...... ... | . | . | . | . | . |
Theo kinh Trung A Hàm số 128 (Majjhima Nikàya 128) thì khi ấy đức Phật đã giảng giải rõ mười một Tùy phiền não luôn luôn xảy ra cho một thiền giả nhiều quyết tâm, nhẫn nại và tinh tấn, đúng như kinh nghiệm bản thân của Phật đã từng trải qua, chứ không phải do Ngài dùng Thánh tuệ của một bậc Toàn Giác mà biết được. Phần cuối, đức Phật lại dạy cho A Nậu Lâu Ðà cách áp dụng Vô Lượng Tâm Xả để giải trừ Tùy phiền não thứ mười một, và cũng là "Tùy phiền não chót" trong các chướng ngại pháp, hầu giúp ông tiến lên Thánh hạnh một cách vững chắc. Ðoạn đức Phật chúc lành cho ba đệ tử tinh tấn tu hành, rồi Ngài trở lại Trúc Lâm tịnh xá... A Nậu Lâu Ðà, sau đó tuy đã tiến triển mỗi ngày một tinh vi trong các bậc thiền, và dù hoàn toàn thuần thục trong nhiều Tịnh pháp Hữu sắc, thế mà một hôm ông đã đến gặp Trưởng lão Xá Lợi Phất (Sàrìputta) và nói rằng: - Này đạo huynh Xá Lợi Phất! Bằng "con mắt thanh tịnh" (Thiên Nhãn) đã được định lực rèn luyện, trở nên siêu phàm, tiểu đệ thường nhìn thấy hàng ngàn vạn chiều vũ trụ. Nhất thời nguyện lực của tiểu đệ rất hùng hậu và bất thối. Tinh thần của tiểu đệ luôn luôn giác tỉnh và sáng tỏ. Thể xác của tiểu đệ đang lành mạnh và không bị kích thích bởi bất cứ trần cảnh gì. Trí nhớ của tiểu đệ có thể gợi lại dễ dàng và rõ rệt trước mọi đề mục. Thế nhưng tâm linh của tiểu đệ hiện tại vẫn chưa được tự do, giải thoát khỏi những phiền não vi tế là nghĩa làm sao? Trưởng lão Xá Lợi Phất liền trả lời: - Này hiền đệ A Nậu Lâu Ðà! Khi hiền đệ nghĩ rằng hiền đệ đã đắc "Thiên Nhãn", có thể nhìn thấy ngàn vạn chiều vũ trụ, tức là sự tự phụ đang hiện diện trong tâm hiền đệ! Khi hiền đệ nghĩ rằng nguyện lực của hiền đệ đang bất chuyển, tinh thần của hiền đệ luôn luôn giác tỉnh, thân thể của hiền đệ vẫn lành mạnh, trí nhớ của hiền đệ hằng minh mẫn, tức là sự loạn động vì tự mãn (một loại tư duy ràng buộc) đang có mặt trong tâm hiền đệ đấy. Khi hiền đệ nghĩ rằng tâm linh của mình không được tự do với những phiền não vi tế, tức là hiền đệ bị chướng ngại pháp Hồ nghi quấy nhiễu. Tốt hơn hiền đệ nên xua đuổi ba thứ tư tưởng bất thiện ấy đi, rồi dồn hết mọi tư duy vào các pháp Vô thường, Khổ não và Vô ngã, nhất là dồn chú ý vào cứu cánh "Bất hữu", "Bất thủ", "Vô sinh", "Vô diệt", "Niết bàn". Sau khi nghe những lời hướng dẫn của Trưởng lão Xá Lợi Phất (Sàrìputta), A Nậu Lâu Ðà (Anuruddha) liền trở về tịnh cốc, tiếp tục cuộc sống cô độc, tinh tấn hành thiền, cố gắng loại trừ ba chướng ngại ấy trong tâm. (theo Anguttara Nikàya 