- Thần tăng Thiên Trúc
- Phần V
- 45.
Ngài Na Liên Đề Lê Da Xá
- (Narendrayasas, dịch là Tôn Xưng)
[^]
Ngài là người nước Ô Trường
ở bắc Thiên Trúc, tộc tánh đồng với Phật, tức họ Thích Ca, dòng Sát
Đế Lợi. Năm mười bảy tuổi, Ngài phát tâm xuất gia, rồi đi tham tầm
minh sư học chánh giáo. Năm hai mươi mốt tuổi thọ giới cụ túc. Tánh
tình chất trực và đức hạnh sáng ngời. Nghe các bậc tôn túc thường tán
thán các Phật thánh tích như nước này có bình bát của Phật, nước kia
có thờ y tăng già lê của Phật, nước nọ có thờ Phật Đảnh Cốt,
v.v..., Ngài bèn phát nguyện sẽ đến những nơi đó để chiêm ngưỡng lễ
bái. Lúc vừa thọ giới cụ túc xong, Ngài liền học thông suốt Luật tạng.
Sau năm hạ, Ngài đi du phương các nơi. Tất cả thánh tích như bậc đá trời,
thạch đài, long miếu, bảo tháp, v.v... Ngài đều đi đến những nơi đó
để đảnh lễ chiêm bái. Khi tới chùa Trúc Viên, Ngài trú nơi đó trong mười
năm và thông đạt giáo pháp.
Có một vị tôn đức biết được
căn cơ của người khác, bảo với Ngài:
- Nếu chuyên tịnh tu thì có thể
đắc quả thánh; chỉ e sợ Thầy thích đi du phương thì khó mà thành tựu.
Nếu hôm nay không lãnh hội được lời này, thì lúc về già hối hận sẽ
không kịp !
Ngài đi khắp nơi: Phía bắc đến
núi Tuyết Sơn; phía nam đến nước Sư TửẠ để lễ bái Phật thánh
tích.
Đương thời, quốc vương nước Ô
Trường dùng lòng nhân từ để đối đãi với dân chúng, lại thâm tín
Tam Bảo. Mỗi ngày, vào sáng canh năm quốc vương thức dậy đảnh lễ Tam
Bảo, dâng hương hoa thành khẩn cúng dường. Trời vừa hừng đông thì
nhà vua lên cung điện duyệt xem những việc trong triều nội. Đến giờ thìn,
quốc vương dùng nước hoa để tắm tượng Phật. Mỗi ngày, trong cung điện
thường có hàng trăm tăng chúng thọ trai. Quốc vương cùng phu nhân tự tay
dâng thức ăn cúng dường chư tăng. Thọ trai xong, quốc vương tập võ nghệ.
Đến lúc hoàng hôn thì tự tay sao chép kinh điển, và cùng chư danh tăng
cao đức đàm luận nghĩa lý Phật pháp, rồi kế đến là hội nghị với
quần thần việc chánh trị. Đến tối, nhà vua vào chánh điện thờ Phật
để đốt đèn, lễ bái, và tụng đọc kinh điển, rồi mới đi nghỉ.
Hơn ba mươi năm, quốc vương thường hành như thế.
Tương truyền, ở nước Ô Trường,
nơi một ngọn núi thuộc dãy Tuyết Sơn, có hai con đường: Một là con
đường của loài người, và hai là con đường của quỷ. Con đường của
loài người thì cheo leo hiểm trở, còn con đường của loài quỷ thì
thông suốt dễ đi. Hành khách đến nơi đó, thấy hai con đường kia, thường
nhầm đi vào con đường của loài quỷ, nên bị chúng giết hại. Xưa kia,
có một thánh vương làm tượng đá Tỳ Sa Thiên Vương, có cánh tay chỉ
rõ con đường của loài người. Lần nọ ngài Na Liên Đề Lê Da Xá cùng
đồng bạn đi lạc vào con đường của loài quỷ. Vừa biết được đã
đi lầm lạc, Ngài liền tụng thần chú. Những người đồng hành đều bị
quỷ giết hại. Nhờ Ngài tụng thần chú nên được thoát nạn. Do đó,
Ngài đi ngược trở ra, nhưng lại gặp bọn cướp. Ngài lại chuyên tâm tụng
thần chú, nên được thần linh hộ vệ. Bọn cướp định đến cướp bóc,
mà đột nhiên chẳng thấy Ngài ở đâu. Ngài lại đi về hướng đông,
qua các nước lân cận. Vì gặp nạn binh đao, đường lộ trở về hướng
tây bị cắt đứt, nên Ngài không có cách chi quày về bổn quốc.
Do đó, cứ tùy theo gió lưu chuyển,
Ngài đến biển Nam Hải, rồi đi suốt bảy ngàn dặm để vào nam. Nơi đó
cũng không an, nên Ngài sang nước Tề, cư trú tại kinh đô vào năm (556).
Văn Tuyên Đế gặp Ngài bèn cung kính lễ bái cúng dường thâm hậu. Bấy
giờ, Ngài được bốn mươi tuổi. Văn Tuyên Đế bèn an trí Ngài trú tại
chùa Thiên Bình, thỉnh cầu phiên dịch kinh điển. Nhà vua cũng ra lịnh
đem hơn cả ngàn quyển kinh tiếng Phạn tại cung điện, sang chùa Thiên
Bình, đặt tại một gian phòng ở phía trên. Nhà vua cũng cho xây thêm một
đạo tràng trang nghiêm tráng lệ cho Ngài, để biểu thị lòng tôn kính.
Ông lại ra lịnh cho chiêu huyền đại thống sa môn Pháp Thượng, cùng hơn
hai mươi người khác hỗ trợ cho Ngài phiên dịch kinh điển. Sau khi Ngài dịch
xong hơn năm mươi quyển kinh, Văn Tuyên Đế bèn cho lưu hành, để truyền
bá chánh pháp.
Văn Tuyên Đế tín phụng Phật
pháp rất thù đặc. Mỗi lần cầm kinh tiếng Phạn, Ông thường bảo với
quần thần rằng đây là Pháp Bảo vô giá mà Trẫm luôn hằng cung kính.
Mỗi khi xong việc dịch kinh, Ngài
thường thi thố thần chú, hỗ trợ cho triều đình, lập nhiều công trạng.
Những khi được cúng dường lễ vật, Ngài đều không cất giữ làm của
riêng, mà đem cúng lại cho chư tăng cùng người nghèo khổ. Ngài thường
khởi từ tâm, hưng phước nghiệp, cứu giúp tế độ những kẻ bị tù tội;
nơi chợ búa đào những giếng nước, rồi tự tay múc nước cho người. Tại
Cấp Quận ở Tây Sơn, Ngài kiến lập ba ngôi chùa trang nghiêm to lớn.
Ngài lại nuôi dưỡng nam nữ bị bịnh phong cùi, và chu cấp cho họ đầy
đủ vật dụng. Ngài lại thường đi vào các lữ quán, khuyên người trì
sáu ngày chay, cùng phóng sanh. Lần nọ, Ngài bị bịnh cả trăm ngày mà vẫn
chưa khỏi. Văn Tuyên Đế cùng hoàng hậu đích thân đến vấn an. Thấy vậy,
Ngài gượng ngồi dậy để đáp lễ, nói:
- Bần Tăng vốn là khách ngoại quốc,
đức hạnh chưa vẹn toàn. Nay Thánh Thượng giá lâm đến đây để vấn
an, khiến Bần Tăng thật cảm thấy xấu hổ muôn phần.
Lý Kiền Đức lật đổ nhà Tề,
lên ngôi lấy hiệu là Chu Võ Đế. Ông ta cực lực hủy phá Phật giáo.
Trong đắp ba y ca sa, ngoài mặc đồ thế tục, Ngài lánh nạn khắp đó đây
mà không được chút yên ổn. Dân chúng cũng bị điêu linh, đói rách lầm
than. Tuy sức lực mệt mỏi mà thần khí vẫn sung túc, và tự đốc thúc
tùy duyên cứu tế dân chúng lầm than đói rách, cùng thuyết đạo không ngừng.
Bốn năm sau, nhà Tùy lên ngôi, phục
hưng Phật pháp. Đầu niên hiệu Khai Hoàng (581), nhà vua cho vời các nhà dịch
giả vào triều để phiên dịch kinh chữ Phạn, hầu mong hoằng dương chánh
pháp. Vào tháng bảy năm kế, các đệ tử thỉnh Ngài vào kinh đô trú tại
chùa Đại Hưng Thiện. Năm đó, Lý Đông Thảo triệu tập chư tăng dịch
kinh, và ra lịnh cho chiêu huyền thống sa môn Đàm Duyên cùng hơn ba mươi
người khác hỗ trợ Ngài phiên dịch kinh. Nhà vua thường đến lễ bái,
ân cần vấn an, cùng cúng dường thâm hậu.
Trải qua năm tháng du hành khắp xứ,
Ngài vẫn chuyên cần tinh tấn tu đạo, thân thường đắp y Xá Lợi Phất
Đà la Ni. Đêm nọ, Ngài mộng thấy chính tự thân đã thành Phật cùng những
điềm lành khác.
Sau này Ngài đến chùa Quảng Tế,
làm tăng chủ cho chư tăng ngoại quốc, và thường vấn an chư khách tăng,
nên được người người kính trọng thương mến. Ngày nọ, Ngài chợt bảo
đệ tử:
- Ta đã già yếu, nên chẳng bao
lâu nữa sẽ lìa đời. Hôm nay muốn răn nhắc các ngươi rằng Phật pháp
khó gặp, phải nên tinh tấn tu hành học đạo. Thân người khó được; thận
trọng chớ để thời giờ trôi qua vô ích.
Nói xong, Ngài liền thị tịch vào
ngày hai mươi chín tháng hai niên hiệu Khai Hoàng thứ chín (589), thọ tròn
một trăm tuổi. Lúc trước, Ngài đã từng bảo:
- Ta sẽ sống đến một trăm tuổi,
và đồng với Đăng Tiên.
Quả nhiên như lời đó, Ngài sống
đến một trăm tuổi mới nhập tịch. (Đăng Tiên là một vị thạc đức.
Lý giải của Ngài thâm sâu, mà phàm phu thật khó suy lường. Hình tướng
diện mạo của Ngài thật khác thường. Trên đỉnh đầu nổi một cục thịt.
Tiếng nói vang xa tận mây xanh. Đôi tai lớn và dài. Cặp mắt chỉ nhìn thẳng
hay ngó xuống chứ không liếc ngó đông tây. Oai nghi đức tướng không ai
bì kịp).
Ngài Na Liên Đề Lê Na Xá dịch tổng
cộng được 15 bộ và hơn 80 quyển kinh như Bồ Tát Kiến Bảo Nguyệt Tạng
Tạng Nhật Tạng, Pháp Thắng Tỳ Đàm, v.v...
Ngài du hóa hơn bốn mươi năm, đến
khoảng năm mươi vương quốc, đi hơn một trăm năm mươi ngàn dặm, tới
tham phương các vị cao tăng danh đức, cùng nhiều chùa viện thù thắng. Chư
danh tăng nơi thâm sơn cùng cốc, hay tứ hải đều kính phụng Ngài.
46. Ngài Xà Na Quật Đa (Jnanagunta) [^]
Xà Na Quật Đa dịch là Đức Chí Bắc
Hiền Đậu. Hiền Đậu xuất phát từ âm Nhân Đà La Bà Đà Na (dịch là Vương
Xứ, tức là nơi Thiên Đế Thích thường bảo hộ).
Ngài vốn là người nước Kiền Đà
La (dịch là nước Hương Hạnh). Gia thế thường cư trú tại thành Phú Lưu
Sa Lưu La (dịch là cung Trượng Phu). Ngài vốn thuộc dòng Sát Đế Lợi, tục
tánh là Kim Bộ, dịch là Hạng (tức như cổ của con chim khổng tước),
thuộc dòng quý tộc. Người cha tên là Bạt Xà La Bà La (dịch là Kim Cang
Kiên). Thuở nhỏ, ông có hoài bão cao xa; lớn lên có đủ khí tiết thanh
cao, lập thân làm tể tướng. Ông có năm người con, mà ngài Xà Na Quật
Đa là nhỏ nhất.
Lúc nhỏ, ngài Xà Na Quật Đa có đức
tánh chơn trực, sớm phát đạo tâm, thích xuống tóc, nguyện đi xuất gia.
Song thân biết rõ, nhưng không chấp thuận cho Ngài đi xuất gia. Nước đó
có một tự viện lớn gọi là Đại Lâm. Ngài thường đến đó nương tựa,
để mong được tiếp độ thoát ly cuộc sống thế tục. Sau này, Ngài y chỉ
theo sa môn Xà Nhã Na Bạt Đạt La (dịch là Trí Hiền), tu học và thông suốt
ba tạng giáo điển, nhất là luật tạng.
Sau khi xuất gia ngài Xà Na Quật Đa
hiếu kính, chuyên tín thành lời giáo huấn của thầy bổn sư, cũng như y
chỉ tu học để quán thông kinh điển. Bấy giờ các thánh cảnh linh tích
ở xứ Hiền Đậu vẫn còn tồn tại. Do đó, Ngài theo vị thầy bổn sư
đi khắp đó đây để chiêm ngưỡng lễ bái. Vào năm hai mươi bảy tuổi,
lúc được ba hạ, Ngài và thầy bổn sư cùng các vị sa môn khác đồng kết
chí du phương hoằng pháp. Mới đầu, tổng cộng có mười vị sa môn đồng
xuất hành. Trên đường ghé ngang qua nước Ca Ty Thi, họ lưu lại nơi đó
vài năm. Quốc vương thỉnh cầu ngài Xà Nhã Na Bạt Đạt La (thầy bổn
sư của ngài Xà Na Quật Đa) làm quốc sư, khiến ban ích lợi cho quốc dân
không ít.
Sau này, họ đến ngọn núi Tây
Túc cao chót vót, thấu tận trời xanh, thuộc dãy Đại Tuyết Sơn. Kế đến,
họ qua nước Yểm Đát. Nơi đó hoang dã, dân chúng thưa thớt, không có ai
cúng dường thực phẩm. Vì vậy, ngài Xà Na Quật Đa xả đại giới mà tận
lực đi tìm thức ăn, hộ trì tăng đoàn hoằng pháp. Về sau, được thần
linh che chở hộ trì, họ thoát nạn đói nơi miền hoang dã. Họ tiếp tục
đến nước Kiệt La Bàn Đà và Vu Điền. Nơi đó, họ gặp mưa gió tuyết
rét lạnh, nên tạm dừng lại, mà chưa hoằng hóa. Chẳng bao lâu, họ lại
sang Thiện Châu. Bấy giờ là nhằm vào đời Tây Ngụy, niên hiệu Đại Thống
nguyên niên (535). Tuy gặp bao gian nan nguy hiểm mà tâm Ngài vẫn dõng mãnh
tinh tấn. Lúc khởi hành có mười người, nhưng khi đến đó thì chỉ có
bốn người còn sống sót. Vào đời Chu Minh Đế, niên hiệu Võ Thành
(557-560), họ đến Trường An, tạm lưu trú tại chùa Thảo Đường. Nơi đó,
ngài Xà Na Quật Đa đăng tịnh đàn, thọ lại giới cụ túc, rồi tinh tấn
tu hành, từ từ học tiếng Tàu. Nghe thanh danh vị thầy bổn sư (tức Xà
Nhã Na Bạt Đạt La), Chu Minh Đế triệu thỉnh vào hoàng cung vấn đạo, đàm
luận Phật pháp, rồi cúng dường lễ vật trong cấm cung. Thấy không được
tự do nơi cung cấm, nên thầy trò ngài Xà Na Quật Đa trình lên với Chu
Minh Đế. Nhà vua bèn ra lịnh xây chùa Tứ Thiên Vương để thầy trò của
Ngài được cư trú, và khởi công phiên dịch kinh điển, như kinh Thập Nhất
Diện Quán Âm, Kim Tiên Vấn, v.v...
