằng 4 loại khác nhau: - Đàn Pháp hình tròn - Đàn Pháp
hình vuông - Đàn Pháp hình tam giác - Đàn Pháp hình bán nguyệt. Nhưng
trong Kim Cang Đảnh thì lại phân chia qua 5 hình thức: - Đàn Pháp hình
tròn - Đàn Pháp hình vuông - Đàn Pháp hình tam giác - Đàn Pháp hình hoa
sen - Đàn Pháp Kim Cang.
Theo lý giải của Kinh nầy, thì Đàn Pháp hình tròn
tượng trưng choThủy Đại; đàn pháp hình vuông tượng trưng cho Địa Đại;
Đàn Pháp hình tam giác tượng trưng cho Hỏa Đại; đàn pháp hình bán
nguyệt tượng trưng cho Phong Đại. Đất, nước, gió, lửa là Tứ Đại. Để
khai triển thêm ý nghĩa của những Đàn Pháp nầy, Kinh Đại Nhật còn giải
lý thêm: - Đàn Pháp hình vuông: tượng trưng cho sự bình đẳng của
chúng sanh trong mọi cảnh giới. - Đàn Pháp hình tròn: có nghĩa là viên
mãn, trọn vẹn, vì hư không và nước thường được thể hiện bằng hình tròn.
- Đàn Pháp hình tam giác: có nghĩa là hàng phục, vì tướng của lửa hiện
ra với hình tam giác. - Đàn Pháp bán nguyệt: có nghĩa là diệt trừ
những tai nạn thường xẩy ra, vì gió thường xô ngả các vật.
Căn cứ theo những ý nghĩa trên, các Mạn Đà La được
thể hiện qua các hình dáng đó. Mật Giáo Tây Tạng cũng đưa ra những
thể tướng về Đàn Pháp khác nhau nữa. Thông thường, những Mạn Đà La của
Mật Tông thường được tạo dáng bằng những hạt cát được nhuộm màu, gọi là
"Sa Mạn Đà la" (Sand Mandala).
Giải thích về việc dùng cát trong Mạn Đà La, kinh
"Pháp Giới Quán" viết: "Chúng sanh trong bốn cõi là hằng hà sa số; Cát
lại mang ý nghĩa về thể Kim Cương Bất Hoại và tính Bình Đẳng của chúnh
sanh". Cũng có những loại Mạn Đà La được kết lập bằng hình tượng chư
Phật và Bồ Tát, Tứ đại Thiên Vương, Hộ Pháp. Màu sắc trên Đàn Pháp
phải là: vàng, trắng, đỏ đen, xanh. 5 màu nầy diễn tả Ngũ đại: đất
nước, lửa, gió và hư không.
Phân loại Đàn Pháp
Về cách phân chia Đàn Pháp, những kinh điển trình bày
không thống nhất. Căn cứ theo Đà Ra Ni Kinh, Thần Biến Sớ, Chơn Ngôn
Nghi Quỷ, thì Đàn Pháp được phân làm 5 loại chính: - Tức Tai Đàn Pháp -
Tăng Ích Đàn Pháp - Kính Ái Đàn Pháp - Hàng Phục Đàn Pháp - Xuất Thế
Gian Đàn Pháp.
Mỗi loại Đàn Pháp được sử dụng trong mục đích
riêng, hành giả phải ngồi theo phương hướng riêng, quán tưởng theo màu
sắc riêng.
Tức Tai Đàn Pháp
Đàn Pháp nầy được dùng để giải trừ ác nghiệp, trọng
tội và phiền não chướng (theo Đà Ra Ni Kinh). Ngoài ra còn dùng để
vượt qua được những tai nạn, những quỷ mị sở trước, ác tinh lăng bức
(theo Thần Biến Sớ). Hành giả ngồi về hướng Bắc, tréo gót chân,
ngồi thẳng. Tượng Chuẩn Đề xoay về hướng Nam, trước tượng của Ngài
có đặt chiếc kính đàn. Khi quán tưởng để tụng Thần chú, phải liên
tưởng đến màu trắng. Chỉ có thể hành lễ nầy vào ngày mồng một và ngày
mồng tám (âm lịch) trong mỗi tháng. Trước khi hành lễ phải tắm gội,
thức ăn thì dùng "Tam bạch thức" nghĩa là: sữa, tấm và cháo. Trì tụng
chú Chuẩn Đề 108 biến. Bài chú gồm có 8 chữ: Án, Chiết, Lệ, Chủ, Lệ,
Chuẩn, Đề (đọc tên của mình hay người nào muốn giải nạn), Ta Bà (đọc
chung), Ha.
Trong Kinh "Chơn Ngôn Nghi
Quỷ" có đoạn viết về công năng phi thường của cách ứng dụng Đàn Pháp
nầy như sau: Đại phàm, hành giả nào trì tụng Tức Tai Đàn Pháp, với
lòng thành khẩn nhất, đầy đủ nghi thức nhất, trong những ngày giờ quy
định, chẳng những bệnh tật tiêu trừ, viễn ly khổ ách, thường hoạch
cát tường, lại còn thăng tiến tinh thần, thân tâm thường an lạc; chẳng
những lợi lộc chính bản thân mình mà còn giúp ích cho thân nhân của
mình nữa.
Quan trọng là dốc lòng thành kính. Trì tụng 108
biến hay nhiều hơn nữa càng hay..." (chương Luận Pháp).