3: 128 - Tăng Chi A Hàm số 3: 128). Một lần khác, A Nậu Lâu Ðà ẩn tu trong lãnh thổ bộ lạc Cetiya, nằm về hướng Ðông vườn Trúc Lâm. Một hôm trong khi đang hành thiền thì thiện tư duy sau đây bỗng hiện lên trong tâm ông: - Bậc Ðại sĩ (Mahàpurisavitakka) là người phải có đời sống gồm đủ bảy phẩm cách cao thượng là: 1/ Thanh đạm, 2/ Tri túc, 3/ Ẩn dật, 4/ Quả cảm, 5/ Cảnh giác, 6/ Ðịnh tâm, 7/ Trí tuệ. Như thế một Sa-môn trong Phật giáo không nên thiếu bảy đức tính này. Ðức Phật dùng Tha Tâm Thông biết rõ ý nghĩ ấy trong tâm vị Tỳ-khưu em họ, và cũng là đệ tử. Ngài liền hiện đến trước mặt A Nậu Lâu Ðà để tiếp độ và khen ngợi rằng: - Này A Nậu Lâu Ðà! Lành thay là điều ông đang tư duy! Ông đã ngưỡng mộ bảy đức tính mà một vĩ nhân không thể thiếu được như thế nào, thì trong thiền pháp của Như Lai, một Sa-môn hành giả, chẳng những không thể thiếu bảy đức tánh ấy, mà họ còn phải có thêm đức tính thứ tám là Không phóng tâm vào trần cảnh nữa! Tỳ-khưu nào là người đã nghe hiểu giáo pháp của bậc Toàn Giác, mà còn có khuynh hướng để tâm duyên theo những thỏa mãn phàm tình, thì Tỳ-khưu ấy thật không xứng đáng làm đệ tử Phật dạy. (Nhóm chữ "không phóng tâm vào trần cảnh" trên đây ám chỉ từ ngữ (Pàli) trong kinh Phật là "Nippapanca", tức không có khuynh hướng mắc dính vào Ngũ trần: sắc, thinh, hương, vị, và xúc. Hay sự giải thoát dứt khoát khỏi tham luyến xác thân hữu hình, đa tính và phức tạp của con người. Rồi "Hữu Dư Niết Bàn" bản chất vốn là trạng thái giải thoát khỏi khổ thân hiện tại nầy vậy! Ngược lại, cũng trong kinh Pàli, chữ "Papanca", không có tiếp đầu ngữ "NIP" có nghĩa là tâm mắc dính, đắm chìm trong các dục lạc ngũ trần, và chịu vô số thống khổ, tương đương với đặc tính đa dạng và phức tạp của những chúng sanh hữu thể luân hồi). Ðức Phật còn nhấn mạnh với A Nậu Lâu Ðà rằng: - Nếu trong khi hành thiền, phát triển được tám đức tánh ấy mà ông có thể đạt được Tứ Thiền dễ dàng, theo ý muốn, thì từ đó ông sẽ không còn bị Ngũ trần (sắc, thinh, hương, vị, và xúc) ảnh hưởng tới tâm nữa. Ðời sống thể xác của ông lúc ấy cũng sẽ an vui, tri túc với bốn món vật dụng tối thiểu là y phục, thực phẩm, chỗ ở, và thuốc trị bệnh... Trạng thái này có thể so sánh như một người trần tục hưởng thụ những xa xỉ phẩm vậy. Bốn món vật dụng đạm bạc ấy hằng ngày không làm cho ông mắc dính Ngũ trần, trái lại nhờ nó che chở thân thể mà ông có thể tinh tấn hành thiền để đạt đến đích giải thoát cao thượng. Lúc đức Phật từ giã vị đệ tử nầy, Ngài cũng khuyên A Nậu Lâu Ðà nên tiếp tục ẩn tu trong