Sau này, lúc Tiếu Vương Tự Văn Kiệm
sang trấn nhậm đất Thục, ông ta thỉnh mời thầy trò ngài Xà Na Quật
Đa đồng hành đến đó. Do nhân duyên ấy, họ theo ông ta qua đó, trụ tại
chùa Long Uyên. Ngài Xà Nhã Na Bạt Đạt La nhậm chức Tăng Chủ ở
Ích-châu, và phiên dịch Quán Âm Kệ, kinh Phật Ngữ, v.v...
Lúc Kiện Đức Võ Đế mộ Đạo
giáo mà hủy phá Phật giáo, bắt tăng chúng hoàn tục, ông ta bắt ngài Xà
Na Quật Đa vào kinh đô, bức bách uống rượu, thi lễ, nhưng Ngài vẫn
kiên trì giữ giới, không lộ chút sợ hãi. Võ Đế thấy Ngài có chí khí
cang cường, nên tha Ngài trở về chùa. Trên đường đi từ vùng Cam Châu hướng
đến Đột Quyết, thầy bổn sư (tức Xà Nhã Na Bạt Đạt La) muốn trở về
phương tây để nhập diệt. Đến Đột Quyết, thầy trò lưu lại. Chẳng
bao lâu ngài Xà Nhã Na Bạt Đa La nhập diệt nơi đó. Từ đó về sau, Ngài
Xà Na Quật Đa một hình một bóng đi khắp đó đây, không có nơi an trú.
Ngài đến vùng Bắc Địch, rồi tùy
phương tiện hoằng hóa lợi sanh. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ năm (585),
tại chùa Đại Hưng Thiện, sa môn Đàm Duyên cùng hơn ba mươi sa môn khác
khởi sự phiên dịch. Nghe Xà Na Quật Đa trú tại Bắc Địch, họ bèn
dâng tấu cầu thỉnh Ngài trở về kinh đô. Nhà vua liền ban sắc lịnh, cầu
thỉnh bốn lần, mà Ngài vẫn không đi, trú mãi ở nơi đó đến mười
năm. Sau này, vì cảm thấy người đời biết trọng Tam Bảo, nên Ngài trở
về kinh đô. Bấy giờ Văn Đế đang trú tại Lạc Dương, nghe tin Ngài đến
kinh đô nên rất vui mừng, liền tới vấn an, và cung thỉnh phiên dịch
kinh điển. Thấy những kinh điển mới vừa được phiên dịch, lời văn rất
thô sơ, và nghĩa lý chưa rõ ràng, nên Ngài dốc sức kiểm thảo, nhuận sắc,
trau chuốt lại. Bấy giờ ngài Na Liên Đề Lê Da Xá đã nhập diệt, nên
chỉ còn một mình ngài Xà Na Quật Đa đảm nhận trọng trách kiểm duyệt
kinh điển. Ngài lại mời hai anh em dòng Bà La Môn là Cao Thiên Thủ và Cao
Hòa Nhân, trợ giúp duyệt bản kinh tiếng Phạn. Lại có mười vị danh đức
sa môn như Tăng Hưu, Pháp Kinh, v.v... giúp Ngài hiệu đính, duyệt xét tông
chỉ ý thú của kinh điển.
Cách Vu Điền về phía đông nam hai
ngàn dặm có nước tên là Giá Câu Già. Quốc vương tín phụng Phật giáo
Đại Thừa. Trong cung điện có chứa ba bộ kinh như Ma Ha Bát Nhã, Đại Tập,
Hoa Nghiêm. Quốc vương thường tự chia thời khoá tụng đọc, dâng hương
hoa cúng dường. Về phía đông nam của nước này có một ngọn núi cao
chót vót. Bên trong có một hang động thâm u, chứa tám bộ kinh Đại Tập,
Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bảo Tích, Lăng Già, Phương Quảng, Xá Lợi Phất
Hoa Tụ Nhị Đà La Ni Đô Tát La Tạng, Ma Ha Bát Nhã. Bát Nhã và Đại Tập
có mười hai bộ, khoảng một trăm ngàn bài kệ, được các quốc vương
nhiều đời ra sắc lịnh bảo vệ. Ngoài ra, có ba vị A La Hán đang nhập
diệt tận định trong hang đó. Mỗi nửa tháng, chư tăng trên núi đến đó,
cạo râu tóc cho ba vị A La Hán. Quốc vương nước đó dùng nhân pháp mà
trị vì. Dân chúng đều dốc lòng tín phụng Phật pháp.
Ngài Xà Na Quật Đa đạo tánh thuần
hậu; thần chí kiên cường đoan chánh; thường mến đức hạnh; không
nhàm chán cầu pháp; nghiên cứu thâm sâu tông chỉ chân yếu; uyên bác ba tạng
kinh điển; học hết ngũ minh, thông suốt thế luận; hành đạo đắc được
chỉ thú; tổng trì lý giải thần chú; suốt đời thường đắp ba y ca sa;
ngày dùng một buổi; nhân từ cứu người tế vật chẳng cần đợi thỉnh
cầu; thường chuyên cần đọc tụng kinh điển, khiến sĩ thứ khâm trọng,
và kẻ tăng người tục đều tôn sùng. Tùy Đằng Vương sùng kính ngưỡng
vọng giới đức của Ngài nên tôn làm thầy.
Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ mười
hai (592), ngài Xà Na Quật Đa nhập diệt, thọ bảy mươi tám tuổi. Từ
lúc sang Đông Độ, Ngài phiên dịch được ba mươi bảy bộ kinh, và một
trăm bảy mươi sáu quyển, như kinh Phật Bổn Hạnh, Tập Pháp Cự, Oai Đức
Hộ Niệm, Hiền Hộ, v.v... Văn dịch lưu loát, phù hợp hoàn toàn với
giáo lý. Xưa kia Tùy Cao Tổ ban sắc lịnh cho ngài Xà Na Quật Đa cùng sa
môn Nhã Na Kiệt Đa (người Tây Vực), v.v... tại nội sử và nội tỉnh,
phiên dịch Phạn văn cổ điển. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ mười hai
thì hoàn tất.
- (Dharmagupta, dịch là Pháp Mật)
[^]
Ngài Đạt Ma Cấp Đa vốn là người
nước Hiền Đậu La La, thuộc dòng Sát Đế Lợi, tục tánh là Tệ Na Già
La (gọi là Hổ Để); Ngài là người lớn nhất trong năm anh em. Cha mẹ quyến
luyến không cho phép Ngài xuất gia. Tuy nhiên, Ngài dốc tín mến mộ Phật
pháp, thâm nguyện xuất gia rời tục. Năm hai mươi ba tuổi, Ngài đến thành
Kiện Noa Cứu Bạt Đổ (dịch là Nhĩ Xuất). Tại vùng Cứu Ni (dịch là
Hoàng Sắc Hoa Viên), có một ngôi Tăng Già LamẠ nổi tiếng. Nơi đó, ngài
Đạt Ma Cấp Đa được xuống tóc xuất gia. Năm hai mươi lăm tuổi, thọ
giới cụ túc xong, Ngài vẫn ở lại chùa tu học ba năm. Trong chùa có một
vị A Xà Lê tên là Phổ Chiếu, thông suốt kinh luận của Đại Thừa và
Tiểu Thừa, thường đi hành khất, cùng tu pháp thiền. Lúc ngài Phổ Chiếu
được quốc vương nước Trá Ca thỉnh cầu sang đó giảng kinh pháp, Ngài
Đạt Ma Cấp Đa cũng theo qua nước đó. Một năm sau, ngài Phổ Chiếu trở
về bổn quốc, còn ngài Đạt Ma Cấp Đa vẫn lưu trú nơi đó bốn năm, tại
chùa Đề Bà Tị Hà La (dịch là Thiên Du). Đây là ngôi chùa mà tăng chúng
Đại Thừa và Tiểu Thừa ở bốn phương đồng hội tụ đến để tu học,
hầu mong sở kiến được tăng trưởng.
Thương nhân đi đường phía bắc
Thiên Trúc thường băng ngang qua vùng này. Họ thường truyền tụng nhau rằng
ở Đông Vực có nước Đại Chi Na (hay Chấn Đán). Mới đầu, tuy nghe tên
nước đó, nhưng Ngài chưa màng để ý đến. Sau này, Ngài cùng với sáu vị
sa môn khác qua nước Ca Tý Thi, trú tại chùa Vương Tự. Ngài lại cùng bốn
vị sa môn khác đến và trú trong quốc thành đó hai năm liền. Trong thời
gian ấy, Ngài đi khắp các tự viện để học tập kinh điển. Nước này
vốn là nơi mà các thương nhân thường tụ hội, vì nằm trên tuyến đường
phía bắc. Các thương nhân cũng thường kể với nhau rằng dân chúng ở nước
Đại Chi Na rất tín phụng ngôi Tam Bảo. Hai lần nghe đến nước Đại Chi
Na, khiến Ngài phát tâm du hành sang nơi đó để hoằng dương chánh pháp.
Vì vậy, Ngài cùng với vài vị sa môn đồng hành, đến núi Tây Túc ở
dãy Tuyết Sơn, nước Bạc Khư La, Ba Đa Xoa Noa, nước Đạt Ma Tất Tu Đa.
Tại những nước này, tuy không trú lại lâu, nhưng Ngài hiểu rõ phong tục,
nghi thức tu hành ở trong các tự viện. Ngài lại đến nước Kiệt La Bàn
Đà, rồi lưu trú một năm, cũng chưa giảng kinh pháp. Ngài lại đến nước
Sa Lặc. Một vị sa môn đồng hành bèn trở về bổn quốc, còn lại ba vị
đồng cư trú nơi chùa Vương Tự. Ngôi chùa này do quốc vương Sa Lặc kiến
tạo. Trong hai năm cư trú, Ngài vì chư tăng tại chùa đó mà giảng hai
ngàn câu kệ của luận Niệm Phá để thuyết minh tam pháp ấnẠ, thuyết
phá lý luận của ngoại đạo. Ngài lại giảng luận Như Thật, gồm hai ngàn
bài kệ, để phá văn nghĩa và luận của thế gian.
Kế đến, Ngài sang nước Quy Từ,
trú tại chùa Vương Tự trong hai năm. Ngài cũng vì chư tăng nơi đó mà giảng
Thích Tiền Luận. Vốn dốc tín Đại Thừa, nên khi nghe ngài Đạt Ma Cấp
Đa giảng giải bộ luận đó, quốc vương nước Quy Từ cũng được khai
ngộ rất nhiều điểm, nên ngày đêm thường đến vấn đạo. Vì có tâm
nguyện sang Đông Độ và không muốn lưu lại nơi đó, nên Ngài cùng với
một vị tăng khác bí mật sang nước Ô Kỳ, trú tại chùa A Lan Noa, giảng
luận Thông Tiền cùng kinh điển trong hai năm, rồi từ từ đến nước Cao
Xương, đi tham quan các tự viện. Tại nước đó, rất nhiều tăng chúng
chuyên học tiếng Tàu. Tuy ở lại hai năm, nhưng Ngài không giảng thuyết
gì hết. Thứ đến, Ngài sang nước Y Ngô. Trên đường đến nước đó,
Ngài cùng các vị sa môn khác vượt qua một bãi sa mạc không cỏ nước. Một
số vị đồng hành vì khát nước nên phải bỏ mạng trong bãi sa mạc.
Ngài cùng với những vị còn lại mang kinh luận, cố men theo đường lộ,
vượt núi non để tìm nước uống. Tìm không được nước, Ngài và các vị
pháp hữu bèn rán sức niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và tụng thần
chú. Đến tối, trời đột nhiên đổ mưa, khiến thân tâm mọi người tràn
đầy niềm vui. Khi trở lại con đường cũ, họ thấy bốn bề hoang vắng,
nên bị lạc dấu tích cùng mất phương hướng. Tuy nhiên, họ vẫn tiến về
phía trước, đến vùng Qua Châu. Tựu chung, trên đường đi, các vị sa
môn đồng hành với Ngài, có người hoặc trở về Thiên Trúc, hoặc trú lại
các vương quốc lân cận, hoặc đã mất mạng.
Trải qua bao gian nan khổ cực, cuối
cùng một mình Ngài đơn độc đến kinh thành của Trung Thổ. Nghe tin Ngài
đến, nhà vua ân cần tiếp đãi, tứ sự cúng dường, và thỉnh về trú tại
các tự viện lớn. Vào tháng mười, niên hiệu Khai Hoàng thứ mười (590),
chưa nghỉ ngơi xong, Ngài được nhà vua ban sắc lịnh phiên dịch kinh điển.
Ngài sang chùa Đại Hưng Thiện, bắt tay ngay vào việc phiên dịch. Nơi đó,
Ngài thường tuyên giảng nghĩa lý thâm yếu của kinh luận Đại Thừa và
Tiểu Thừa. Tuy có các người theo phái cựu học nghi ngờ, nhưng Ngài vẫn
hoằng hưng chỉ thú kinh luận. Tánh Ngài nhu hòa, nhân từ. Tâm chẳng rời
đạo; ngôn hạnh (lời nói và hành động) tương dung. Giới đức thanh tịnh.
Trí huệ thâm sâu uyên bác. Hiểu rõ tận nguồn cội kinh luận. Dung mạo
đoan chánh, oai nghi hùng dũng; âm thanh đọc tụng kinh điển vang rền như sấm;
lý lẽ thông trong ngoài; tánh thích cư trú nơi vắng lặng, chẳng thích
tình lự thế gian; thường giáo huấn người không mỏi mệt; không màng tiền
tài vật chất, khiến người chưa gặp đều sanh lòng kính phục, và khiến
người gặp mặt đều khởi tâm thâm tín.
Dương Đế Định kính trọng và
cúng dường Ngài thâm hậu. Vì muốn Phật pháp được hưng thịnh, ông lại
ban sắc lịnh lập đạo tràng dịch kinh tại Thượng Lâm Viên ở mé sông
Lạc Thủy, để Ngài phiên dịch kinh luận cùng truyền bá chánh pháp. Chư
danh sĩ nhất thời đổ về tham học với Ngài. Lần nọ, một bản kinh vừa
được dịch ra, có thiếu vài đoạn. Vì đã tinh tường liễu giải kinh luận
thâm sâu, Ngài tự bổ túc vào để cho đầy đủ ý nghĩa. Tổng cộng, Ngài
phiên dịch được bảy bộ kinh luận, hợp thành ba mươi hai quyển, như Khởi
Thế Gian Duyên Sanh, Dược Sư Bổn Nguyện, Nhiếp Đại Thừa Bồ Đề Tư
Lương, v.v... Văn nghĩa gọn gàng trong sáng, và yếu chỉ minh bạch rõ
ràng. Những bộ kinh luận do Ngài dịch đều được xếp đặt vào bộ 'Đường
Trinh Quán Nội Điển Lục'. Đến niên hiệu Võ Đức thứ hai, Ngài lại dịch
thêm mười lăm quyển kinh Phổ Lạc.
Có sa môn Ngạn Tông, thông thạo tiếng
Phạn-Hán, dựa theo những lời trần thuật của ngài Đạt Ma Cấp Đa về
những sự việc thấy nghe trên tuyến đường từ Thiên Trúc sang Trung Thổ,
mà viết thành một bộ 'Đại Tùy Tây Vực Truyện'. Trong bộ truyện này
chia ra làm mười thiên: 1/ phương hướng, sự vật, 2/ khí hậu, 3/ cư xứ,
4/ chánh trị, 5/ học giáo, 6/ lễ nghĩa, 7/ thức ăn, 8/ y phục, 9/ tài
nguyên, 10/ núi sông, thành ấp tục lạc, dân chúng.