Tăng Ích Đàn Pháp
Như tên gọi của Đàn Pháp, hành giả thường xuyên trì
tụng Thần Chú nầy trong nhiều ngày sẽ gia tăng ích lợi về tinh thần cũng
như về vật chất. Những vấn đề được đắc dụng nhất trong Tăng Ích Đàn
Pháp là: gia tăng vinh quang, tăng trưởng thọ mạng (sống lâu, giải
bệnh), cầu phước đức gia đình, tiền tài phong thạnh, phục tàng bảo
châu. Khi trì tụng thì hành giả hướng về phương Đông, ngồi kiết già
hay bán già. Bức tượng hình đức Chuẩn Đề hướng về phương Tây, trước
tượng có đặt chiếc kính đàn (kính hình tròn).
Khi quán tưởng thì nghĩ đến màu vàng. Hương dụng
trong lễ vật gồm có: bạch đàn, uất kim hương, thắp đèn dầu mè (ma du).
Mỗi tháng, trì tụng từ ngày mồng 9 cho đến ngày 15 âm lịch, vào lúc mặt
trời mọc. Đọc chú Chuẩn Đề như sau: Án, Chiết, Kệ, Chủ, Lệ, Chuẩn, Đề,
(nêu tên mình hay người cần được gia tăng ích lợi), Ta Bà, Ha. Khi quán
tưởng, thì nghĩ đến màu vàng.
Đà Ra Ni Kinh có đoạn:
"Thường nhật, trì tụng Thần Chú Tăng Ích Đàn Pháp với chơn tâm, thì
phước đức trùng lai, vận hạn hanh thông, thân tâm an lạc".
Kính Ái Đàn Pháp
"Kính" là đền đáp ơn cha mẹ; "Ái" là tình thương
anh chị em, vợ chồng, gia đình hai bên nội ngoại. Công năng của Đàn
Pháp nầy là: Cầu Thánh Hiền gia hộ, Thiên Long, Bát Bộ hoan hỷ, ngôn
âm hoà nhã, người nghe hoan hỷ, mọi người ái kính, bạn hữu kết thân
thêm, oan gia giải toả, trở nên hoà thuận.
Hành giả xây mặt về hướng
Tây, ngồi theo thế kiết già hay bán già (có thể ngồi tự nhiên) lưng
thẳng đứng, bức tượng Chuẩn Đề Bồ Tát thì xoay về hướng Đông, trước
tượng có đặt kính đàn (hình tròn). Quán tưởng đến màu đỏ. Bài tụng chú
Chuẩn Đề như trên. Hương dụng là Uất Kim Hương và Tô Hạp Hương. Trì
tụng từ 16 đến 23 âm lịch trong mỗi tháng. Tụng vào lúc hoàng hôn.
Hàng Phục Đàn Pháp
Đàn Pháp nầy được gọi là Tối Cao Đàn Pháp, nếu so
với những thể loại Đàn Pháp khác. Mục đích chính yếu là hàng phục
chúng ma, ác quỷ, giải trừ sự nhiễu loạn của tâm trí, chống lại những
kẻ bội phản.
Trong các trường hợp như thế thì trì tụng "Vận Đại
Từ Đại Bi Thần Chú" mới ứng nghiệm. Hành giả hướng mặt về phương Nam,
ngồi theo lối Tôn Cư Tọa (ngồi chồm hổm, bàn chân bên tả áp qua bàn
chân bên hữu). Mặt tượng Chuẩn Đề Bồ Tát thì hướng về phương Bắc.
Trước tượng có đặt chiếc kính đàn hình tròn.
Đàn tràng dùng trong lễ nầy hình tam giác hay hình
bán nguyệt đắc dụng hơn loại hình tròn hay hình vuông. Quán tưởng đức
Chuẩn Đề màu xanh lam. Tụng vào những ngày cuối tháng (từ ngày 25 đến
30 âm lịch) vào lúc nửa đêm, 108 biến.
Xuất Thế Gian Đàn Pháp
Đàn tràng nầy chỉ giành riêng cho những vị sống
trong các hang động, mật thất tĩnh tu nên được gọi là "xuất thế
gian". Kinh Đà Ra Ni viết rằng: "Hành giả ở núi rậm, hang sâu, hang
cốc thăm thẳm thù thắng, già lam thanh tịnh. Đem hết lòng đại bi của
mình để trì tụng thì lợi lộc vô biên cho thế giới hữu tình..."Thời gian
trì tụng chú Chuẩn Đề nầy kéo dài 4 tháng 4 ngày không bao giờ gián
đoạn, không liên hệ với thế giới bên ngoài. Các vị danh sư thường dùng
đến Đàn Pháp nầy để cứu vớt chúng sanh.
Hành giả ngồi nhiều hướng, tuy nhiên tốt hơn hết là
hướng Đông. Mặt tượng Chuẩn Đề Bồ Tát thì hướng về phía Tây, trước
tượng Bồ Tát Chuẩn Đề có đặt kính đàn hình tròn. Hành giả quán tưởng
đến Kim Cang Địa trải đều hoa sen, có vô lượng Thánh Chúng vi nhiễu
(ngồi vây quanh để hộ trì Tam Bảo). Bài trì tụng vẫn là "Cửu Thánh
Phạm Tự Đàn" (bài chú 9 chữ như trên). Quán tưởng nhiều màu sắc
nhưng tốt nhất là màu vàng. Trong thời gian nầy, có thể trì tụng
đến hàng chục vạn biến bài chú trên.
Trong 5 loại Đàn Pháp kể trên sau khi trì tụng gần
xong thì hành giả tụng bài Chuẩn Đề Công Đức: "Tịch tịch tâm
thường tụng; Nhất thiết chư đại nạn; Vô năng xâm thị nhân; Thiên
thượng cập nhân gian; Thọ phước như Phật đẳng; Ngộ thử như ý châu;
Định hoạch vô đẳng đẳng."