vùng phía Ðông vườn Trúc Lâm. A Nậu Lâu Ðà cung kính vâng lời, và ông đã tịnh nhập một mùa an cư kiết hạ viên mãn ở đó. Theo kinh Tăng Chi A Hàm số 3/30 (Anguttara Nikàya 3: 30), thì A Nậu Lâu Ðà nhờ tinh tấn vượt bực, nên sau đó chẳng bao lâu ông đắc quả A-la-hán (Arahatta). Thành thử, lần Phật đến hỗ trợ ông ấy, cũng là lần tiếp độ sau cùng, bởi một Thánh nhân A-la-hán là bậc đã biến thành "Vô học", "Vô nhiễm" và "Bất đọa" vậy! Ngay khi vừa đắc quả A-la-hán, Thánh nhân A Nậu Lâu Ðà đã ứng khẩu ngâm mấy câu kệ, cúng dường đức Phật rằng:
[ IV] A NẬU LÂU ÐÀ VÀ THÁNH PHÁP TỨ NIỆM XỨ (Catu Satipatthàna) Con đường tu luyện viên dung của A Nậu Lâu Ðà có hai sắc thái nổi bật là thần thông tuyệt đỉnh (nhờ Thiền định) và giải thoát rốt ráo (nhờ pháp Tứ Niệm Xứ = Catu Satipatthàna). Trong ba chương trước, chúng tôi đã đề cập về sự đắc các bậc Thiền định, đạt được nhiều loại thần thông hạn hữu, nhất là Thiên Nhãn Thông, của Thánh Tăng rồi. Bây giờ xin nói qua pháp Tứ Niệm Xứ mà ông cũng là bậc có khả năng rèn luyện thành công siêu đẳng. Sách chép: Thánh Tăng A Nậu Lâu Ðà nhiều lần được hỏi nhờ đâu ông có một sự hiểu biết vô cùng "vĩ đại" (ám chỉ Linh tuệ trực giác: Mahàbhinnatà), bao gồm cả năm loại năng lực siêu phàm (như thấy xa vạn dặm, ngửi xa vạn dặm, nếm xa vạn dặm, và tàng hình, biến hiện thân xác ở bất cứ nơi nào mình muốn, để tiếp xúc với đối tượng) - Cùng phẩm cách tuyệt đỉnh thứ sáu là đắc quả A-la-hán, giải thoát? Trong mỗi trường hợp A Nậu Lâu Ðà luôn luôn trả lời rằng: - Bần Tăng nhờ thực hành thiền định không gián đoạn, và sống với bốn Thánh Pháp Niệm Xứ (Satipatthàna) mà đạt được một số Thần Thông và Thánh quả giải thoát". (theo Tạp A Hàm số 47/28, 52/3, 6 và 11). Riêng các khả năng siêu phàm, nhất là khả năng nhớ lại đến hàng ngàn chu kỳ đại kiếp trước, thì câu trả lời của Thánh Tăng có nội dung tương tự, được tìm thấy trong hai đoạn kinh Tạp A Hàm số 52/12 và 52/11 (Samyutta Nikàya 52/12, 52/11). Và để đề cao sự diệu dụng của riêng pháp Tứ Niệm Xứ, Thánh Tăng A Nậu Lâu Ðà còn nói: - Niệm Thân, niệm Thọ, niệm Tâm, và niệm Pháp. Bốn thiền tác này hằng giúp cho bần Tăng kiểm soát được những phản ứng vi tế nằm sâu trong cảm thức hướng thiện, Ariya Iddhi.
Tiếp theo, A Nậu Lâu Ðà còn giải rõ: - Nhờ bốn Niệm ấy mà bần Tăng có thể giác tịnh, thấy được tâm nào là tâm thúc đẩy tạo nghiệp, và tâm nào là tâm không thúc đẩy tạo nghiệp, rồi bần Tăng vô tư, khách quan, xem nó như nhau, bình đẳng, và thực hiện pháp Xả. (theo Tạp A Hàm số 52/1: Samyutta Nikàya 52/1).