48. Ngài Xà Đề Tư Na [^]
Ngài là người nước Ma Kiệt Đề
ở trung Thiên Trúc, kiêm thông ba tạng giáo điển, tinh tường thế luận cùng
y thuật thế gian. Lần nọ, trong nước đó có một trận động đất dữ
dội, khiến đất nứt ra, lộ một bia đá, viết: "Ở phương đông có
nước Chấn ĐánẠ, danh Đại Tùy, thành gọi là Đại Hưng, và vua là
Kiên Ý đang kiến lập chùa tháp tín phụng Tam Bảo".
Thấy bia đá này, vua quan cùng dân
chúng rất vui mừng hớn hở, cho là điềm lành hi hữu. Bấy giờ, tại
Trung Thổ là nhằm vào niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bốn (594). Ngài Xà
Đề Tư Na cùng với năm mươi tăng sĩ và cư sĩ xuất phát từ Vương phủ
đi về hướng đông, để tìm linh tướng. Trên đường họ bị bọn cướp
giết chết, chỉ còn vài người trốn thoát.
Sau chín năm, Ngài đến Trung Thổ vào
niên hiệu Nhân Thọ thứ hai (602). Bấy giờ nhằm vào lúc Tùy Văn Đế cầu
được rất nhiều hạt xá lợi Phật, và cho xây tháp cúng dường. Ngài vừa
đến, liền được nhà vua thỉnh vào nội điện Đại Bảo. Đang lúc đàm
luận với Ngài, nhà vua chợt đưa bốn ngón tay lên, rồi hỏi quần thần:
- Các khanh có biết ý Trẫm chăng ?
Quần thần không ai đáp được. Nhà
vua quay sang hỏi Ngài. Ngài đáp:
- Ý của đàn việt là bảo rằng bần
đạo đã chứng tứ quả A La Hán. Tuy nhiên, điều này không thật.
Nghe lời này, nhà vua kinh dị. Kế
đến, nhà vua thỉnh Ngài về trú tại một cung quán. Lần nọ, nhà vua lại
hỏi:
- Trẫm tạo dựng linh tháp khắp
các châu quận. Tuy nhiên, có hai châu quận là Xiểm Châu và Tào Châu là nơi
có nhiều điềm lành nhất. Vậy nên tạo dựng linh tháp của vị nào ?
Ngài bảo:
- Nên thờ Bồ Tát Địa Tạng tại
Xiểm Châu. Tại Tào Châu, nên thờ Bồ Tát Quan Hoa Không Tạng.
- Hoa trời giống như vật gì ?
- Giống như miếng mi ca mỏng.
Nhà vua bèn bí mật lấy mi ca mỏng
để làm thiên hoa. Người nhìn vào, không ai biết được. Sau này hoàng hậu
băng hà, trên hư không lại có tiếng nhạc vang rền, cùng có mùi hương lạ
bay tỏa khắp nơi. Nhà vua đem việc này đến vấn hỏi. Ngài đáp:
- Hoàng hậu đã vãng sanh sang cõi
Tây Phương Tịnh Độ của Phật A Di Đà, nên chư thiên khởi nhạc trời
mà nghênh tiếp.
Nhà vua cho là điềm kỳ đặc, nên
đem lễ vật mà tặng thưởng, nhưng Ngài không thọ nhận.
Sau này, không ai biết Ngài tịch
vào lúc nào.
- 49. Ngài
Ba La Pha Ca La Mật Đa La
Ngài Ba La Pha Ca La Mật Đa La (dịch
là Minh Trí Thức) người trung Thiên Trúc, thuộc dòng Sát Đế Lợi, tục tánh
Sát Lợi Đế, xuất gia từ năm mười tuổi, tụng thuộc kinh Đại Thừa cả
trăm ngàn câu kệ. Thọ giới cụ túc xong, Ngài chuyên cần học luật tạng,
uyên bác nơi giới luật, tâm thích thiền pháp, nên theo chư thạc đức tu
tập thiền định, mà không xả bỏ kinh điển suốt mười hai năm trường.
Sau này, Ngài đến tu viện Na Lan Đà ở nước Ma Già Đà (hay Ma Kiệt Đà).
Nơi đó, gặp lúc luận sư Giới Hiền đang hoằng dương luận Thật Thất
Địa, nên Ngài bèn ở lại nghe giảng giải. Luận này hiển minh giáo lý
Tiểu Thừa. Ngài lại tụng đọc thông suốt các luận Tiểu Thừa. Nhờ
khí chất thông minh uyên bác, Ngài nghiên cứu tinh tường giáo lý Đại Thừa
và Tiểu Thừa. Ngài lại làm bậc giáo thọ sư cho các đồng học, cùng
hóa độ tăng chúng, và thường diễn giảng những bộ kinh như Bát Nhã
Nhân Đà La Bạt Ma, v.v..., khiến các học nhân đều thâm đạt nghĩa lý u
huyền. Danh vang pháp hóa của Ngài, khiến vua quan triều thần đều phải kính
phục. Song, người xuất gia không thường trú ở một phương. Tùy theo
duyên pháp, cứ khoảng sáu tháng, Ngài di chuyển một lần. Vì dân Bắc Địch
Đột Quyết chưa biết đến Phật pháp, nên Ngài đến đó để giáo hóa.
Lần hồi, Ngài cùng với chư tăng kẻ tục khoảng mười người đi về
phương bắc, đến phía tây Khả Hãn Thống Diệp Hộ (Jabgu), và dùng Phật
pháp giáo hóa những kẻ chưa từng biết đến chánh giáo, khiến Nhung Chúa
ở vùng đó thâm tín bội phục vô vàn, nên cấp cho hai mươi người để
hầu hạ cung phụng ngày đêm. Chư tăng kẻ tục đồng hành thấy ân đức
giáo hóa của Ngài như thế, nên lại càng sanh tâm tín phục.
Năm 626, tướng quân Cao Bình Vương
sai sứ giả vào đất Phiên, nên gặp được Ngài, và được hóa độ. Sứ
giả đem những lời đã được dạy, trở về thuật lại cho Cao Bình Vương.
Thế nên, Cao Bình Vương ra lịnh cho sứ thỉnh cầu Ngài đến Đông Độ,
mà quần thần nước Diệp Hộ đều lưu luyến không cho Ngài đi. Quốc
vương nước Diệp Hộ nghe biểu tấu của Cao Bình Vương, bèn hạ lịnh
cho Nhung Chúa phải đưa Ngài vào Trung Thổ. Thấy yếu thế, Nhung Chúa đành
phải nhân nhượng, để cho Ngài vào Trung Thổ cùng với Cao Bình Vương.
Năm đó, vào tháng mười hai, Ngài
đến kinh đô. Vua ban sắc cho Ngài trú tại chùa Đại Hưng Thiện, và thường
sang đó vấn an và đàm đạo về nghĩa lý u huyền. Ngài tùy theo cơ duyên,
đối đáp tường tận, khiến nhà vua rất mực tôn sùng, nên sai năm vị
tăng làm thị giả hầu Ngài. Những lời của Ngài giảng giải đều không
vượt ngoài kinh điển. Nhà vua lại ban sắc cho Ngài phiên dịch kinh điển,
cùng mời mười chín danh tăng thạc đức đến hỗ trợ, như sa môn Huệ
Thừa (lo việc đối chiếu nghĩa lý), sa môn Huyền Mô (lo việc chuyển ngữ),
sa môn Huệ Tịnh, Huệ Minh, v.v... (lo việc trau chuốt lời văn), cùng trụ
quốc thượng thư tả bộc và thái tử (lo việc hiệu đính giảo định),
Quang Lộc đại phu thái phủ Khanh Tiêu Chương (lo việc giám hộ). Các quan
triều cùng nhau tứ sự cúng dường thâm hậu. Đầu tiên, Ngài dịch được
kinh Bảo Tinh, rồi kế đến là kinh Thắng Quang, luận Bát Nhã Đăng Đại
Trang Nghiêm; tổng cộng là ba bộ cùng ba mươi lăm quyển. Sáu năm sau, Ngài
thảo duyệt, trau chuốt lời văn cho lưu loát, rồi dâng lên nhà vua xem
xét. Sau khi duyệt xem tường tận, nhà vua bèn ra lịnh sao chép mười bộ
để lưu truyền trong nước, rồi trọng thưởng Ngài thâm hậu, và ra lịnh
cho thái tử viết lời tựa cho các quyển kinh luận vừa được phiên dịch.
Ngài cũng thường giảng kinh luận cho các quan triều và danh sĩ.
Sa môn Huệ Giai là vị tăng tài
trí bạt quần, nói với quan sử giám hộ:
- Ngài Ba La Pha Ca La Mật Đa La từ
phương xa muôn dặm đến Đông Hạ chẳng vì lợi danh, mà chỉ vì muốn
khiến đạo lý được lưu truyền ngàn năm, pháp âm vang thiên cổ. Xưa
kia, trong hai đời vua Phù Kiên và Dao Hưng, các học sĩ phiên dịch kinh điển
có cả ba ngàn vị. Hiện tại, ở đời Đường, chỉ có hơn hai mươi người
tham gia phiên dịch. Vậy xin đại quan hãy tấu trình việc này lên với
Hoàng Thượng, để cho người thêm phụ giúp việc dịch kinh, hầu mong hậu
thế không nghi ngờ.
Do thệ nguyện hoằng dương Phật
pháp, Ngài không màng bao gian nan nguy hiểm, đi hơn bốn mươi ngàn dặm, vượt
ngọn Thông Lĩnh, băng qua các bãi sa mạc cùng núi sông hiểm trở, tự mang
kinh điển để sang nước Chấn Đán phiên dịch. Song, chí nguyện chưa được
hoàn mãn, mà nào biết thố lộ cùng ai, nên sanh bịnh. Tự biết không cứu
trị nổi, Ngài bèn phân phát vật dụng, tạo các tịnh nghiệp, rồi ngồi
thẳng trước chánh điện chùa Thắng Quang, chánh tâm quán tượng Phật mà
thị tịch, thọ sáu mươi chín tuổi vào năm 633. Đông cung thái tử sai hai
mươi người thỉnh nhục thân của Ngài lên núi để làm lễ trà tỳ. Sau
đó, sa môn Huyền Mô thâu nhặt xá lợi và đặt trong tháp thờ phụng tại
chùa Thắng Quang, vào mồng sáu tháng tư, niên hiệu Trinh Quán thứ bảy.
Bao năm Ngài cống hiến công sức phiên dịch, hầu mong ngọn đuốc chánh
pháp soi sáng cho những kẻ u mê. Tuy nhiên, thệ nguyện hoằng pháp chưa hoàn
thành mà Ngài đã nhập diệt, khiến cho hậu thế bàng hoàng thương tiếc.
- 50. Tam
tạng pháp sư Na Đề
- (Punyopaya, dịch là Phước
Sanh) [^]
Ngài vốn là người Trung Thiên
Trúc, xuất gia từ thuở nhỏ, được các danh sư khai ngộ, có chí khí
cùng hoài bão hoằng pháp ở phương xa. Vì vậy, Ngài chu du khắp các vương
quốc để khai đạo dân chúng. Sau này, Ngài đến nước Sư Tử (Tích Lan),
tới núi Lăng Già ở miền đông nam, qua các nước ở Nam Hải, mà tùy
duyên giáo hóa. Nhờ thông thạo nhiều ngôn ngữ, Ngài thường diễn kinh
thuyết pháp, độ người lập chùa. Tại Thiệm Châu, phía đông nước Chi
Na, Ngài hoằng dương giáo pháp Đại Thừa, khiến Phật pháp được hưng
thịnh. Ngài lại mang một ngàn năm trăm kinh luận Đại Thừa và Tiểu Thừa,
đến kinh đô Trung Thổ vào niên hiệu Vĩnh Huy thứ sáu (655).
Đương thời, thanh danh của pháp sư
Huyền Trang vang dội khắp nơi, chẳng có ai sánh bì kịp. Vì vậy, ngài Na
Đề đành cam ẩn dật. Niên hiệu Hiển Khánh nguyên niên (656), Đường Cao
Tông ban sắc lịnh cho ngài Na Đề sang các nước Côn Lôn để tìm thuốc lạ.
Đến Nam Hải, các quốc vương đồng cung nghinh quy y, lập chùa, để Ngài
giáo hóa dân chúng. Công nghiệp hoằng pháp hiển đạt. Tuy nhiên, vì Ngài
theo lịnh của vua Đường mà qua đến các nước ở Nam Hải, và vì muốn
trở về Trung Thổ để nghiên tầm thêm các kinh điển bằng tiếng Phạn,
nên vào niên hiệu Long Sóc thứ ba (663), Ngài trở về chùa Từ Ân ở Đông
Độ. Nơi đó, Ngài chỉ dịch được ba bộ kinh như Nhập Mạn Trà La Lễ
Phật Pháp, A Trá Na Trí, v.v... Nghĩa lý thâm sâu, lời văn điêu luyện.
Năm đó, do sự giáo hóa của Ngài,
quốc vương nước Chân Lạp bèn phái các danh sư sang Trung Thổ cầu thỉnh:
- Nước chúng tôi có nhiều thuốc
lạ, mà chỉ có ngài Na Đề là biết cách tìm. Xin hãy ban sắc cho ngài Na
Đề sang bổn quốc.
Đường Cao Tông định ban chiếu chỉ
cho ngài Na Đề đi, nhưng bị các quan triều cùng danh sĩ bẩm tấu:
- Tam tạng pháp sư Na Đề vốn là
môn đồ của Bồ Tát Long Thọ, nên lý giải về pháp Vô Tướng thật vượt
xa Huyền Trang.
Các vị Phạn tăng Tây Vực cũng bẩm
tấu:
- Sau khi Đại Sư (Bồ Tát Long Thọ)
nhập tịch, ngài Na Đề là vị thâm giải lý Thật Tướng, đạt thấu tận
đáy nguồn phương tiện Tiểu Thừa năm bộ Tỳ Ni cùng bốn bộ Vệ Đà của
ngoại đạo, thông suốt ngôn từ và nghĩa lý, lời như châu ngọc, tiếng
như sấm vang, trước tác luận Đại Thừa hơn bốn mươi bộ và sắp dịch
sang tiếng Hán.
Nghe những lời này, Đường Cao Tông
ra lịnh cho Ngài đi về miền nam cư trú. Ngàn năm một thuở, đường xa vạn
dặm Ngài mang đạo đến phương bắc mà không được hậu đãi, nhưng lại
bị đưa về miền nam, gặp sơn lam chướng khí, khiến cảm bịnh rồi thị
tịch. Thật tiếc thay cho một bậc long tượng của đạo pháp.
- 51.
Ngài Nhã Na Bạt Đà La
- (Jnanabhadra, dịch là Trí Hiền)
[^]
Ngài là người nước Ha Lăng, thông
suốt ba tạng kinh điển. Trong niên hiệu Lân Đức (664-665), sa môn Hội
Ninh ở Thành Đô, vì muốn sang Thiên Trúc để chiêm bái các thánh tích,
nên theo thương thuyền đi về hướng tây. Giữa đường, lúc thuyền ngừng
tại nước Ha Lăng, sa môn Hội Ninh cùng ngài Nhã Na Bạt Đà La dịch hai
quyển phần sau của kinh Niết Bàn, từ bộ kinh A Cấp Ma. Phần này nói về
những sự việc xảy ra sau khi làm lễ trà tỳ kim quan của đức Thế Tôn
như thâu nhặt Xá Lợi, v.v..., nhưng không đồng với bộ kinh Niết Bàn đã
được phiên dịch. Khi dịch xong, bộ kinh này được gởi đến Giao Châu
(Việt Nam). Đô đốc Giao Châu là Lương Nan Dịch nhờ sa môn Vận Kỳ mang
bộ kinh này vào kinh đô. Sa môn Hội Ninh lại sang Tây Vức.