Trong Mật Giáo, tất cả những Nghi Quỷ Thần Bí của
lễ Điểm Đạo và Đàn Pháp đều nhắm vào việc mang lại cho hành giả những
điều ước mơ, hoài vọng của mình trên đường tu tập cũng như trong đời
sống hàng ngày của mình và gia đình thân quyến.
Trong hai nghi lễ nầy, thường phải nhờ đến công năng
của Gia Trì Lực (Adhistana). Gia Trì Lực là "năng lực phi
thường, bất biến, vô ngại của chư Phật, chư Bồ Tát hộ trì cho hành
giả tiến tu thuận lợi. Đại nguyện hộ trì của chư Phật và chư Bồ Tát
đều hướng về lòng từ bi, hỷ xã, thanh tịnh, cho nên trong khi hành
lễ, quán tưởng đến chư vị nầy sẽ đạt đượcý nguyện theo sở đắc" (theo
Choegyam Trungpa).
Đà Ra Ni Mật Chú (Mantras)
Mật chú nầy có nghĩa là "Tổng trì" có khả năng lớn
lao và bảo vệ giữ gìn tất cả những khả năng tu tập của hành giả. Khả
năng nầy bảo vệ thiện duyên, khuyến khích làm điều lành, tạo thiện
niệm, giữ gìn 3 mặt: thân, khẩu, ý luôn luôn thanh tịnh, loại bỏ
những tạp niệm thường hay gây nhiễu loạn trên con đường tu hành.
Các vị Chân sư, Lạt Ma thường hay quán tưởng trì
tụng Chú Đà Ra Ni nầy trong mỗi giờ, mỗi ngày, tạo được khả năng hùng
mạnh, gọi là "Kim Cương Lực". Mật Chú Đà Ra Ni còn được gọi là "Chơn
Ngôn" tức là những ngôn ngữ vi diệu, sâu sắc nhất của chư Phật và chư
Bồ Tát trong nguyện độ chúng sanh. Đã là Mật ngữ, thì không thể nào
giải lý được và phân tách ra được.
Khi trì tụng, bất cứ ngôn ngữ nào cũng dùng
nguyên văn của Mật Ngữ nầy, thì mới thu được kết quả. Tánh chất "bất
khả tư nghị" của Mật Chú càng gia tăng thêm sức mạnh của ngôn ngữ
bùa chú.
Theo Đại Nhật Kinh thì "Khi trì tụng Đà Ra Ni
Kinh, tất cả tà ma, ngoại đạo đều lánh xa, lo sợ và hàng phục. Những
ác niệm trong tâm của hành giả cũng tiêu tan. Những tham vọng của
con người được dập tắt ngay từ khi khởi động. Vì vậy, được gọi là
pháp thuật vô biên".
Trong Kinh "Lầu Cát" có đoạn viết: "Tất cả chư Phật
đều do Đà Ra Ni sinh ra. Chơn ngôn chính là mẹ của chư Phật, thành
chủng tư của chư Phật. Nếu không có Chơn Ngôn thì sẽ không thành
Chánh Giác được. Chơn Ngôn có sức mạnh vô biên, vô tận, vô ngại. Tất cả
Tam Tạng Kinh Điển đều được khởi phát từ Đà Ra Ni mà ra cả. Thành thử
trong Kinh "Tối Thượng Đại Thừa Bảo Vương" có nói đến bốn thừa: 1-
Thanh Văn Thừa 2- Duyên Giác Thừa 3- Phương Quảng Đại Thừa. 4- Tối
thượng Kim Cang Thừa. Thừa sau nầy chính là Đà Ra Ni Tạng vậy.
Tất cả các pháp đều do Kim Cương Thừa lưu xuất.
Trong Kinh "Thần Biến Sao" có đoạn nói rằng: "Trong tất cả các giáo
phái Phật Giáo đều phát khởi từ 2 ngọn núi Tích Thạch và Côn Lôn;
cũng như muôn hạnh nguyện thì đều do Đà Ra Ni mà ra cả..."
Dùng cho Thân Trung Ấm (khi chết)
Trong Kinh "Quan Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Thần
Chú" có đoạn viết: "Nếu có người trì tụng Thần Chú, bất cứ trong
truờng hợp nào, kể cả lúc lâm chung, đều được thành tựu hết thảy.
Những người trì chú chẳng những có công năng lợi lạc hữu tình, lại còn
có thể cứu thoát được u linh".
Kinh "Thiên Thủ Thiên Nhãn Đà Ra Ni" cũng viết:
"Bất luận người nào trì chú, thường tránh được những trường hợp bị
ác tử như sau đây:
1- Trì chú sẽ không bị chết do đói khát, khốn khổ
gây ra, có thể thoát nguy nhanh chóng, do chuyển lực và sự hộ trì của
Tam Bảo.
2- Trì chú có thể tránh không bị chết do tra khảo,
đánh đập của những thế lực bạo tàn hành hạ.
3- Trì chú sẽ không bị oan gia tương báo, không do
những cuộc trả thù mà chết.
4- Trì chú sẽ không bị chết trong khi lâm trận, đối
mặt với quân thù trực tiếp hay gián tiếp.
5- Trì chú sẽ không bị chết do những loài ác thú,
những âm mưu thâm độc do kẻ khác ám toán.
6- Trì chú sẽ tránh được cái chết do những nọc độc
của rắn rít, trùng độc, thú độc, cây độc do vô ý gây nên.
7- Trì chú sẽ không bị chết do nước trôi, lửa cháy,
tai trời, ách nước, thiên tai, thủy họa.
8- Trì chú sẽ không bị chết do âm mưu ám toán bằng
những khí cụ hay ám khí. Chất độc thường được hóa giải dễ dàng.