Xa hơn nữa, Thánh Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thực hành Tứ Niệm Xứ như sau: - Bậc xuất gia mà chểnh mảng việc tu hành pháp Tứ Niệm Xứ thì chẳng khác nào họ không muốn tiến bước trên con đường Bát Chánh. (theo Tạp A Hàm số 52/2). Vì rằng bốn Thánh Pháp Niệm Xứ này là ngọn đuốc soi đường, đưa hành giả đến mục tiêu cuối cùng giải thoát, chấm dứt mọi khát vọng, và tham lam. (theo Tạp A Hàm số 52/7: Samyutta Nikàya 52/7). Ví như dòng nước con sông Hằng, chảy qua Trung Ấn, không thể nào không ra biển, thì một Sa-môn khi thực hành Thánh pháp Tứ Niệm Xứ, cũng không thể nào rời xa đời sống phạm hạnh, thanh tịnh, để trở lại kiếp sống đau khổ trần tục. (theo Tạp A Hàm số 52/8). Một lần nọ, A Nậu Lâu Ðà bị bệnh nặng, ông đã làm cho tất cả đồng đạo vô cùng ngạc nhiên về pháp thanh tịnh tâm thức của ông. Mức độ đau đớn thân xác do thân bệnh ông gây ra, nếu là người khác thì phải lăn lộn, quằn quại, hoặc ai gan lì lắm cũng phải run rẩy tay chân, nhăn nhó mặt mày. Thế mà A Nậu Lâu Ðà vẫn điềm tĩnh dịu hòa. Ông thản nhiên giữ tâm trong pháp thiền, như một nhà điêu khắc lộ thiên chăm chú tô điểm tác phẩm duy nhất của mình, mà không biết gì đến mưa nắng gay gắt, hay gió bão xung quanh. Ðược hỏi nhờ đâu ông có thể chịu nổi những khổ bệnh tàn khốc như thế, A Nậu Lâu Ðà liền trả lời: - Bần Tăng nhờ để tâm thường trú trong Thiền Pháp Tứ Niệm Xứ." (theo Tạp A Hàm số 52/10). Một hôm, Trưởng lão Xá Lợi Phất (Sàrìputta) đến thăm A Nậu Lâu Ðà vào buổi tối, và hỏi vị sư đệ này hiện tại đang thực hành thiền pháp gì, mà nét mặt ông luôn luôn tươi tỉnh và thanh tịnh, thì được trả lời: - Bạch đại huynh! Tiểu đệ hằng giây hằng phút thường an trú tâm thức trong thiền Tứ Niệm Xứ! Vì niệm Thân, niệm Thọ, niệm Tâm, và niệm Pháp là bốn sinh hoạt trong đời sống tinh thần của một bậc giải thoát A-la-hán. Nhờ đó Trưởng lão Xá Lợi Phất mới biết được sự đắc quả Thánh Bất Lai của A Nậu Lâu Ðà. Trưởng lão liền tỏ lòng hoan hỷ, và tán thán công phu của vị Thánh nhân sư đệ. (theo Tạp A Hàm số 52/9: Samyutta Nikàya 52/9). Một lần khác, cả hai Trưởng lão Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên (Sàrìputta ca Mahà Moggallàno ca), nhân cùng dịp luận đạo với A Nậu Lâu Ðà (Anuruddha), bèn hỏi ông sự khác biệt giữa một bậc đang tu tập (Sekhà) để tiến lên Thánh quả A-la-hán, với một bậc đã hoàn toàn giải thoát, không còn rèn luyện tâm tánh nữa (Asekhà), thì cũng được ông trả lời như sau:
- Bạch nhị vị đại huynh! Sự khác biệt giữa hai bậc ấy có thể nhìn thấy rất rõ ràng trong tư cách thực hành Thiền pháp Tứ Niệm Xứ của họ! Bậc thứ nhất chỉ thuần thục một phần trong Thánh Pháp này, nên phải còn tu luyện thêm nữa, còn bậc thứ hai đã hoàn toàn thụ đắc, rồi đạo quả luôn luôn nằm trong tâm tư họ, khiến họ "sống bằng Tứ Niệm Xứ" chứ không phải cố gắng thực hành Tứ Niệm Xứ nữa (theo Tạp A Hàm các số 52/4 - 52/5: Samyutta Nikàya 52/4-5).
Ngoài ra, A Nậu Lâu Ðà cũng tiết lộ là ông đã đắc được "Thập Ðại Thần Công" (Dasatathàgatabàla) như một vị Phật. Tuy nhiên, chú giải lại ghi rằng "Thập Ðại Thần Công" của A Nậu Lâu Ðà không hoàn toàn như "Thập Ðại Thần Công" của một bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác. (theo Tạp A Hàm số 52/15-24: Samyutta Nikàya 52/15-24). Lời nói đầu | Phần 1 | Phần 3 | Phần 4 |
Cập nhật: 14-3-2001 | Đầu trang |