- (Buddhatrata, dịch là Giác Cứu)
[^]
Ngài là người nước Kế Tân ở bắc
Thiên Trúc. Ngài phát nguyện sang hóa độ dân Chi Na, nên qua Đông Độ truyền
pháp, trú tại chùa Bạch Mã, phiên dịch kinh Đại Phương Quảng Viên Giác
Liễu Nghĩa.
53. Ngài Phật Đà Ba Lợi (Buddhapali, dịch là Giác Hộ) [^]
Ngài là người nước Kế Tân ở bắc
Thiên Trúc. Quên thân mạng hết lòng vì đạo, đi chiêm ngưỡng lễ bái hết
các thánh tích. Nghe Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ẩn tích tại núi Thanh Lương,
không quản đường xá xa xôi, Ngài lặn lội đến núi Ngũ Đài. Đời Đường
Cao Tông, niên hiệu Nghi Phượng nguyên niên (676), Ngài chống tích trượng
đến núi Ngũ Đài, khẩn thành lễ bái, lệ rơi như mưa, mong mỏi được
xem thánh tướng Bồ Tát. Lát sau, một ông lão từ trong núi đi ra, nói tiếng
Bà La Môn (tức tiếng Phạn):
- Thầy cầu việc gì ?
Ngài đáp:
- Nghe Bồ Tát Văn Thù ẩn tích tại
núi này, nên từ Thiên Trúc sang đến đây để chiêm bái.
- Thầy từ Thiên Trúc sang, vậy có
mang theo kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni chăng ? Chúng sanh nơi đây tạo
rất nhiều nghiệp ác. Các người xuất gia cũng phạm giới rất nhiều. Thần
chú Phật đảnh có thể thầm mật giúp họ tiêu trừ nghiệp tội. Nếu
không đem quyển kinh này, thì có tới đây cũng vô ích. Dẫu có gặp Bồ
Tát Văn Thù, nhưng cũng không thể nhận ra. Thầy nên trở về Tây Vực để
thỉnh bộ kinh đó, hầu mong lưu truyền nơi nước này. Đó là phụng hành
lời dạy của chư thánh chúng, thường độ khắp quần sanh, tức là trực
tiếp báo từ ân của chư Phật.
Nói xong, ông lão biến mất. Ngài lại
càng thâm tín lễ lạy gấp bội, và lập tức trở về Thiên Trúc. Vừa thỉnh
được quyển kinh đó, Ngài liền trở lại Đông Độ. Đường Cao Tông thấy
Ngài chân thành tôn sùng quyển kinh bí mật đó, nên cho vời sa môn Điển
Khách ở chùa Hồng Lư và tam tạng pháp sư Nhật Chiếu vào kinh đô cùng cộng
tác phiên dịch. Họ phiên dịch xong, nhà vua ban thưởng cho Ngài ba mươi xấp
lụa, và giữ ở lại hoàng cung. Ngài rơi lệ thưa với nhà vua:
- Tôi xả thân mạng vì chí nguyện
lợi sanh. Xin Hoàng Thượng hãy cho lưu bố bộ kinh này.
Nhà vua thấy Ngài rất mực chân
thành, nên trả lại quyển kinh bằng chữ Phạn, và giữ bản văn dịch. Lấy
lại được nguyên bản chữ Phạn, Ngài vui mừng đến chùa Tây Minh, cùng
sa môn Thuận Trinh (thông thạo tiếng Phạn) đồng dâng sớ xin tự phiên dịch.
Nhà vua vừa chấp thuận, Ngài và sa môn Thuận Trinh cùng chư đại đức đồng
phiên dịch, gọi là kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni. Lần phiên dịch
này, về phần chân ngôn thần chú có khác với các nhà dịch giả lúc trước
(tức sa môn Điển Khách và Nhật Chiếu). Dịch xong, Ngài bèn đem bản kinh
chữ Phạn đến Ngũ Đài, rồi ẩn tu tại hang động Kim Cang. Hiện nay, tại
Vĩnh Hưng Long Thủ Võng còn thờ phần xá lợi của ngài Phật Đà Ba Lợi.
Vào niên hiệu Đại Lịch (766-779),
sa môn Pháp Chiếu ở chùa Vân Phong tại núi Nam Nhạc, vào núi Ngũ Đài, lễ
bái trong hang động Kim Cang. Trời vừa chập tối, Pháp Chiếu chợt thấy một
vị Phạn tăng cao bảy thước, nói tiếng Phạn rõ ràng, và tự xưng là Phật
Đà Ba Lợi, hỏi:
- Thầy lễ bái nhọc nhằn ở đây,
vậy nguyện muốn gì ?
Pháp Chiếu thưa:
- Con nguyện muốn thấy Bồ Tát Văn
Thù.
- Nếu chí thành kiên cố chân thật
không hư vọng, thì Thầy có thể bước qua tấm vách này, và trong gang tấc
sẽ thấy rõ tôn nhan của Bồ Tát.
Pháp Chiếu vừa nhắm mắt thì
thân đã vào trong hang sâu; lúc mở mắt ra, liền thấy một đại viện, đề
viết những chữ vàng tỏa ánh hào quang rực rỡ: 'Chùa Kim Cang Bát Nhã'.
Đại viện đó trang nghiêm tráng lệ và cực kỳ tôn nghiêm không thể diễn
tả; đó chính là nơi cư trú của Bồ Tát Văn Thù. Bồ Tát Văn Thù tuyên
nói những lời an ủi, rồi đưa trà cho Pháp Chiếu uống. Sau đó, ngài Phật
Đà Ba Lợi dẫn Pháp Chiếu ra khỏi đại viện. Tuy Pháp Chiếu khẩn cầu
trú lại trong đại viện, nhưng ngài Phật Đà Ba Lợi không đồng ý, mà
khuyên rằng phải nên nỗ lực cần mẫn tu hành thì sau này trở lại, mới
có thể trú tại đại viện. Pháp Chiếu vừa bước ra ngoài tấm vách, rồi
xoay đầu lại, thì không còn thấy ngài Phật Đà Ba Lợi nữa.
- (Bhagavaddharma, dịch là Tôn
Pháp) [^]
Ngài là người tây Thiên Trúc, vượt
các bãi sa mạc, đường xa muôn dặm đến Trung Thổ, chí nguyện hoằng dương
Phật pháp, chuyên tâm phiên dịch kinh điển. Trong niên hiệu Vĩnh Huy
(650-655), Ngài dịch kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng
Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
55. Ngài Di Đà Sơn (Mitrasanata, dịch là Tịch Hữu) [^]
Ngài là người nước Đổ Hóa La,
xuất gia từ thuở nhỏ, đi chu du khắp Thiên Trúc, học thông suốt cùng cực
kinh luận như Lăng Già, Câu Xá. Ngài đến Đông Độ, rồi cùng với ngài
Thật Xoa Nan Đà dịch kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già. Ngài lại cùng với
ngài Đạt Ma Đa La dịch kinh Vô Cấu Tịnh Quang Đà La Ni. Sau đó, Ngài trở
về bổn quốc.
- (Ratnacinta, dịch là Bảo Tư
Duy) [^]
Ngài là người nước Ca Thấp Di La
ở bắc Thiên Trúc, xuất gia từ thuở nhỏ, thường tu thiền định. Thọ
giới cụ túc xong Ngài chuyên ròng về luật phẩm, huệ giải siêu quần hơn
người, thông giải chân đếẠ và tục đếẠ, biết rành về diệu xảo
chú thuật. Do tâm muốn hoằng dương Phật pháp, Ngài đến Lạc Dương vào
năm 693, và được sắc lịnh an trú tại chùa Thiên Cung, rồi khởi công
phiên dịch kinh điển. Năm 706, Ngài dịch được bảy bộ kinh Bất Không
Quyến Tác Đà La Ni. Từ đó, Ngài không còn phiên dịch bộ kinh nào nữa,
chỉ tinh cần lễ bái đọc tụng kinh điển, và làm việc phước thiện.
Ngày ngày, Ngài dùng nước hương để lau chùi tượng Phật. Ngài thường
mang bình bát đi khất thực và cũng bố thí lại cho những kẻ nghèo đói.
Tại núi Long Môn, Ngài xây một ngôi chùa theo kiểu Tây Vực, và gọi là
chùa Thiên Trúc. Môn đồ thường cư trú trong chùa đó. Do lòng chân thành
tinh cần tu hành, Ngài đạt được rất nhiều điềm linh ứng. Ngài thị tịch
vào năm 721, thọ hơn một trăm tuổi.
57. Ngài A Địa Cù Đa (Atigupta, dịch là Vô Cực Cao) [^]
Ngài là người trung Thiên Trúc, học
rộng uyên bác, cùng thông hết chữ nghĩa, đức hạnh thanh khiết tròn đầy,
tinh tường ngũ minh, thấu suốt ba tạng kinh điển. Vào tháng giêng, niên
hiệu Vĩnh Huy thứ ba (652), từ tây Thiên Trúc, Ngài mang kinh điển chữ Phạn
đến Trường An. Nhà vua ban sắc cho Ngài trú tại chùa Từ Minh. Hai mươi tám
tăng sĩ cùng danh sĩ như Đại Thừa, Anh Công Lý, v.v... tại chùa Huệ Nhật,
viện Phù Đồ, đồng cung thỉnh Ngài kiến lập đàn tràng Đà La Ni. Ngài
ứng thuận theo lời cầu thỉnh mà tác pháp. Bấy giờ, trong đại chúng
có rất nhiều người tu hành được nhiều điềm cảm ứng linh dị, nên
chư tăng kẻ tục tại kinh đô đồng vui mừng tán thán. Vì vậy, chư sa môn
đồng cung thỉnh Ngài dịch kinh pháp đó. Ngài rút ra từ bộ kinh Kim Cang
Đại Đạo Tràng mà dịch từng tập, thành một bộ mười hai quyển, gọi
là kinh tập Đà La Ni. Sa môn Huyền Giai ghi chép.
58. Ngài Bát Lật Mật Đế (Pramiti, dịch là Cực Lượng) [^]
Ngài là người trung Thiên Trúc, có
hoài bão tùy duyên tế sanh độ vật, nên du hóa khắp nơi, rồi từ từ
sang Chi Na, đến Quảng Châu trụ tại chùa Chế Chỉ. Nơi đó, vào ngày hai
mươi ba tháng năm niên hiệu Thần Long nguyên niên (705) đời Đường Trung
Tông, thể theo lời cầu thỉnh của đại chúng, Ngài rút ra từ bộ Quán
Đảnh, mà dịch ra thành một phẩm, được một bộ mười quyển, gọi là
Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn
Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm Kinh. Tương truyền, xưa kia Ngài đã từng mang bộ
kinh này ra khỏi nước nhưng bị quan quân bắt giữ vì quốc vương Thiên
Trúc tôn trọng bộ kinh đó như quốc bảo. Do đó, Ngài phải cuộn quyển
kinh vào vải lụa, rồi cắt bắp tay và nhét bộ kinh đó vào để tránh sự
bắt bớ của quan quân. Sau khi Ngài đem kinh sang Trung Thổ, phu nhân của thừa
tướng Phòng Dung chế loại thuốc rửa cuộn vải chứa kinh. Kế đến, Ngài
tùng sự phiên dịch. Sa môn Di Già Thích Ca (người nước Ô Trường) chuyển
Ngữ. Bồ tát giới đệ tử Tiền Chánh Nghị đại phu đồng trung thư, môn
hạ bình chương Thanh Hà Phòng Dung ghi chép. Sa môn Hoài Địch ở chùa Nam
Lâu, núi Phù Sơn, tại Tuần Châu, kiểm chứng văn phiên dịch. Quốc vương
ở trung Thiên Trúc, nghe tin ngài Bát Lạt Mật Đế dịch bộ kinh này tại
Trung Thổ, nổi giận (vì bộ kinh này được xem là quốc bảo) lôi đình,
sai người truy tìm. Ngài bèn mang nguyên bản chữ Phạn trở về bổn quốc,
vì chúng sanh mà chịu tội với triều đình.
- (Siksamanda, dịch là Học Hỷ)
[^]
Ngài là người nước Vu Điền ở
phía bắc ngọn Thông Lĩnh, tài trí quảng bác, phong cách phi phàm, tinh tường
kinh điển Đại Thừa và Tiểu Thừa, biện thông các dị học thế gian.
Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) sùng tín Phật pháp, hưng dương chánh giáo. Bà vốn
tín phụng Đại Thừa, mà bộ kinh Hoa Nghiêm chưa được dịch xong. Nghe nước
Vu Điền có bản chữ Phạn, nên Thiên Hậu sai sứ sang đó, thỉnh cầu chư
sa môn phiên dịch. Vì vậy, Ngài mang bộ kinh này sang Trung Thổ. Niên hiệu
Chứng Thánh nguyên niên (695), tại chùa Đại Biến Không ở Đại Nội,
nơi Đông Bộ, Ngài khởi sự phiên dịch. Thiên Hậu đích thân đến pháp
tòa, viết lời tựa. Sa môn Bồ Đề Lưu Chí (người nam Thiên Trúc), sa
môn Nghĩa Tịnh đồng tụng đọc chữ Phạn; sa môn Phục Lễ, Pháp Tạng,
v.v... ghi chép. Bộ kinh Hoa Nghiêm được dịch thành tám mươi quyển, đến
năm 699 thì hoàn tất. Kế đến, Ngài dịch kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già
vào năm 700. Thiên Hậu cũng đích thân viết lời tựa. Tại chùa Thanh Thiền
ở kinh sư và chùa Phật Thọ Ký ở Đông Đô, Ngài dịch kinh Văn Thù Thọ
Ký, v.v... Tổng cộng dịch được mười chín bộ. Sa môn Ba Lôn, Huyền Quỹ,
v.v... ghi chép. Sa môn Phục Lễ hiệu đính lời văn. Sa môn Pháp Bảo, Hằng
Cảnh, v.v... kiểm chứng nghĩa lý. Thái tử Trung Xá Cổ Ưng Phước giám hộ.
Trú tại Trường An bốn năm, nghe
tin người mẹ vừa qua đời, Ngài bèn dâng sớ xin trở về bổn quốc.
Quan ngự sử Hoặc Từ Quang đưa Ngài trở về nước Vu Điền. Vua Đường
Trung Tông niên hiệu Cảnh Long (708), lại ban sắc lịnh cho vời Ngài trở lại
kinh đô. Ngài vừa đến kinh đô, nhà vua đích thân ra ngoài cửa Khai Viễn
mà nghinh đón, và sai quân mang tràng phan bảo cái để tiếp rước, cùng
trang hoàng một thớt voi, thỉnh Ngài vào cung thành, trú nơi chùa Đại Tiến
Phước. Rủi thay, chưa tiếp tục xúc tiến việc phiên dịch kinh điển thì
Ngài bị nhiễm bịnh, rồi thị tịch vào ngày mười hai tháng chín, niên
hiệu Cảnh Vân nguyên niên (710), thọ năm mươi chín tuổi. Triều đình
theo pháp thức nước Vu Điền mà làm lễ trà tỳ. Hỏa táng xong, thân thể
tan rụi hết, nhưng cái lưỡi vẫn còn nguyên vẹn. Môn đồ dâng sớ, cung
thỉnh lưỡi của Ngài trở về nước Vu Điền, xây tháp cúng dường. Người
sau xây một ngôi tháp bảy tầng nơi trà tỳ nhục thân của ngài Thật Xoa
Nan Đà. Chư tăng kẻ tục gọi đó là tháp Hoa Nghiêm Tam Tạng.
60. Ngài Địa Bà Ha La (Divakara, dịch là Nhật Chiếu) [^]
Ngài là người trung Thiên Trúc.
Ngài là bậc thần đồng, vì lúc mới tám tuổi mà đã tinh thông ngũ minh.