9- Trì chú sẽ tránh được cái chết do cuồng tâm
loạn trí.
Những trường hợp đó có thể an định tâm trí dễ
dàng, loại trừ những khủng hoảng xẩy ra, nhiếp tâm trở về với an lạc.
10- Trì chú sẽ tránh được cái chết do tà thần, ác
quỷ, nộ khí, tiểu nhân, độc môn, tà đạo.
11- Trì chú sẽ không do mình tự hại mình, trong
những trường hợp không ổn định tâm trí. Không có trường hợp tự sát, tự
hại. Không rơi vào tình trạng ác tâm, yếm tâm, mị tâm".
Trong Kinh "Bất Không Quyến Thầm Chú Tâm" có nói
thêm về việc trì tụng trong lúc lâm chung như sau:
1- Khi mạng lâm chung, nếu trì tụng sẽ thù thắng
được đức Quan Thế Âm Bồ Tát thị hiện tướng Tỳ Kheo đến trước mặt để
an ủi và dẫn độ.
2- Có trì tụng trong lúc đó, thì mạng chung sẽ được
yên ổn, không gây đau đớn, thác loạn, không trải qua những thống khổ
dằn vặt trong giây phút cuối cùng cuả kiếp người.
3- Lúc lâm chung, nếu biết trì tụng, thì mắt không
trợn lớn lên khủng khiếp, miệng không hả méo mó, tay buông thong
thả, thong dong, chân duổi ngay ngắn, không phản tiết ra những chất
dơ ứ đọng trong thân thể .
4- Lúc lâm chung, biết trì tụng, sẽ được an trú theo
chánh niệm, ý không loạn tưởng, hóa thân, tái sanh cũng được dễ dàng,
nhanh chóng và thích ứng.
5- Lúc lâm chung, trì tụng chú Chuẩn Đề, sắc mặt
vẫn ung dung, thoải mái, không bị dằn vặt, đau đớn.
6- Khi lâm chung, còn trì tụng, thì tùy theo nguyện
sanh, sẽ về cõi Tịnh Độ.
7- Trì tụng trong lúc nầy, sẽ thấy hiện ra hình ảnh
của chư Phật, chư Bồ Tát, Hộ Pháp bảo vệ.
Phóng tâm và nhiếp tâm
Trong Đại Phật Kinh, đức Phật dạy ngài Ananda rằng:
- "Này Ananda! Hãy nên ghi nhớ điều nầy. Nếu không có hình tướng thì
không có Pháp; nếu không có những thức ăn, thức uống, thì không có
Pháp; nếu không có y phục, những vật che thân, thì không có Pháp; như
vậy, hãy giữ gìn cơ thể của ông để phục vụ Pháp".
Thành thử, trong truyền thống Mật Tông, sự liên hệ
giữa các hình tướng vô cùng quan trọng, nhưng không phải vì vậy, mà
chúng ta biến nó thành những cuộc phiêu lưu mãi trong hình hướng đó.
Hình tướng là giả, Phật tâm là thật; không thể theo hình tướng mà bỏ
Phật Tâm đi được".
Chúng ta có thể trở thành những người ăn chay trường,
nhưng không vì thế mà chê bai, chỉ trích những người ăn mặn được. Chúng
ta có thể chỉ mặc toàn đồ vải bông, nhưng không vì thế mà chỉ
trích những người dùng da thú. Bất cứ trong lối sống nào ta chọn
cũng đều trở thành thái quá.
Ngài Milarepa nói: -" Nếu có người ăn chay trường
sẽ thôi không dùng thịt nữa, nhưng anh ta vẫn có thể khoan khoái ăn
một trái chuối hay nấu một quả cà với con tâm khát máu, thì vẫn tìm
trong hương vị chay đó hình ảnh của miếng thịt mở béo ngậy. Như thế
chẳng lợi lộc gì, mà còn gây phiền não trong tu tập. Phải hướng tâm
vào đường thiện”.
Ngài Choegyam Trungpa viết rằng: "Thế giới nầy
có đủ các loại thân và những trạng thái của thân, tùy theo từng trường
hợp: câm, điếc, đui, bại liệt hay mạnh khoẻ. Nhưng tất cả chúng sanh
đều có một cảm giác căn bản giống nhau. Đó là cảm giác về thân, cái cảm
giác của thực tế trong một cấp bậc vô cùng đơn giản..."
Chiêm nghiệm về bản thể sự vật, phá bỏ vọng tưởng,
mới thấy được con đường đi dần đến Giải Thoát vậy.
Lục Tự Đại Minh
Trong Mật Chú Tây Tạng,
Lục Tự Đại Minh (OM MANI PADME HUM = Án Ma Ni Bát Di Hồng) thuờng được
xem là phần Khai Ngộ quan trọng trong mọi lễ thức.
Đã là Mật Ngữ, thì không
thể và không được giải thích với người giới tử. Về những biểu hiện
của Lục Tự Đại Minh (6 chữ toả ánh sáng) có thể nhận định tổng quát
như sau:
OM: biểu trưng cho sự hoà
hợp của Trí Tuệ vào Thân, Khẩu, Ý đã được giác ngộ.
MANI: là Ngọc Như Ý, viên
ngọc quý nhất nằm trong tay của vị Bồ Tát, biểu trưng cho sự Thanh Tịnh
tuyệt đối.
PADME: Hoa sen, biểu
trưng cho giải thoát. Cũng là hình ảnh tự tại, thoát ra ngoài vòng
sinh tử, luân hồi. Hoa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Vị Đại Bồ Tát không còn bị ràng buộc do nghiệp báo
và sinh tử. Ngài đã tự tại ra hẳn ngoài vòng sinh tử, luân hồi,
nhưng vẫn trở lại cuộc đời để cứu vớt chúng sanh theo đúng hạnh
nguyện.