Thọ đại giới xong, Ngài chuyên cần nghiêm trì giới luật thanh cao, bác học
uyên thâm, tinh thông chú thuật. Trong đời Đường Cao Tông (674-683), Ngài
đến Trung Thổ. Tháng năm, niên hiệu Nghị Phượng thứ tư (679), triều đình
ban sắc cho Ngài phiên dịch những bộ kinh vừa đem qua. Y theo lệ trong đời
của ngài Huyền Trang, triều đình cho Ngài cư trú một mình tại một ngôi
chùa lớn, rồi cùng năm vị danh tăng phiên dịch kinh điển. Tại hai chùa
đông tây Thái Nguyên ở hai kinh đô, Ngài dịch được mười sáu bộ kinh
luận như Đại Thừa Hiển Thức, Đại Thừa Ngũ Uẩn Luận, v.v... Sa môn
Chiến Đà Bát Nhã Đề Bà chuyển ngữ. Sa môn Huệ Trí kiểm chứng chữ
Phạn. Triều đình cũng ban sắc cho chư sa môn danh đức hỗ trợ cho Ngài
trong việc phiên dịch. Thiên Hậu cũng đích thân viết lời tựa. Ngài lại
cùng với sa môn Giác Hộ dịch kinh Phật Đảnh. Văn dịch gọn gàng uyển
chuyển, nội dung hàm xúc, ý nghĩa hiển bày.
Sau này, Ngài nhập tịch ngay trong
phòng phiên dịch, thọ bảy mươi lăm tuổi. Thiên Hậu sai quân mang linh cữu
của Ngài quàn trên núi Hương Sơn ở Long Môn, Lạc Dương, cùng xây tháp
cúng dường.
- (Devaprajna, dịch là Thiên
Trí) [^]
Ngài là người nước Vu Điền,
tinh thông giáo pháp Đại Thừa và Tiểu Thừa, liễu giải tường tận hai
pháp chân đế và tục đế, thấu triệt thiền pháp và chú thuật. Năm
689, Ngài đến Lạc Duơng. Thiên Hậu ban sắc cho Ngài trú tại chùa Ngụy
Quốc Đông Tự để phiên dịch kinh điển. Từ năm đó đến năm 691, Ngài
phiên dịch được sáu bộ và bảy quyển luận Hoa Nghiêm Kinh Pháp Giới
Vô Sai Biệt. Sau này, không ai biết Ngài tịch ở đâu.
62. Ngài Thi La Đạt Ma (Siladharma, dịch là Giới Pháp)[^]
Ngài là người nước Vu Điền, thông
thạo tiếng phạn và tiếng Tàu. Ngài là vị Đại Pháp Sư ở Bắc Đình
(Dsimsa). Trong niên hiệu Trinh Quán (627-649), Ngộ Không trên đường từ Thiên
Trúc trở về, ghé ngang qua Bắc Đình, nơi chùa Long Hưng thỉnh pháp, và cầu
Ngài làm Giảng Chủ. Ngài dịch kinh Thập Địa cùng kinh Hồi Hướng Luân.
Sa môn Pháp Nhược đọc và chuyển ngữ. Pháp Siêu nhuận sắc. Sa môn Thiện
tín kiểm chứng văn nghĩa. Ngộ Không kiểm chứng bản văn tiếng Phạn.
- 63. Ngài
Bạt Nhật La Bồ Đề
- (Vajrabodhi, dịch là Kim Cang
Trí) [^]
Ngài là người nước Ma Lại Da ở
nam Thiên Trúc. Vương quốc đó gần núi Bổ Đà Lạc Tiên (trong đó có
cung điện Quán Âm). Người cha vốn thuộc dòng Bà La Môn, tinh thông luận
ngũ minh, làm thầy của vua Kiến Chi.
Ngài Bạt Nhật La Bồ Đề vừa chào
đời vài năm thì đọc thuộc cả chục ngàn lời trong một ngày. Chuyên
tâm thành ý xem kinh tạng suốt mãi không mỏi mệt. Năm mười sáu tuổi,
đối với giáo lý Phật đà, Ngài đã khai ngộ, mà không thích các luận
Ni Kiền Tử. Chẳng bao lâu, Ngài xuống tóc xuất gia, rồi ngày đêm tinh cần
tu tập. Sau này, Ngài theo vị thầy bổn sư đến tu viện Na Lan Đà, học tập
kinh luận như Tu Đa La A Tỳ Đạt Ma, Trung Quán, Duy Thức v.v... Ngài lại
tinh thông giới pháp, thấu suốt mười tám bộ luật. Ngài đến tây Thiên
Trúc học các kinh luận Tiểu Thừa cùng môn Du Già Tam Mật Đà La Ni. Ngài
lại sang nam Thiên Trúc y theo ngài Long Trí học về Kim Cang Quán Đảnh Hệ
(thuộc tư tưởng Mật giáo) trong bảy năm. Hơn mười năm sau, Ngài hoàn
toàn thông suốt ba tạng kinh điển. Ngài cũng đi lễ bái hết tất cả
thánh tích. Kế đến, Ngài tới nước Sư Tử, lên núi Lăng Già, rồi đi
qua hơn hai mươi nước ở phía đông. Lúc đến thánh địa của Bồ Tát
Quán Thế Âm ở núi Phổ Đà Lạc tại nam Thiên Trúc, và thấy Bồ Tát hiển
hiện oai linh, nên Ngài đột nhiên phát nguyện sang truyền bá Phật pháp tại
nước Chi Na. Lại nữa, nghe Phật pháp đang được hưng thịnh ở nước
Chi Na, Ngài bèn theo thương thuyền đến phủ Quảng Châu vào năm 719. Đường
Huyền Tông nghe tin, bèn ban sắc lịnh thỉnh Ngài đến trú tại chùa Từ
Ân. Tại chùa Tiến Phước, Ngài kiến lập đàn tràng Đại Mạn Noa La Quán
Đảnh để độ bốn chúng đệ tử. Hai vị thiền sư Đại Trí và Đại
Huệ, cùng tam tạng Bất Không, đồng lễ Ngài làm thầy.
Sau này, nhà vua thỉnh Ngài đến Lạc
Dương. Trong năm đó, từ tháng giêng đến tháng năm, khắp nơi bị nạn hạn
hán. Nhà vua đã lập đàn cầu mưa mà không được. Do đó, nhà vua bèn triệu
thỉnh Ngài lập đàn tràng cầu mưa, và sai thiền sư Nhất Hạnh hầu cận
cẩn mật. Ngài dùng pháp của Bồ Tát Bất Không Câu Y, lập đàn tràng
ngay tại chùa. Ngài lại làm tượng Bồ Tát Thất Câu Chi bằng lụa, dài bốn
khuỷu tay. Đến sáng ngày thứ bảy, bầu trời vẫn không một bóng mây,
và khí hậu vẫn nóng oi bức. Sau giờ ngọ, đột nhiên gió từ hướng tây
bắc thổi đến, rồi mây vần vũ kéo tới, và mưa đổ xuống ào ạt.
Hôm đó, có cả hàng chục ngàn người đến nơi đàn tràng. Người người
xa gần đều lấy làm kinh ngạc về sự linh ứng thần dị của đàn tràng
cầu mưa. Các sĩ thứ đều bảo nhau:
- Ngài Kim Cang Trí đã bắt được
rồng.
Bấy giờ, nhà vua thường để tâm
nơi lý u huyền chứ chưa trọng nơi pháp Không mônẠ. Do nghe lời sàm tấu,
nhà vua bèn ra lịnh cho các tăng sĩ ngoại quốc người Phiên tộc phải trở
về bổn quốc. Thị giả nghe tin này bèn trở về chùa thuật lại cho Ngài
nghe. Ngài bảo:
- Ta là Phạn tăng chứ không phải
Phiên Tăng. Sắc lịnh không rõ ràng, nên Ta không đi!
Qua vài ngày sau, tại Nhạn Môn,
Ngài đột nhiên dâng sớ từ biệt nhà vua. Nhà vua kinh hoàng, lập tức ban
chiếu chỉ giữ Ngài ở lại.
Cô công chúa thứ hai mươi lăm là
Thậm Chung, rất được nhà vua thương mến, nhưng lại bị bịnh đã lâu
mà không ai có thể cứu chữa được, nên suốt ngày nằm tại ngoại quán
Hàm Nghi. Cô ta luôn nhắm mắt, và không nói lời nào suốt cả mấy tuần.
Trước đó, cô ta cầu thỉnh Ngài đến ban giới pháp. Ngài biết rõ cô ta
chắc phải chết. Tuy nhiên, nhà vua cứ nằng nặc cầu thỉnh Ngài cứu sống
cô ta. Ngài bèn chọn ra hai tỳ nữ bảy tuổi, rồi lấy lụa bịt mắt lại,
và cho nằm xuống đất. Kế đến, Ngài bảo Ngưu Tiên Đồng vẽ một tấm
bùa, rồi đốt ngay nơi chỗ công chúa Thậm Chung đang nằm. Thứ đến, Ngài
đọc tụng thần chú. Bấy giờ hai tỳ nữ đọc theo Ngài mà không sai một
chữ. Ngài bèn nhập vào tam ma địa (tam muội chánh định), và dùng thần
lực bất tư nghị mà sai khiến hai tỳ nữ đem sắc chỉ đến gặp vua Diệm
Ma. Trong khoảng khắc công chúa Thậm Chung tỉnh dậy, và mở mắt cùng nói
chuyện như bình thường. Nhà vua nghe tin bèn lập tức một mình cỡi ngựa
đến ngoại quán. Công chúa Thậm Chung bẩm tấu:
- Nghiệp lực khó chuyển. Hôm nay
vua Diệm Ma sai con trở về để gặp mặt lại tôn nhan của thánh thượng
mà thôi.
Nói xong, đến khoảng giữa trưa, bèn
qua đời. Từ đó, nhà vua mới bắt đầu quy ngưỡng Tam Bảo.
Trong lục cung, nhà vua rất ân sủng
yêu mến Võ Quý Phi như châu ngọc. Ngài khuyên bà Võ Quý Phi rằng hãy mau
tạo tượng Bồ Tát Kim Cang Thọ Mạng. Ngài lại khuyên quận vương ở Hà
Đông phải kết tượng Phật bằng lụa rồi đặt bên trong tháp Phật Tỳ
Lô Giá Na. Ngài bảo môn đồ:
- Thọ mạng của hai người này
(Võ Vương và quận công ở Hà Đông) chẳng được lâu.
Vài tháng sau, quả nhiên đúng như
lời Ngài dự đoán. Võ Quý Phi và quận công đều qua đời. Ngài thường
nói những lời tiên tri như thế rất nhiều, và đều linh ứng.
Ngài thông suốt lý sự, tinh tường
kinh luận giới luật, thần chú. Ai có hỏi điều gì, Ngài bèn giải thích
rõ ràng. Gặp mặt qua người nào thì Ngài nhớ mãi không quên. Những cảnh
thuận nghịch, vui buồn giận thương đều không làm xao xuyến tâm Ngài,
khiến ai ai cũng tôn sùng kính phục. Ngài thường y theo pháp thức mà lập
đạo tràng mạn noa la (hay mạn đà la), và đều có cảm ứng.
Sa môn Nhất Hạnh khâm phụng sự
giáo huấn của Ngài, nên được pháp quán đảnh.
Vì lợi sanh lợi vật, và thể theo
sắc lịnh của nhà vua vào năm 723, tại chùa Tư Thánh, Ngài dịch được
hai quyển Kim Cang Đảnh Du Già Trung Lược Niệm Tụng Pháp (thuộc hệ Kim
Cang Mật Thừa), và hai quyển Thất Cu Chi Đà La Ni. Tại chùa Đại Tiến
Phước vào năm 730, Ngài dịch một quyển Mạn Thù Thất Lợi Ngũ Tự Tâm
Đà La Ni Quán Tự Tại Du Già Pháp Yếu Lược. Sa môn Trí Tạng chuyển ngữ.
Sa môn Nhất Hạnh sao chép trau chuốt thành văn. Thấy trong quyển này có
nhiều chỗ thiếu sót, nên Ngài bổ túc thêm vào cho đủ. Những ấn khế
tổng trì do Ngài phiên dịch đều có linh nghiệm. Nhờ Ngài mà mật chú
được lưu truyền khắp nơi, khiến rất nhiều người được cứu độ.
Vào tháng tám năm 732, tại chùa Quảng
Phước ở Lạc Dương, Ngài bảo đồ chúng:
- Khi trăng tròn là lúc Ta sẽ viên
tịch.
Nói xong, Ngài bèn đến lễ bái tượng
Phật Tỳ Lô Giá Na, đi nhiễu ba vòng. Trở về bổn viện, Ngài dâng hương
phát nguyện, kính cẩn phó chúc cho đệ tử những giáo pháp vừa mới được
phiên dịch, rồi an nhiên mà hóa, thọ bảy mươi mốt tuổi, được năm
mươi mốt hạ lạp. Mồng bảy tháng mười một năm đó, đồ chúng an
táng nhục thân của Ngài tại Long Môn ở Nam Y, và lập tháp thờ phụng.
Ngài được nhà vua ban hiệu là quốc sư Sắc Thụy. Đệ tử thọ pháp là
Bất Không.
64. Tam tạng pháp sư A Mục Khư Bạt Chiết La (Amonghavajra,
dịch là Bất Không Kim Cang) [^]
Ngài vốn thuộc dòng Bà La Môn ở
bắc Thiên Trúc. Thuở nhỏ, Ngài theo người chú sang nước Quang Đông. Năm
mười lăm tuổi, Ngài theo học đạo với ngài Bạt Nhật La Bồ Đề (Kim
Cang Trí). Mới đầu, Ngài học Tất Đàm Chương và luận Thanh Minh bằng tiếng
Phạn. Chỉ trong vài tuần là Ngài triệt thông, khiến ngài Bạt Nhật La Bồ
Đề lấy làm kinh ngạc. Sau này, Ngài thọ giới Bồ Tát, rồi được dẫn
nhập vào Kim Cang Giới Đại Mạn Trà La, đạt nhiều điềm linh ứng, nên
ngài Bạt Nhật La Bồ Đề biết ngài Bất Không sau này sẽ làm hưng thịnh
giáo pháp.
Sau khi thọ giới cụ túc, Ngài tinh
thông thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và biết rành nhiều ngôn ngữ. Ngài thường
cùng phiên dịch kinh điển với thầy bổn sư. Trong ba năm liền, ngài Bất
Không thỉnh cầu học Tân Du Già Ngũ Bộ Tam Mật Pháp, nhưng ngài Bạt Nhật
La Bồ Đề vẫn chưa chấp thuận. Do đó, ngài Bất Không định trở về
Thiên Trúc. Đêm nọ, ngài Bạt Nhật La Bồ Đề mộng thấy các tượng Phật
và tượng Bồ Tát ở trong các chùa chiền tại kinh thành đều bay về hướng
đông. Tỉnh dậy, ngài Bạt Nhật La Bồ Đề biết ngài Bất Không chân
chánh là bậc pháp khí, bèn chấp thuận lời thỉnh cầu khi xưa, rồi truyền
cho năm bộ pháp Quán Đảnh Hộ Ma A Xà Lê cùng kinh Tỳ Lô Giá Na, và quy tắc
Tô Tất Địa. Sau này, ngài Bạt Nhật La Bồ Đề sang Lạc Dương, nên
ngài Bất Không cũng đi theo làm thị giả. Lúc ngài Bạt Nhật La Bồ Đề
nhập tịch vào niên hiệu Khai Nguyên thứ hai mươi (732), ngài Bất Không
bèn lập Ảnh Đường để truy niệm. Kế đến, ngài Bất Không phụng sắc
triều đình sang Ngũ Thiên (Đông Thiên Trúc, Tây Thiên Trúc, Nam Thiên Trúc,
Bắc Thiên Trúc, Trung Thiên Trúc), và nước Sư Tử. Lúc Ngài đến quận
Nam Hải, thứ sử Lưu Cự Lân khẩn thỉnh truyền pháp quán đảnh. Tại chùa
Pháp Tánh, Ngài độ trăm ngàn vạn dân chúng. Do lòng chí thành của Ngài,
nên cảm đến Bồ Tát Văn Thù hiện thân.