HUM: tượng trưng cho Trí Tuệ sáng suốt. Đây là
thành tựu lớn lao của chư Phật. Khả năng thành tựu này vô cùng mạnh
mẽ, xoá tan được những phiền não trên con đường tu tập. Ngọc Minh Thần
Chú, phần dẫn nhập viết: "Nếu trì tụng Lục Tự Đại Minh ngay chỗ ở của
mình, thì có vô lượng chư Phật, Bồ Tát, Thiên Long Bát Bộ nhóm họp,
đầy đủ vô lượng Tam muội pháp môn.
6 lời trong mật chú nầy bao gồm thế giới của
Trời, A Tu La, Người, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Địa Ngục. Trì tụng thì
có thể phát chiếu được mọi cảnh giời nầy. Đó là điều quý giá nhất
trong các Mật Chú.
Quán tưởng năm Gia đình Phật (Ngũ Phương Phật)
Gọi là "gia đình", có nghĩa là liên hệ thân thiết.
Một hành động Tantra (Mật) không đơn thuần là những nhận định tổng
quát về thế giới, khu vực trước mọi diễn biến, mà quán triệt mọi
hiện hữu liên kết với nhau. Đây là những nguyên lý giải đáp liên hệ
của năm vị Phật. Đó là - Kim Cang (Vajra) - Bảo Vương (Ratna) - Liên
Hoa (Patma) - Nghiệp (Karma) - Phật (Bouddha)
Theo truyền thống Mật Tông, chúng ta thường giao
tiếp với nhiều hạng người trong những gia đình Phật. Mỗi gia đình Phật
thường có 2 khía cạnh:
Khía cạnh tiêu cực thuộc về bệnh hoạn;
Khía cạnh tích cực về ánh sáng trí tuệ hay
giác ngộ.
Biết những tâm bệnh để
giải trừ xa lánh; Phát triển ánh sáng trí tuệ để nâng cao đạo hạnh, đó
là mục đích của tu trì.
1- Kim Cang:
Gia đình đầu tiên là Kim Cang.
Kim Cang có nghĩa là gia đình bền vững, hội tụ và
hoà hợp với nhau trong bất cứ hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Biểu hiện
của gia đình nầy là viên Kim Cương, có tánh bền chắc không thể nào huỷ
hoại được. Chiếc chày Kim Cương trong Mật Tông có 5 cạnh, biểu tượng
cho sự cảm thọ là: sân, kiêu hãnh, tham dục, ganh ghét và bất cần
đời.
Thiện niệm của gia đình nầy có nghĩa là sáng suốt
tiếp cận với mọi sự vật một cách vững chắc. Trong khi đó, bệnh tâm của
gia đình nầy là tánh hay sân hận và chấp thủ. Phải biết tăng trưởng
thiện niệm và đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phải trì
dụng đức Thường Tinh Tấn Bồ Tát.Khi trì tụng thì mặt hướng về phương bắc
2- Bảo Vương
Gia đình thứ nhì là Bảo Vương. Bảo Vương có nghĩa là quý giá, trang
trọng. Biểu hiện của gia đình nầy là sự giàu sang, độ lượng. Thiện niệm
của gia đình nầy đức từ bi Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là
ích kỷ, tự tư tự lợi. Phải biết tăng trưởng thiện niệm và đồng thời trấn
áp bệnh tâm.
Muốn được như vậy phải trì dụng đức Quán Thế Âm Bồ
tát. Khi trì tụng thì mặt hướng về phương nam.
3- Liên Hoa
Gia đình thứ ba là Liên Hoa. Liên Hoa có nghĩa là hoa sen, mùi thơm
ngào ngạt. Biểu hiện của gia đình nầy là sự tinh khiết.
Thiện niệm của gia đình nầy tinhlọc, sáng suốt
trong mọi nhận định.Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là mù quáng,
mê mờ. Phải biết tăng trưởng thiện niệm và đồng thời trấn áp bệnh tâm.
Muốn được như vậy phải trì tụng đức Đưong Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.
Khi trì tụng thì mặt hướng về phương đông.
4- Nghiệp Gia đình thứ tư là Nghiệp.
Nghiệp có nghĩa là những
nghiệp báo và nghiệp quả, tức là hậu quả gây nên do sự tu hành trong
kiếp trước. Biểu hiện của gia đình nầy là trí tuệ viêm mãn (Thành
Sở Tác Trí). Thiện niệm của gia đình nầy xác định tánh vô thường ganh
ghét, hờn giận, khong hoán cải được.
Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là tham
vọng muốn nắm nhiều quyền hành. Phải biết tăng trưởng thiện niệm và
đồng thời trấn áp bệnh tâm. Muốn được như vậy phải trì tụng đức Phật A
Di Đà. Khi trì tụng thì mặt hướng về phương tây.
5- Phật Gia đình thứ năm là Phật.
Phật trong phạm vi nầy có nghĩa là giải thoát. Biểu hiện của gia đình
nầy là vòng tròn viên mãn. Thiện niệm của gia đình nầy đi vào chánh
niệm. Trong khi đó, bệnh tâm của gia đình nầy là mê mờ, vô minh, đầy
tham vọng. Phải biết tăng trưởng thiện niệm và đồng thời trấn áp bệnh
tâm. Muốn được như vậy phải trì tụng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật.Khi trì tụng thì mặt hướng về trung ương.