Tháng chạp niên hiệu Khai Nguyên thứ
hai mươi chín (741), từ Côn Lôn, Ngài lên thuyền rời Nam Hải. Thuyền đến
địa phận nước Ha Lăng thì gặp một trận cuồng phong. Các thương nhân
đều sợ hãi, nên y theo phong tục của địa phương mà cầu khẩn, nhưng
không hiệu quả. Do đó, họ quỳ lạy khẩn cầu cứu hộ. Ngài bảo:
- Nay Ta có pháp. Các ngươi chớ lo
sầu.
Nói xong, tay phải Ngài cầm chày Ngũ
Thai Bồ Đề Tâm, và tay trái cầm kinh Bát Nhã Phật Mẫu, rồi tác pháp tụng
kinh một biến. Tức thì gió ngưng biển lặng. Hồi sau, một con cá voi xuất
hiện, đầu to như núi. Các thương nhân đều ủy thác cho nghiệp lực.
Ngài cũng tác pháp và tụng kinh như lúc trước, cùng bảo chư đệ tử tụng
kinh Bà Kiệt Long Vương. Chốc lát sau, điềm họa hạn tan biến. Sau này,
thuyền đến nước Sư Tử. Quốc vương bèn sai sứ ra nghinh đón, cùng cho
vệ sĩ đi hầu hai bên đường. Vừa thấy Ngài, quốc vương bèn dập đầu
đảnh lễ, rồi thỉnh vào hoàng cung, cúng dường trong bảy ngày. Mỗi
ngày, quốc vương đổ nước trầm hương đầy vào một cái hộc bằng
vàng kim, rồi đích thân tắm gội cho Ngài. Hoàng hậu, thái tử, cung phi,
đại thần, quan lại đều cung kính lễ bái Ngài như quốc vương của họ.
Vừa thấy Phổ Hiền A Xà Lê, ngài
Bất Không bèn cúng dường vải lụa bằng kim tuyến, và cung thỉnh khai mở
kiến lập mười tám pháp đàn Kim Cang Quán Đảnh Du Già pháp môn cùng Tỳ
Lô Giá Na Đại Bi Thai Tạng. Ngài Bất Không cũng cầu học thêm với ngài
Vô Thường về giáo pháp Mật tạng, cùng hơn năm trăm bộ kinh luận, Bổn
Tam Muội, chư tôn mật ấn, nghi hình sắc tượng đàn pháp, cờ xí, văn
nghĩa tánh tướng, v.v...
Ngày nọ, quốc vương mở hội điều
phục voi. Dân chúng xem coi đầy chật cả cung thành. Ngài đứng giữa ngã
tư đường, miệng tụng thần chú, tay bắt ấn, tâm nhập từ định. Các
con voi điên cuồng đang chạy, chợt bị té lăn.
Thứ đến, Ngài du hóa sang Ngũ Thiên.
Năm 746, Ngài bèn quay trở về kinh đô Đông Độ. Lúc vào triều, Ngài
dâng những phẩm vật của quốc vương Thi La Mê Già Biểu thuộc nước Sư
Tử gởi đến như vàng bạc, lưu ly, châu báu, kinh Bát Nhã, v.v... Kế đến,
Ngài phụng sắc, vào triều nội làm lễ quán đảnh cho nhà vua. Sau này,
Ngài dời sang chùa Tịnh Ảnh. Bấy giờ suốt mùa hạ trời nắng chang
chang. Nhà vua bèn ra lịnh cho Ngài cầu mưa:
- Nếu cầu không được thì đừng
gặp mặt Trẫm.
Ngài bèn phụng theo chiếu chỉ mà
lập đàn Khổng Tước Vương. Chưa đến ba ngày thì mưa đổ xuống khắp
nơi, khiến nhà vua rất vui mừng, tự tay đem một rương châu báu và y ca
sa màu vàng tím, cùng hai trăm xấp lụa mà đem dâng cúng cho Ngài.
Lần nọ, một ngọn cuồng phong chợt
thổi đến. Nhà vua lại triệu thỉnh Ngài làm cho cơn gió đó ngừng. Ngài
lấy một bình bằng bạc và một quả táo để tác pháp gia trì. Trong phút
chốc gió liền ngưng. Đột nhiên, một con ngỗng chạy tới, làm đổ bình
nước bằng bạc, khiến gió lại càng thổi mạnh bạo hơn lúc trước. Ngài
lại gia trì thần chú, khiến gió lại ngừng. Nhà vua thấy vậy, bèn xưng
tặng Ngài danh hiệu: "Trí Tạng".
Ngài định trở về bổn quốc, nên
cỡi ngựa đến quận Nam Hải vào năm 749. Nơi đó, vì nhận được chiếu
chỉ, nên Ngài đành ở lại, rồi phải đến Hà Lũng. Vào năm 753, do tiết
độ sứ Ca Thư Hàn cầu thỉnh, Ngài đến trú tại chùa Khai Nguyên ở Võ
Trụ. Tiết độ sứ Bạc Tân Tùng cầu thọ pháp quán đảnh. Sĩ thứ cả
ngàn người đều đăng đàn tràng thọ pháp. Đệ tử Hàm Quang, v.v... cũng
thọ năm bộ pháp quán đảnh. Khai phủ Lý Hoàn Tống thọ pháp Kim Cang Giới
Đại Mạn Trà La. Hôm ấy, nơi vùng đất lập đạo tràng chợt có động
đất. Ngài bảo:
- Đây là do sự thành tâm của tín
chúng.
Sau này, Ngài trở về kinh đô, trú
tại chùa Đại Hưng Thiện. Kế đến, vào năm 756, vua loan giá tại Linh Võ
Phượng Tường, Ngài cũng đi theo mật trì thần chú. Đường Túc Tông cũng
mật sai sứ giả đến cầu pháp bí mật. Vào niên hiệu Càn Nguyên
(758-759), nhà vua thỉnh Ngài vào cung điện, kiến lập đạo tràng Hộ Ma
Pháp. Ngài truyền pháp Chuyển Luân Vương Vị Thất Bảo Quán Đảnh cho nhà
vua. Năm 760, nhà vua bị bịnh. Ngài bèn gia trì chân ngôn bạt trừ bảy nạn.
Vài ngày sau, bịnh tình lành hẳn, khiến cho nhà vua lại càng khâm phục,
tôn sùng. Sau này Ngài dâng biểu xin vào núi ẩn tu. Nhà vua ban sắc cho
Ngài vào núi Chung Nam Sơn, trú tại chùa Trí Cự. Nơi đó, ngày đêm Ngài
tu tạo công đức, tụng niệm thần chú, nên cảm động Bồ Tát Đại Lạc
hiện thân phóng quang ấn chứng. Ngài tự nhủ:
- Chúng sanh chưa được độ xong, mà
Ta đã tự an độ rồi.
Đường Túc Tông nhường ngôi cho
Đường Đại Tông. Lên ngôi xong, Đường Đại Tông lại càng sùng kính
Ngài thâm trọng. Ngài vừa phiên dịch xong hai bộ kinh Mật Nghiêm và Nhân
Vương, nhà vua bèn viết lời tựa. Ngày phát hành hai bộ kinh này, mây
lành hiển hiện, khiến cả triều đình đều chúc mừng Ngài.
Niên hiệu Đại Lịch thứ ba (768),
nơi chùa Đại Hưng Thiện, Ngài lập đàn tràng tác pháp. Nhà vua cũng dâng
rất nhiều lễ vật như tràng phan bảo cái, và cúng dường trai tăng trong
hai mươi bảy ngày, cùng ra chiếu chỉ cấm các quan triều dụng quân binh,
rồi nhập đàn thọ quán đảnh.
Vào mùa hạ niên hiệu Đại Lịch
thứ năm (770), nhà vua ban chiếu chỉ thỉnh Ngài đến núi Ngũ Đài làm Phật
sự. Đương thời có sao chổi xuất hiện. Pháp sự vừa xong thì sao chổi
cũng biến mất. Mùa thu, từ Ngũ Đài, Ngài trở về kinh đô. Nhà vua cỡi
ngựa trắng đích thân ra cổng thành nghinh đón.
Sau này, Ngài dâng sớ xin dịch kinh
điển. Mười vị đại đức danh tăng cũng đến hỗ trợ. Đến niên hiệu
Đại Lịch thứ sáu (771), tổng cộng Ngài phiên dịch được một trăm hai
mươi quyển và bảy mươi bộ kinh. Nhà vua lại ban tặng lễ vật.
Đương thời, tại kinh đô, suốt
hai mùa xuân hạ đều bị nạn hạn hán. Đường Đại Tông bèn viết chiếu
chỉ gởi cho Ngài, bảo:
- Nếu nội trong ba ngày trời đổ
mưa, thì đó chính là pháp lực thần dị của Hòa Thượng cảm nên. Nếu
sau ba ngày mà không có mưa, thì Hòa Thượng chẳng có pháp lực gì hết.
Phụng mạng chiếu chỉ, Ngài lập
đàn cầu mưa. Đến ngày thứ hai thì trời đã đổ mưa xuống ào ào. Nhà
vua bèn cúng dường Ngài y ca sa tử kim, và ban cho các đệ tử của Ngài y
ca sa thất phó (y bảy điều), cùng thiết lễ cúng dường trai tăng cho một
ngàn vị sa môn, để đáp đền công lao của Ngài. Ngài thỉnh cầu nhà vua
xây lầu các thờ Bồ Tát Văn Thù. Nhà vua liền chấp thuận, và xuất tiền
trong công khố triều đình mà xây. Ngài lại dịch kinh Nghiệt Lộ Trà Vương.
Niên hiệu Đại Lịch thứ chín
(774), từ mùa xuân đến mùa hạ, Ngài tuyên dương diệu pháp, răn nhắc môn
đồ. Ngài thường giảng giải kinh Phổ Hiền Nguyện Hạnh Xuất Sanh Vô
Biên Pháp Môn, và cũng khuyên đồ chúng nên tụng trì quyển kinh đó.
Đêm nọ, Ngài bảo đệ tử là Triệu
Tuyển đem bút mực đến, rồi nói:
- Nay Ta lược viết về nghi thức
Niết Bàn trà tỳ để làm khuôn phép cho đời sau.
Viết xong, Ngài đưa cho Triệu Tuyển
để y theo đó mà chuẩn bị tống táng lúc lâm chung. Triệu Tuyển bèn cúi
đầu khẩn thỉnh ba lần:
- Xin Thầy hãy từ bi mà trụ lại
thế gian lâu dài. Ngược lại, chúng sanh biết y theo ai mà nương nhờ !
Ngài chỉ mỉm cười mà thôi. Chẳng
bao lâu, Ngài nhiễm bịnh, rồi dâng sớ xin từ biệt. Nhà vua liền sai sứ
đem thuốc thang đến, và lại ban cho chức Tề Quốc Công, cùng ba ngàn thực
ấp. Ngài không nhận, và chẳng vui lòng, bảo:
- Chư thánh chúng xả thân như duỗi
cánh tay. Khi trăng tròn Ta sẽ viên tịch. Lúc lâm chung sao còn nghĩ chuyện
lợi danh !
Rằm tháng sáu, Ngài lấy nước
hương tắm gội, rồi nằm xuống giường, đặt đầu về hướng đông, mặt
hướng về phía bắc, nhập định đại thủ ấn mà viên tịch, thọ bảy
mươi tuổi, được năm mươi tăng lạp. Đệ tử nối pháp là Huệ Lãng.
Nhà vua bèn bãi triều trong ba ngày, xuất tiền bố thí, và dựng tháp thờ
phụng. Trước khi Ngài nhập diệt, chư tăng thường mộng thấy lầu các Bồ
Tát Văn Thù bị sụp đổ; chùy Kim Cang bay lên hư không. Hồ nước đằng
sau chùa Đại Hưng Thiện chợt khô cạn. Hoa trong vườn Trúc Lâm Bảo Đình
đều khô héo.
Mồng sáu tháng bảy làm lễ trà tỳ.
Nhà vua ban tặng pháp hiệu là Đại Biện Quảng Chánh Tri Tam Tạng. Trà tỳ
xong, thâu lấy cả trăm hột xá lợi. Trong tám mươi hột, đảnh cốt vẫn
còn nguyên. Trong đó có một hạt màu sắc nửa ẩn nửa hiện. Nhà vua ban
sắc lập tháp thờ xá lợi tại bổn viện.
Suốt một đời hoằng pháp, ngài Bất
Không luôn vì việc lợi sanh lợi vật. Pháp môn tổng trì của Ngài thù thắng
vi diệu, không ai có thể đo lường sự sâu cạn.
Xưa kia, Đường Huyền Tông rất
tôn kính Ngài. Năm nọ, trời hạn hán, nhà vua triệu Ngài đến để cầu
mưa. Ngài bảo rằng qua ngày khác thì mới có thể cầu mưa được. Nếu cứ
cưỡng cầu thì mưa sẽ gây bao điều rắc rối. Nhà vua lại ban sắc thỉnh
vị thầy bổn sư của Ngài (tức là ngài Bạt Nhật La Bồ Đề) thiết đàn
tràng cầu mưa. Quả nhiên mưa gió không ngừng. Phố phường đều bị nạn
lụt lội, cây cối ngã rất nhiều. Nhà vua lại triệu thỉnh Ngài khiến
trời dừng mưa. Ngài bèn đọc thần chú bằng tiếng Phạn. Trong khoảnh khắc
trời dừng mưa.
Tại núi Bắc Mang có một con rắn
thần. Mỗi tối thường thổi sương mù. Lần nọ, Ngài đi ngang qua đó. Thấy
Ngài đến, rắn thần bèn hiện thân, thưa:
- Con đang thọ quả báo ác. Không
biết Hòa Thượng có thể độ được chăng ? Con thường muốn khiến nước
sông tràn ngập thành Lạc Dương cho hả dạ !
Ngài bèn thuyết tam quy y năm giới
cấm và lý nhân quả cho rắn thần, rồi lại dạy:
- Vì tâm sân hận mà ngươi phải
thọ quả báo như vầy. Nay lại khởi tâm phẫn hận nữa thì Ta không có
pháp lực nào để cứu độ. Nếu y theo lời dạy bảo của Ta thì ngươi sẽ
xả bỏ được thân rắn.
Sau này, dân làng xung quanh thấy
xác một con thuồng luồng to lớn, mùi hôi thúi xông lên cả mấy dặm.
Lần nọ, trong niên hiệu Thiên Bảo,
tướng Tây Phiên là Đại Thạch Khang hưng binh vây phủ Tây Lương. Vua triệu
Ngài vào để cầu cứu. Ngài bèn lập đàn, dâng hương, tụng hai mươi bảy
biến Nhân Vương Mật Chú. Nhà vua thấy binh thần khoảng năm trăm vị ở
trong cung điện, nên kinh hoàng hỏi han. Ngài đáp:
- Tỳ Sa Môn Thiên Vương lãnh binh
thần cứu An Tây. Xin Hoàng Thượng hãy mau thiết lễ cúng dường thức
ăn.
Ngày hôm sau, cách thành ba mươi dặm
về phía đông bắc, trong sương mù thấy binh thần oai nghi cao lớn, mang thương
kích, làm núi động đất chuyển. Phiên binh thấy thế kinh hoàng hoảng sợ.
Trong doanh trại của Phiên binh có rất nhiều con chuột màu vàng. Các dây
cung nỏ đều bị chúng cắn đứt. Trên lâu các của cổng thành phía bắc,
Quang Minh Thiên Vương hiện thân, giương mắt phẫn nộ, khiến Phiên binh đều
hoảng sợ bỏ chạy. Dẹp giặc xong, nhà vua ban sắc cảm tạ Ngài. Từ đó,
nhà vua bèn ra lịnh cho vẽ tượng thiên vương đặt trên lâu các cổng
thành ở bốn phía.
Trải qua ba đời vua, Ngài luôn được
họ tôn sùng kình trọng nhờ những công lao thù thắng.
65. Tam tạng pháp sư Thú Bà Yết La Tăng Ha (Subhakarasimha, dịch
là Thiện Vô Úy) [^]
Ngài vốn là người trung Ấn Độ,
và là hậu duệ của vua Cam Lộ Phạn VươngẠ. Pháp danh tiếng Phạn của
Ngài là Thú Bà Yết La Tăng Ha; Tàu gọi là Tịnh Sư Tử, và dịch là Thiện
Vô Úy. Ngài còn có tên là Du Bà Ca La, dịch là Vô Úy. Người cha vốn là
vua của một tiểu quốc ở trung Thiên Trúc. Với võ nghệ và đức độ kiêm
toàn, vào năm mười tuổi Ngài đã thống lĩnh ba quân. Năm mười ba tuổi
lên ngôi vua, được quần thần và dân chúng ái mộ. Vì anh em của Ngài
ganh ghét, nên họ khởi binh làm loạn. Sau khi dẹp loạn xong, Ngài bèn nhường
ngôi cho người anh để xuất gia tu đạo. Lúc đến vùng Nam Hải, Ngài gặp
sa môn Thù Thắng Chiêu Đề, dạy đạo tu hành đắc được tam muội, rồi
lấy cát đắp hàng ngàn ngôi tháp.
Ngài lại theo thương thuyền chu du
các nước. Trên thuyền, Ngài mật tu thiền định. Miệng thường tụng
kinh phóng ánh hào quang bạch sáng. Trong ba ngày, tuy không có gió, nhưng thuyền
chạy cả hàng chục ngàn dặm. Ngày nọ, thương thuyền chợt gặp cướp
biển. Ngài bèn thầm niệm tụng chân ngôn. Bồ Tát Thất Cu Chi hiện toàn
thân tướng, khiến bọn cướp đều bỏ cung giáo mà quy y.
Thiên tánh của Ngài thông minh đỉnh
ngộ, tài trí siêu quần, thâm giải đạo lý năm thừa giáoẠ cùng tam họcẠ;
liễu ngộ đến cội nguồn pháp tổng trì và thiền định; tinh tường các
nghệ thuật diệu xảo.
Sau này, Ngài đến tu viện Na Lan Đà
(gọi là Thí Vô Yểm). Tu viện này là hội phủ của chư thánh tăng đời
tượng pháp. Trong chùa có trưởng lão Đạt Ma Cúc Đa, thường mật tu thiền
định, thọ mật ấn của đức Như Lai, vốn là đệ tử của Bồ Tát Long
Thọ. Diện mạo của trưởng lão Đạt Ma Cúc ĐaẠ trông bề ngoài chỉ như
bốn mươi tuổi, nhưng thật tình là tám trăm tuổi. Tam tạng pháp sư Huyền
Trang đã có lần gặp qua.
Ngài Thiện Vô Úy bèn dập đầu đảnh
lễ, tôn làm thầy bổn sư. Sau này, trưởng lão Đạt Ma Cúc Đa truyền cho
ngài Thiện Vô Úy pháp Tổng Trì Du Già Tam Mật Giáo. Đương thời, chư
long thần bay vần vũ đông đầy trước mắt. Trong khoảnh khắc ngài Thiện
Vô Úy đều khế hội thọ hết các mật ấn. Hôm đó, Ngài được thọ phép
quán đảnh, và trở thành thầy của trời người, tức được xưng là bậc
Tam Tạng Pháp Sư; nghĩa là bên trong vị nầy đã chứng nhập giới định
huệ; bên ngoài đã thông suốt ba tạng kinh luật luận, và dùng Đà La Ni
để tổng nhiếp tất cả pháp. Đà La Ni là bánh xe Bồ Đề Tốc TậtẠ,
và là biển giải thoát kiết tường. Ba đời chư Phật xuất sanh nơi pháp
môn này, và hằng tương truyền ngọn đuốc huệ sáng soi. Vì căn tánh của
chúng sanh khác nhau, nên ngọn đuốc huệ cũng nhiều vô lượng. Do đó, đức
Phật mới thuyết nhiều pháp thiền định khác nhau. Chư Bồ Tát tổng nhiếp
nơi các tam muội, mà lập tức thăng lên phẩm vị, nhập vào biển đại
giác.
Đương thời, ngài Thiện Vô Úy đi
chiêm ngưỡng lễ bái các thánh tích mà không màng gian nan nguy hiểm. Tại
mỗi nơi thánh tích Ngài đều đến chiêm bái ba lần. Ngài lại vào núi
Kê Túc, cạo tóc cho tôn giả Ma Ha Ca Diếp, cùng thọ pháp quán đảnh của
Bồ Tát Quán Âm. Ngài thường an cư kiết hạ trên núi Linh Thứu. Mãnh hổ
thường đến cầu đạo nơi Ngài. Ngài lại vào sâu trong hang núi, thấy
bóng tượng Phật Thích Ca cùng hai vị thị giả, thật như còn sống.
Bấy giờ những tiểu quốc ở
trung Thiên Trúc bị nạn hạn hán, nên các quốc vương thỉnh Ngài cầu mưa.
Lúc Ngài lập đàn tràng, đại chúng đều thấy Bồ Tát Quán Âm hiện
trong vòm trời sáng, tay cầm bình quân trì mà đổ nước xuống, khiến
mưa to ào ạt. Đại chúng thấy vậy, đều vui mừng, được việc chưa từng
có.
Tại Ngũ ThiênẠ, sau khi Phật nhập
Niết Bàn, bọn ngoại đạo đua nhau nổi lên như ong. Chín mươi sáu tà kiến
nối nhau tương truyền. Ngài đều tùy theo kiến chấp của họ mà dẹp
phá nghi lầm, khiến họ bỏ tâm tà, xả bến mê, bước lên đường giác
ngộ. Mây pháp Đại Thừa và Tiểu Thừa thấm nhuần. Nước định tam muội
tròn đầy làm pháp khí. Đánh ngã dị học, dựng cờ chánh pháp. Kiến lập
đạo tràng tâm vương thù thắng, khiến tâm cuồng loạn của họ ngừng, tự
thân lễ Phật, quy y Tam Bảo.
Lần nọ, trưởng lão Đạt Ma Cúc
Đa bảo ngài Thiện Vô Úy:
- Này Thiện Nam Tử ! Ngươi có
duyên lành với nước Chấn ĐánẠ. Hãy sang bên đó mà giáo hóa chúng
sanh.
Nghe lời chỉ dạy của tôn sư, ngài
Thiện Vô Úy từ biệt lên đường. Ngày nọ, gặp một con sông ở nước
Ca Thấp Di La, mà không có cầu, Ngài lướt trên mặt nước để qua sông.
Lần khác, một vị trưởng giả thỉnh Ngài đến nhà thọ trai. Đồng thời,
vị trưởng giả đó cũng thỉnh một vị A La Hán đến thọ trai chung với
Ngài. Vừa gặp mặt Ngài, vị A La Hán nói:
- Con là người tu theo giáo pháp Tiểu
Thừa, còn Đại Đức đã đăng quả vị Bồ Tát.
Thế nên, vị A La Hán kia nhường tòa
ngồi chính cho Ngài. Dùng trai xong, vị A La Hán kia bèn bay lên hư không mà
biến mất.
Lúc đến nước Ô Trường, Ngài thường
giảng pháp Tỳ Lô trong cung Đột Quyết; an thân thiền định dưới các gốc
cây. Trên đường đi, Ngài gặp bọn cướp. Bị chúng chém ba nhát đao mà
chẳng hề hấn chi. Đao chặt vào thân Ngài như chạm vào đồng sắt. Trước
kia, thấy núi Tuyết Sơn cao chót vót, Ngài không muốn vượt qua. Trưởng lão
Đạt Ma Cúc Đa từ hư không bay đến, bảo:
- Thân của Bồ Tát đồng với hư
không, mà nào xả sanh tử để nhập Niết Bàn ! Ngươi đi đã lâu, vậy
thân có bịnh chăng ? Nếu không có bịnh, sao lại sợ sệt mà không dám vượt
qua núi Tuyết ?
Vừa hỏi xong, trưởng lão Đạt Ma
Cúc Đa bèn bay lên trời rồi biến mất. Nghe những lời răn nhắc của
trưởng lão Đạt Ma Cúc Đa, Ngài tiến bước, mà không còn chút do dự.
Trên đường đi, Ngài đi qua nước Thổ Phiên (Tây Tạng), và cùng thương
nhân đồng hành. Ngài lại gặp bọn cướp ra chặn đường, nên bí mật bắt
ấn, khiến chúng phải cúi đầu sám hối tạ tội. Đêm hôm vừa tới
biên giới nước Trung Thổ, thần nhân hiện hình, thưa:
- Đây là biên giới phía đông,
không nằm trong phạm vi cai quản của đệ tử, mà chính là đất Đông Độ
do Bồ Tát Văn Thù bảo hộ.
Nói xong, thần nhân bèn đảnh lễ,
rồi biến mất. Đó chính là thần Ca Tỳ La, đã từng theo hộ vệ Ngài.
Ngài dùng lạc đà mang kinh đến Tây
Châu. Vừa tới một bờ sông thì long thần bèn kéo chân của lạc đà xuống
nước. Ngài cũng vào long cung ba ngày liền, mà thuyết pháp giáo hóa, khai
ngộ cho loài thủy tộc. Sau đó, Ngài lại dẫn lạc đà trở lên bờ
sông, mà kinh điển không bị ướt chút nào.
Xưa kia, Ngài đang đi du hóa tại Bắc
Thiên Trúc, mà danh đức đã vang truyền đến Trung Thổ. Niên hiệu Khai
Nguyên nguyên niên (713) Đường Huyền Tông mộng thấy đàm đạo với một
vị chân tăng, tướng hảo vô cùng oai nghiêm.
Niên hiệu Khai Nguyên thứ tư (716),
năm tám mươi tuổi, Ngài mang kinh điển tiếng Phạn đến Trường An. Thật
là phù hợp với giấc mộng lành, nên nhà vua rất vui mừng, trang nghiêm đạo
tràng cho Ngài cư trú, và tôn xưng Ngài làm thầy. Chư vương hầu cũng đồng
cúi đầu đảnh lễ. Nhà vua ban sắc cho Ngài an trú tại nam viện ở chùa
Đại Hưng Thiện, rồi thỉnh Ngài qua chùa Tây Minh. Nhà vua tự thân đến
thi lễ và vấn an, cực kỳ kính trọng. Tại Thiên Cung, nhà vua thỉnh Ngài
lên ngồi trên tòa cao, rồi đảnh lễ xưng tôn làm quốc sư. Ngài bèn dạy
nhà vua về thừa giáo Như Lai. Từ đó, Phật pháp được hưng thạnh cực
kỳ.
Bấy giờ, một thuật sĩ nọ có khả
năng sai khiến quỷ thần, làm bao việc biến hóa. Ông ta muốn vào hoàng
cung để so tài pháp thuật. Ngài vẫn ngồi nghiễm nhiên bất động, mà
tay chân của thuật sĩ kia không thể cử động nổi, nên đành phải rút
lui.
Sang năm sau phụng theo chiếu chỉ,
Ngài bắt đầu phiên dịch kinh điển tại viện Bồ Đề, và dâng sớ cung
thỉnh chư danh tăng cùng duyệt bản dịch tiếng Tàu. Khởi đầu, Ngài dịch
một quyển Hư Không Tạng Cầu Văn Trì Pháp. Sa môn Tất Đạt chuyển ngữ.
Vô Trước ghi chép, rồi đem vào cung nội. Nhà vua xem qua rất là vui mừng
và tán thán Ngài.
Xưa kia, sa môn Vô Hành sang Tây Vức
và Thiên Trúc học ngôn ngữ những nơi đó, cùng phiên dịch kinh điển, rồi
trở về. Chẳng may thay, Vô Hành thị tịch tại bắc Thiên Trúc. Những bản
dịch của Vô Hành được mang về, đặt tại chùa Hoa Nghiêm. Ngài Thiện
Vô Úy cùng thiền sư Nhất Hạnh tuyển chọn được vài quyển thuộc pháp
môn tổng trì, mà chưa được phiên dịch.
Khai Nguyên thứ mười hai (724), Ngài
phụng chiếu đến trú tại chùa Phước Tiên ở Lạc Dương, rồi phiên dịch
quyển kinh Tỳ Lô Giá Na. Bộ kinh này có một trăm ngàn bài tụng. Ngài lại
dịch ra bảy quyển kinh Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Thông Biến
Gia Trì (hay kinh Đại Nhật, thuộc hệ Thai Tạng Giới của Mật giáo). Sa
môn Bảo Nguyệt chuyển ngữ. Thiền sư Nhất Hạnh ghi chép và hiệu đính.
Văn dịch thâm thúy; trên phù hợp với ý của Phật, dưới khế hợp với
căn duyên của chúng sanh, khiến lợi ích phổ cập khắp nơi. Ngài lại dịch
ra ba quyển kinh Tô Bà Hô Đồng Tử, và ba quyển kinh Tô Tất Địa Yết
La. Hai quyển kinh này đầy đủ các thần chú chân ngôn Tỳ Nại Da, tức Mật
Chú Cấm Giới. Người chưa nhập vào Mạn Trà La, thì không thể tụng
trì, cũng giống như người chưa thọ giới cụ túc thì không thể nghe chư
tăng tụng giới. Quyển kinh Hư Không Tạng Bồ Tát Năng Mãn Chư Nguyện Tối
Thắng Tâm Đà La Ni Cầu Văn Trì Pháp là một phần nhỏ trong quyển Kim
Cang Đảnh Thành Tựu Nhất Thiết Nghĩa Đồ.
Tánh tình Ngài thích nơi vắng lặng
tịch tĩnh. Ngài thường khai mở pháp thiền quán, khuyến khích kẻ sơ học.
Đương thời, thiền sư Nhất Hạnh là vị hiền triết, thâm nhập định
huệ, thấu suốt diệu lý âm dương, và được vua quan quy ngưỡng tôn
kính. Tuy nhiên, vì vẫn còn có những chỗ nghi ngờ, nên Nhất Hạnh cũng
thường đến cầu ngài Thiện Vô Úy khai thị. Tại bổn viện, Ngài thường
đúc những ngôi tháp bằng đồng, tinh xảo hơn trời người, để làm
khuôn mẫu cho hậu thế. Đại chúng trong chùa cũng bắt chước Ngài mà đúc
tháp. Lần nọ, một ngọn gió lớn thổi đến, khiến lửa phụt cháy lan.
Ngài bảo đại chúng rằng chớ có lo sợ. Quả nhiên trong giây lát, tuyết
rơi xuống, khiến lửa tắt, và ngay trong ngôi tháp chợt xuất ra một đóa
hoa. Đại chúng đều vui mừng tán thán.
Lần khác, trời hạn hán, nhà vua
sai sứ đến thỉnh Ngài cầu mưa. Ngài bảo:
- Nay bị hạn hán là điều đương
nhiên. Nếu cứ cưỡng ép mà cầu rồng phun mưa thì sẽ bị bão lụt, tự
chiêu tổn hoại.
Nhà vua cứ một mực khẩn cầu,
nói:
- Dân chúng bịnh khổ vì hạn hán.
Có phong lôi (sét đánh) cũng là đủ thích ý rồi.