Nội Ngoại Đàn Pháp
Như đã trình bày trong phần trên, Nội Ngoại Đàn Pháp
là sự tương quan giữa chúng ta với thế giới thọ uẩn. Trong sinh hoạt
bình thường của con người, lúc nào cũng tiếp xúc với thế giới của lục
trần (Ayatanas), tức là: sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp. Những trần
cấu nầy tương quan với 6 giác quan (lục căn): nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý.
Theo nhận định vật lý thế gian, chỉ có "ngũ quan";
còn "ý" (suy nghĩ) được loại ra, đưa vào phần nội tâm. Những trong luận
lý học Phật Giáo, thì sự suy nghĩ (ý) lại được ghép vào một trong "lục
căn", vì chính sự suy nghĩ nầy đã điều chỉnh 5 giác quan kia.
Những nhận thức của chúng ta luôn luôn thay đổi và thích ứng trong
những điều kiện khác biệt nhau, cho nên được cả 2 sắp xếp như một Đàn
Pháp.
Các dòng phái chính Mật Giáo
Dòng phái Kagyu
Dòng phái Karma Kagyu là phái lớn nhất trong 4 nhánh
nguyên thủy lớn của truyền thống Dakpo Kagyu. Đây là tên được đặt
cho hệ thống các dòng giáo phái truyền từ ngài Gampopa (1079 - 1153), vị
học giả uyên thâm và bậc thầy tâm linh, mà cuộc đời đã được đức Bổn Sư
Thích Ca tiên tri. Đức Phật dạy: Một trong các đệ tử (của Ngài), một
vị tăng y sĩ tên là Kumara, trong đời tương lai cũng sẽ là một tăng y
sĩ, ở nơi phía bắc gần dòng sông Lohita và sẽ lập nên một trường phái
Thiền định. Gampopa là một vị y sĩ giỏi nghề, trước tiên là một vị
tăng Kadampa, nhận được giáo huấn từ Jayonda, Jayulwa, Geshe Nyugrumpa,
Shawo Ganpa.
Ngài học về "tiệm đạo" (lamrim) của ngài Atisa và
giáo huấn của ngài Dromtonpa. Ngài trở thành chưởng môn của dòng
Kadampa. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài nhan đề "Sự trang hoàng ngọc
ngà của Giải thoát" và các thiên Luận Giải cơ bản nhất về giáo lý
Kadampa. Về sau, ngài nhận giáo pháp Kagyu về Đại Ấn và "Sáu Yoga của
Naropa" từ ngài Milarepa. Ngài được mệnh danh là "Hai dòng trở
thành một". Gampopa tổ chức các dòng nầy thành một khối hữu cơ, lấy tên
mình là Dakpo Lharjie (y sĩ của vùng Dakpo) đặt tên cho trường phái,
sau đổi thành dòng Dakpo Kagyu.
Sau khi ngài viên tịch, hệ thống truyền thừa được
phân chia 4 dòng chánh và 8 dòng phụ. 4 nhánh chính là: Kamtshang hay
Karma Kagyu, Tsalpa Kagyu, Baram Kagyu và Phagmo Drupa Kagyu.
Vị thầy chính của Gampopa là yogi nổi tiếng và nhà
thơ Milarepa (1040 - 1123), đã nhận sự truyền thừa từ ngài Marpa "dịch
giả", học trò của ngài Naropa và Maitripa. Như thế ngài trở thành
chưởng môn của phái Kagyu. Dòng truyền trực tiếp của Dakpo Kagyu như
sau: Phật Pháp Thân Vajradhara, Tipola, Naropa, Marpa Lotsawa,
Milarepa, Gampopa. Dòng truyền gián tiếp liên quan đến Đại Thủ Ấn
là: Phật Pháp Thân Vajradhara, Ratnamati, Saraha, Nagarjuna,
Savaripa, Maitripa, Marpa Lotsawa, Milarepa, Gampopa. Giáo pháp Kagyu
bắt nguồn từ tư tưởng của đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, được xem là hoá
kiếp của Pháp thân (Dharmakaya).
Một tông phái khác có liên hệ với Kagyu Pa do ngài
Khyupo Naljor ) sinh năm 1310) thành lập. Tên phái nầy là Shangpa
Kagyu; phái nầy có một hệ Đại Ấn Quyết riêng, do em gái của ngài
Naropa là Niguma truyền lại, tồn tại cho đến ngày nay.
Dòng phái Nyingma
Truyền thống đầu tiên của Tây Tạng là Nyingma (hay
Cổ Mật), phát khởi từ công việc truyền giáo của các vị thầy thế kỷ thứ
VIII là Guru Padma Sambhava, vua Trisong Detsun và Bồ tát
Santarakshita. Các hệ phái của dòng Nyingma ban đầu gồm các hành giả
tu sĩ lẫn cư sĩ; họ theo giáo lý kinh và Mantra của thời kỳ dịch thuât
ban đầu.
Then chốt giáo huấn của dòng phái Nyingma là Maha
Ati hay là "Đạo toàn thiện", được truyền vào Tây Tạng ở thế kỷ thứ
VIII, bởi học giả và thiền giả Vimalamitra. Giáo huấn của Maha Ati chỉ
thẳng Trí Tuệ Toàn Thiện tự nhiên, và có thể xem là giáo lý tối thượng
của Phật đạo trong giai đoạn đó. Tantra chính của Nyingma là Guhyu
Garbha hay "Mật Yếu".
Có 3 dòng có thể phân biệt trong giáo phái
Nyingma: (1) Dòng lịch sử hay Karma Pa (Tuyên giáo) dựa trên Hiển
giáo pháp của ngài Phổ Hiền; trong đó có các giáo pháp quan trọng
của 3 thừa chỉ có trong dòng Nyingma, như: Maha Yoga, Anu Yoga và Ati
Yoga. (2) Dòng huệ nhãn: Dựa trên sự tiếp xúc bởi báo thân của các vị
đạo sư (đã nhập diệt) trong lúc nhập định, theo lời khai thị của các vị
đó để tuyên giáo các giáo pháp cụ thể, trong những thời kỳ nhất định.
Chẳng hạn: Longchepa được xem là trực tiếp nhận sự
khai thị của ngài Padma Sambhava. (3) Dòng trực tiếp hay Terma: Giáo
pháp đã các kho tàng pháp bảo hay "bản văn được tàng trữ" hay "dòng
thị hiện sâu thẳm". Trong đó, phải kể đến bí lục do ngài Padma
Sambhava truyền lại, chẳng hạn như "Tử Thư" (Bardo Thodol).
Những vị chân sư vĩ đại của truyền thống Nyingma
gồm bậc toàn giác Longchen Rabjampa (1308 - 1363), Jime Lingpa (1729
- 1797) và Ju Mipham (1848 - 1914). Hai vị trưởng phái hiện giờ của
trường phái Nyingma là Minling Trichenvà Dudjom Jigdral Yeshe Dojre.
Dòng phái Sakya
Những dòng phái Mật Tông về sau nầy của Tây Tạng
đều thuộc về thời kỳ "tân dịch thuật", bắt đầu trong thế kỷ thứ X, khi
Rinchen Zangpo (958 - 10521) và các học giả khác tìm ra cách dịch
những loại kinh điển mới, nhấn mạnh đến sự chính xác của ngữ nguyên,
thay vì lối dịch tự do của các dòng phái dịch thuật cổ điển. Truyền
thống Sakya và truyền thống Kagyu đều khởi phát từ thế kỷ thứ XI, đều
đặt căn cứ trên giáo trình Tantric mới.
Tu viện Sakya về sau trở thành trung tâm chính của
dòng phái Sakya Pa, được xây dựng lên vào năm 1073, do ngài Kongchog
Gyalpo thuộc dòng phái "Khon" dựng lên. Dòng phái có ảnh hưởng lớn nầy
trước kia thuộc về dòng phái Nyingma, nhưng về sau thì Kinchog Gyalpo
đã học các Tantra mới với ngài Drogmi Lotsawa và pháp sư người Ấn,
ngài Gayadhara. Truyền thống Sakya được định hình do công trình của
ngài Kingcgog Gyalpo, cùng đại đệ tử là ngài Sachen Hunga Nyingpo
(1092 - 1158) và 4 trong "5 vị đại sư" là Sonam Tsemo (1142 - 1182),
Jetsun Drakpa Gyaltsen (1147 - 1216), S. Pandita (1182 - 1251) và
Chogyal Phakpa (1235 - 1280).
Trường phái Sakya là đặc thù trong giáo huấn được
kết hợp giữa Sutra (kinh) và Mantra (mật chú) về "Lam Dre", hay còn
gọi là giáo trình "đạo và quả", được phát triển bởi những thành tựu giả
người Ấn Độ là ngài Virupa.
Tantra chính của dòng phái Sakya là Hevajra và các
thần chính là Hevajra và Vajrayogini. 3 tiểu phái của dòng phái nầy là:
Sakya Pa, Ngor Pa và Tshar Pa; họ không đồng nhất trong vấn đề nghi
lễ và thờ cúng. Trưởng phái hiện thời của truyền thống Sakya Pa là đức
Sakya Tridzin (1945 - ?), một vị hoá thân của đức Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát, vị Đại Bồ Tát về phương diện trí huệ viên mãn. Ngoài ra, cũng
cần nhắc đến một truyền thống liên hệ khác của dòng phái nầy là
Kadam.
Phái nầy cũng phát khởi từ thế kỷ thứ XI, nhưng về
sau thì đã không còn được phát triển sâu rộng như một giáo phái độc
lập nữa. Những giáo huấn chính của dòng phái nầy đã bị ảnh hưởng chi
phối của nhiều giáo phái khác. Về mặt lãnh đạo, cũng không tránh khỏi
tình trạng nầy.
Dòng phái Gelug Pa
Giáo phái nầy được lập nên do vị đại pháp sư Tây
Tạng Tsong Khapa Lozang Dragpa (1367 - 1419). Trong thời gian trau dồi
kiến thức, vị nầy đã theo học với các vị thầy của tất cả các dòng phái
chính và biểu lộ những tính cách hoành tráng của một vị học giả đa tài.
Ngài đã quy tụ được nhiều đệ tử và sau đó đã lập ra dòng phái
Gelug Pa.
Mối quan tâm hàng đầu của dòng phái nầy là: (a) Sự
kiên định vào giới luật; (b) con đường giác ngộ. Truyền thống nầy ảnh
hưởng từ ngài Atisa. Những điểm cơ bản nầy dựa trên giáo lý của ngài
Atisa, thành thử nhiều nhà nghiên cứu thường gọi là dòng "Kadam mới".
Quan điểm triết học riêng của Gelug là Trung Quán Prasangika, qua
giải thích của ngài Tsong Khapa. Còn về Tantra, dòng phái nầy nhấn
mạnh đến các Tantra: Guhyusamaja, Vajra Bhairava và Cakra
Samvara.