Ngài từ chối mãi cũng không được,
nên bắt buộc phải lập đàn cầu mưa. Lúc quan quân đem tràng phan, tù và
ra, Ngài bảo rằng không đủ để cầu mưa. Ngài bèn lấy một bát nước,
rồi dùng một con dao nhỏ quậy bên trong, và tụng trăm câu thần chú bằng
tiếng Phạn. Trong khoảnh khắc, có một con rồng thân hình màu đỏ, dài cả
một ngón tay, bơi lặn dưới đáy bát nước. Ngài lại quậy nước và tụng
thần chú. Lát sau, một làn khói trắng từ trong bát nước xông lên, bốc
cao mấy chục thước rồi tan mất. Ngài bảo các vệ sĩ:
- Hãy đi mau. Mưa sẽ rơi !
Các vệ sĩ vừa bước ra khỏi giảng
đường, rồi xoay đầu nhìn lại, thấy vầng khói trắng chợt bay trở lại
vần vũ trên nóc mái giảng đường, rồi lại có một cơn gió thổi đến,
cùng tiếng sét nổ vang. Các vệ sĩ vừa trở lại cầu Thiên Tân thì nước
mưa chảy tràn và chạy theo vó ngựa. Cây cối hai bên vệ đường bị gió
thổi ngã rất nhiều. Lúc các vệ sĩ vào triều bẩm tấu, y phục của họ
dính đầy bùn sình. Nhà vua càng tín phụng Ngài hơn.
Lần nọ, có một con thuồng luồng
sống trên một ngọn núi. Lúc vừa đến đó và thấy nó, Ngài bèn hô:
- Hãy mau qua thành Lạc Dương !
Nói xong, Ngài tụng thần chú vài
trăm biến. Vài ngày sau, con thuồng luồng chết. Đó là điềm báo loạn An
Lộc Sơn sắp phát khởi. Hôm nọ, Ngài đến thăm luật sư Đạo Tuyên. Đạo
Tuyên vừa thấy Ngài, bèn sanh tâm khinh lờn. Đến tối, gián rệp bò đầy
vào cửa phòng của Đạo Tuyên. Ngài Thiện Vô Úy bèn quát:
- Lão bộc luật sư đã giết các
Phật tử.
Đạo Tuyên mới biết Ngài là một
vị Bồ Tát hóa thân, nên đắp y ca sa, trịnh trọng lễ bái sám hối.
Niên hiệu Khai Nguyên thứ hai mươi
(732), Ngài dâng sớ xin trở về Thiên Trúc, nhưng nhà vua không khứng chịu.
Đến mồng bảy tháng mười, niên hiệu Khai Nguyên thứ hai mươi ba (735),
Ngài nhập tịch, thọ chín mươi chín tuổi, được tám mươi tăng lạp.
Tăng lữ trong toàn quốc đều đau buồn mến tiếc. Tân Luật Sư đứng ra
lo việc an táng. Ba ngày sau, tăng chúng an táng nhục thân của Ngài tại
chùa Quảng Hóa ở Long Môn tại núi Tây Sơn. Do sức định huệ, toàn thân
của Ngài không hoại. Ngày làm lễ an táng nhục thân của Ngài, trời đất
ảm đạm u buồn, núi non đều đổi màu sắc. Đệ tử nối pháp là thiền
sư Bảo Úy, thiền sư Huệ Úy, v.v...
66. Ngài Bát Lặt Nhã (Trí Huệ) [^]
Ngài là người nước Ca Tất Thí
ở bắc Thiên Trúc, tên tục là Kiều Đáp Ma Đề. Mới bảy tuổi mà phát
tâm xa lìa gia đình, quy y Tam Bảo. Bấy giờ, với thiên tư đỉnh ngộ, Ngài
thường y theo lời dạy của chư đại đức mà học một trăm ngàn câu kệ
của bốn bộ kinh A Hàm, và ba mươi ngàn bài kệ của kinh A Tỳ Đạt Ma. Lúc
đến tuổi trưởng thành, Ngài theo vị tôn sư đi qua nước khác để thọ
giới cụ túc. Lúc ấy, Ngài tụng thuộc gần bốn mươi ngàn bài kệ của
bộ Tát Bà Đa, và hai mươi bảy ngàn bài kệ của bộ Câu Xá. Ngài lại
đọc tụng và thông suốt nghĩa lý bộ luận Đại Bà Sa. Trong bảy năm, Ngài
trú tại đó để chuyên tu học giáo lý Tiểu Thừa, rồi đến tu viện Na
Lan Đà ở trung Thiên Trúc. Nơi đó, Ngài học kinh luật giáo lý Đại Thừa
như Duy Thức, Du Già, Kim Cang, Bát Nhã, Luật tạng, và ngũ minh. Ngài lại y
chỉ theo học ba đại luận sư đương thời như Trí Hộ, Tiến Hữu, Trí Hữu.
Sau này, Ngài đến chiêm lễ rừng Song Lâm (Ta La Song Thọ), nơi đức Phật
nhập Niết Bàn, và tám tháp lớn thờ xá lợi của Phật. Trong mười tám
năm ròng, Ngài thường qua lại chiêm ngưỡng lễ bái các thánh tích.
Nghe tiếng một danh sư tại nam Thiên
Trúc, Ngài bèn đến đó để cầu học đạo. Nơi đó có quán đảnh sư là
Đạt Ma Da Xá. Vừa thấy ngài Bát Lặt Nhã, ngài Đạt Ma Da Xá biết đây
là pháp khí, nên dạy kinh Du Già Pháp Nhập Mạn Trà La Mật Hộ Thân Ngũ Bộ
Ấn Khế. Trong một năm, Ngài học thuộc ba ngàn năm trăm kệ tụng. Nghe Bồ
Tát Văn Thù đang trụ ở nước Chi NaẠ, nên Ngài chống tích trượng đi về
hướng đông để truyền bá chánh pháp. Thế nên, Ngài theo thuyền sang Đông
Độ. Thuyền vừa vào biên cảnh Quảng Châu thì bị gió thổi ngược lại
miền đông nước Sư Tử. Ngài lại lên thuyền lớn, chu du khắp các nước
ở Nam Hải. Vừa vào vùng duyên hải tỉnh Quảng Đông thì có một cơn gió
lốc thổi đến, khiến thuyền bể người chết, duy chỉ còn một mình
Ngài sống sót. Đến tối canh năm thì lặng gió. Bấy giờ, kinh luận mà
Ngài đem theo cũng bị trôi dạt mất. Lúc Ngài lội được lên bờ thì thấy
kinh luận nằm rải rác trên bãi biển. Do đó, Ngài bèn lấy cây trúc mà vạch
tìm kinh luận dưới cát biển. Ngài tự bảo:
- Chắc là căn tánh của người Chi
Na chưa thành thục để tiếp nhận kinh luận giáo lý Đại Thừa này.
Ngài bèn mang kinh, đi bộ nửa tháng
thì đến Quảng Châu. Đương thời nhằm vào đời vua Đức Tông.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ tám
(792), nhà vua ban sắc lịnh cho Ngài vào kinh thành, khởi sự phiên dịch
kinh điển. Bấy giờ, chư danh tăng cũng hội tụ, đồng hành việc phiên dịch.
Sa môn Bát Nhã (người nước Kế Tân), tụng kinh văn tiếng Phạn. Các sa
môn ở chùa Quang Trạch chuyển ngữ. Sa môn Viên Chiếu ở chùa Tây Minh ghi
chép.
Suốt những năm trú nơi đó, Ngài
luôn tham dự việc phiên dịch kinh điển. Lời văn lưu loát, khiến nhà vua
cũng phải ban sắc viết lời tựa cho những bộ kinh mà Ngài vừa phiên dịch
xong.
Sau này, Ngài thị tịch tại Lạc Dương.
Phần mộ được an táng tại Tây Võng của Long Môn. Tháp hiện nay vẫn
còn tồn tại.
67. Ngài Liên Hoa [^]
Ngài là người Thiên Trúc. Năm 784,
chống tích trượng sang yết kiến Đường Đức Tông, xin một cái chuông,
để mang trở về Thiên Trúc mà làm Phật sự. Vua ban sắc cho tiết độ sứ
Lý Phục ở Quảng Châu đúc chuông đồng. Đúc xong, nhà vua ban sắc cho người
mang sang nam Thiên Trúc để tại chùa Kim Đôi. Ngài lại mang cái chuông này
đến nước Bảo Quân (Ratnasena), và an trí trong tháp Tỳ Lô Giá Na. Sau
này, Ngài mang phần cuối của kinh Hoa Nghiêm đến kinh đô. Tam tạng pháp sư
Bát Nhã tại chùa Sùng Phước phiên dịch thành bốn mươi quyển.
68. Ngài Mâu Ni Thất Lợi (Munisri, dịch là Tịch Mặc) [^]
Ngài là người bắc Thiên Trúc, xuất
gia thọ pháp tại tu viện Na Lan Đà. Năm 793, Ngài xuất phát từ tu viện
Na Lan Đà, rồi đến Trường An vào năm 800. Sau đó, Ngài được vua ban sắc
cho trú tại chùa Từ Ân, và cùng tam tạng pháp sư Bát Nhã dịch mười quyển
Thủ Hộ Quốc Chủ Đà La Ni.
69. Ngài Mãn Nguyệt (Purnasoma) [^]
Ngài là người ở Tây Vực, sang Chấn
Đán, nhận trọng trách phiên dịch kinh điển. Ngài quán thông thấu triệt
pháp môn Du Già, cùng có thần lực kỳ dị. Đời Đường Văn Tông, niên
hiệu Khai Thành (836-840), Ngài mang kinh điển bằng tiếng Phạn đến Trung
Thổ, và cùng với sa môn Kim Cang Tất Địa, v.v... dịch bốn quyển Đà La
Ni Tập và một quyển Thú Đà Thiên Tử Thuyết Tôn Thắng Kinh. Bấy giờ
ngài Tri Huyền, tức quốc sư Ngộ Đạt, tôn ngài Mãn Nguyệt làm thầy.
Ngoài ra, từ thế kỷ thứ nhất đến
thế kỷ thứ mười, có rất nhiều nhà dịch giả từ Thiên Trúc, Đại Nhục
Chi, Tây Vực, v.v... sang Trường An, Lạc Dương, Kiến Nghiệp, v.v... phiên dịch
kinh điển như sau:
Ngài An Pháp Khâm, người nước An
Tức, tại Lạc Dương từ năm 281 đến năm 306, dịch kinh Đạo Thần Túc
Vô Cực Biến Hóa, kinh Văn Thù Sư Lợi Hiện Bảo Tạng, kinh A Xà Thế Vương,
truyện A Dục Vương.
Ngài Chi Pháp Độ, người nước Đại
Nhục Chi, dịch kinh Thệ Đồng Tử, v.v... tại Lạc Dương vào năm 301.
Ngài Nhã La Nghiêm, người Thiên
Trúc, dịch kinh tại Lạc Dương vào khoảng năm 316.
Ngài Chi Đạo Căn, người nước Đại
Nhục Chi, đến Kiến Nghiệp vào năm 335, dịch kinh Phương Đẳng, Pháp Hoa,
v.v...
Ngài Trúc Đàm Vô Lan (Dharmaranya, dịch
là Pháp Chánh), người nước Thiên Trúc, dịch kinh tại Kiến Nghiệp từ năm
381 đén năm 395.
Ngài Chi Thi Lôn, người nước Đại
Nhục Chi, dịch hai quyển kinh Như Huyễn Tam Muội, Thượng Kim Quang Thủ, và
hai quyển kinh Thủ Lăng Nghiêm vào đời Tiền Lương, năm 373.
Ngài Cưu Ma La Bồ Đề (Kumarabodhi,
dịch là Đồng Giác), là người nước Thiên Trúc, dịch kinh tại Trường
An từ năm 369 đến năm 371.
Ngài Đàm Ma (Dharmapriya, dịch là
Pháp Ái), dịch kinh tại Trường An vào năm 382.
Ngài Ca Lưu Đà Gia (Kalodaka, dịch
là Thời Thủy), là người nước Thiên Trúc, dịch kinh tại Kiến Nghiệp
vào năm 392.
Ngài Khương Đạo Hòa, người nước
Khương Cư, dịch kinh tại Kiến Nghiệp vào năm 396.
Ngài Tăng Già Đà (Sanghata, dịch
là Nhiêu Thiện) là người Tây Vức, dịch kinh tại Bắc Kinh từ năm 402 đến
412.
Trúc Nan Đề (Nandi, dịch là Vân Hỷ)
cư sĩ người Thiên Trúc, dịch kinh tại Kiến Nghiệp vào năm 419.
Ngài Chi Đa Mật (Gitamita, dịch là
Ca Hữu) người Tây Vực, dịch kinh tại Kiến Nghiệp vào năm 420.
Ngài Công Đức Trực (Gunaila) là người
ở Tây Vực, đến Kinh Châu dịch kinh vào năm 462.
Ngài Phật Đà Bạt Di (Sanghavarman)
người nước Sư Tử, dịch kinh tại Kiến Nghiệp vào năm 478.
Ngài Vật Đề Đề Sạn Ngư (dịch
là Liên Hoa Thanh Tịnh) người nước Quy Từ. Ngộ Không từ Thiên Trúc đi
ngang qua nước Quy Từ, gặp ngài Vật Đề Đề Sạn Ngư tại chùa Liên
Hoa, nên cung thỉnh dịch kinh Thập Lực.
Ngài Bát Nhã là người nước Kế
Tân. Năm 795 dịch ra mười quyển thuộc phần cuối của kinh Hoa Nghiêm là
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, do Ngài mang từ nước Ô Trà sang Đông Độ.
Ngài Vô Năng Thắng là người A Chất
Đạt Tản ở Thiên Trúc, cũng phiên dịch kinh điển vào cuối đời Đường.
Y cứ theo quyển ‘Khai Nguyên Thích
Giáo Lục Tải’, thì từ đời Hậu Hán đến đời Đường niên hiệu
Khai Nguyên, các nhà dịch giả, gồm chư tăng lẫn cư sĩ, có khoảng 171 vị,
dịch được 2278 bộ và 7046 quyển kinh. Những kinh điển này bao gồm những
bộ kinh chân chánh và ngụy tạo. Theo quyển ‘Khai Nguyên Thích Giáo Lục Tải’
thì những bản kinh chân thật, hiện còn tồn tại là 968 bộ và 4507 quyển.
Vào đời Tống dịch thêm được hơn năm trăm quyển. Tổng cộng khoảng
năm ngàn quyển kinh luật luận. Từ năm 67 đến năm 789 là thời gian mà đại
đa số các kinh điển đã được phiên dịch. Trước và sau thời gian đó,
đều là những phần phụ.
Tài liệu
phiên dịch và trích dẫn
1. Đại Tạng Kinh quyển thứ 50, bộ
sử truyện thứ 2: Cao Tăng Truyện, Tích Cao Tăng Truyện, Tống Cao Tăng Truyện.
2. Trung Quốc Phật Giáo Thông Sử
(quyển 1, 2, 3, 4), Liêm Điền Mậu Hùng trước tác. Quan Thế Khiêm dịch.
3. Trung Quốc Phật Giáo Phát Triển
Sử (quyển 1, 2, 3), Trung Thôn Nguyên Đẳng trước tác. Dư Vạn Cư dịch.
4. Trung-Ấn Phật Giáo Giao Thông Sử,
Thích Đông Sơ trước tác.
5. Ấn Độ Thông Sử, Chu Dương
Quang trước tác.
6. Phật Thiền Cao Tăng, Lâm Đồng
Chiếu biên soạn.
7. Trung Quốc Phật Giáo Sử, Tưởng
Duy Kiều.
8. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam,
Thích Mật Thể.
9. Hai Ngàn Năm Việt Nam và Phật
Giáo, Lý Khôi Việt.
10. Kenneth Ch'en, Buddhism in China, A
History Survey.
Mục
lục | I | II | III | IV | V |