Về sau, truyền thống Gelug Pa được xiển dương vững
chắc thêm do công trình của những ngài: Khedrupje (1385 - 1438) và
ngài Kinchog Jigme Wangpo (1728 - 1781). Vị trưởng phái nổi tiếng
hiện nay là ngài Ling Rinpoche, thầy dạy của đức Đạt Lai Lạt Ma thứ
XIV, Tenzin Gyatso (1935 - ?), hiện thân của lòng Đại bi của đức Quan
Thế Âm Bồ Tát. Trên đây là những dòng phái chính. Thêm vào đó, là sự
đóng góp của nhiều dòng phụ khác của Phật Giáo Tây Tạng. Trong đó, có
2 phụ phái quan trọng là: Shijay và Chod Yul của ngài Dampa Sangye và
nữ thiền giả Machig Labdronma.
Một dòng khác có tên là Urgyen Nyendrug do ngài
Urgyenpa Rinchen sáng lập (1299). Dòng nầy rất ảnh hưởng đối với phái
Drugpa và Kamtshang Kagyu, sau đó thì tan biến trong hai dòng nầy. Một
trong những dòng phái đã gây ra nhiều cuộc tranh luận nhất là dòng phái
Jonang, thành lập do nhà triết học Dolpopa Sherab Gyaltshan (1292 -
1361). Trường phái nầy chủ trương về "Giáo lý Tánh Không". Quan
điểm nầy xuất phát từ Uttara Tantra của Maitreya. Trường phái nầy
xác định: "Nếu như vạn vật là thực tại rốt ráo, trống không, không tỳ
vết, thì đó là thực hữu".
Học thuyết nầy đã bị nhiều học giả thuộc dòng phái
Prasangika công kích. Dòng phái Gelug Pa chống đối không kém, nhất là
vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 (1615 - 1680). Sau đó thì suy tàn dần, không
hiện hữu như một dòng phái.
Tuy vậy, giáo lý của họ thì vẫn được duy trì và
truyền bá do một số nhà nghiên cứu thuộc các dòng phái Kagyu,
Nyingma và Sakya.
Hai hệ thống "Chơn Ngôn Thừa" và "Kim Cang Thừa" của
Mật Giáo sau khi xuất hiện, thì tư tưởng Mật Giáo phát triển mạnh mẽ
trên lãnh thổ Ấn Độ và bành trướng sang các nước khác. Trong 2 hệ
thống nầy, Chơn Ngôn Thừa chú trọng đến phần lý luận; trái lại, Kim
Cang Thừa chú trọng phần thực tế, mà kém phát triển phần lý luận.
Từ khoảng thế kỷ thứ X trở về sau, Kim Cang Thừa kết
hợp với tông phái Sàkta của Ấn Độ Giáo, cho nên phái nầy đã bày ra
những lối hành pháp theo tà giáo, dần dà đã đi vào đường đọa lạc, thờ
chủ nghĩa khoái lạc, dục vọng, cho đó là diệu lý; thành thử đã làm
mất hẳn bản lai chân tướng của Mật Giáo.
Trong lúc các Mật Giáo đang phát triển, các vương
triều Pàla vùng Đông Ấn sùng bái Phật Giáo, nhất là triều đại của vua
Dharmapala (Pháp Hộ) đã cho kiến thiết ngôi chùa rất lớn ở thế kỷ VIII,
tứclà chùa Vikramasila, để làm nơi tổ chức đàn tràng căn bản cho
Phật Giáo. Các học giả nổi tiếng của Mật Giáo đều được đào tạo từ ngôi
chùa nầy.
Tại ngôi chùa nầy nhiều nhà tu hành đã trước tác
nhiều kinh điển Mật Giáo. Chẳng hạn: Kinh "Như Lai Tam Nghiệp Bí Mật"
(Tathagata Guhyuka Gahyamaja), Kinh Sadhanamàlâ và nhiều "nghi quỹ" (Tantra).
Kinh "Như Lai Tam Nghiệp Bí Mật" có ghi chép rất nhiều lối tác pháp
huyền bí; đó là do ảnh hưởng của giáo phái Sàkta của Ấn Độ Giáo. Trên
phương diện truyền bá tư tưởng Mật Giáo, và khả năng để Mật Giáo phát
triển trên đất nước Ấn Độ, Trung Hoa, Tây Tạng cũng như nhiều nước nhỏ
khác trong vùng, có các đại học giả như ngài Vô Thiện Ý (Subha
Karasimha) (637 - 735), ngài Kim Cang Trí (Vajra Bodhi (671 - 741),
ngài Bất Không Kim Cang (Amoghavajra) (705 -774)...
Những vị nầy không những làm cho Mật Giáo hưng
thịnh ở trong nước, mà lần lượt đem tư tưởng Mật Giáo truyền sang
Trung Hoa, phiên dịch nhiểu kinh điển Mật Giáo ra chữ Hán, làm cho Phật
Giáo ở Trung Hoa phát triển mạnh mẽ. Vào thế kỷ thứ VIII, ngài Liên
Hoa Sanh (Padma Sambhava) đem Mật Giáo truyền sang Tây Tạng, sáng lập
ra Lạt Ma Giáo (Lamaism) ở Tây Tạng.
Từ thế kỷ thứ VIII trở về sau, có nhiều vị học giả
Mật Giáo nổi tiếng nhiều nơi phần đông để xuất thân ở ngôi chùa
Vikrasila. Vào thế kỷ XI, ngài Dipunkarasrijinana (tức Atisa) cũng
sang Tây Tạng, truyền bá tư tưởng Mật Giáo và trở thành một nhà đại
phiên dịch của Tây Tạng. Những nước khác như Miến Điện, Tích Lan,
Kampuchia, đảo Java, đảo Sumatra... cũng đều được Mật Giáo truyền vào.
Những công trình kiến trúc Mật Giáo nổi tiếng như Angkor Thom, Angkor
Wat (thế kỷXII) đều kết tinh kiến trúc Mật Giáo.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nghethuatPhatgiaoTayTang.htm