- Lịch sử Ngài A-nậu-lâu-đà
(Anuruddha)
- Ðức ngữ: Hellmuth Hecker; Anh ngữ:
Nyànaponika
Việt ngữ: Nguyễn Ðiều (1993)
- Phần 4
- [VI]
- VÀI GIẢI ÐÁP VÀ VA CHẠM CỦA
SA-MÔN A NẬU LÂU ÐÀ
Một hôm nọ, vị kiến trúc sư (có
sách gọi là viên thợ mộc cất nhà) của triều đình, tên là Pancakanga,
đã mời Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà đến nhà để cúng dường thực phẩm.
Ðây là một cư sĩ Phật tử mà căn cứ theo những kinh điển khác, là một
người khá thông hiểu Phật giáo, và rất nghiêm túc trong việc tu hành.
Do đó, sau buổi trai Tăng, Pancakanga,
liền vấn đạo Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà rằng:
- Bạch Thiền Sư! Ðệ tử có một thắc
mắc vi tế, muốn nhờ Thiền Sư giảng giải. Ðó là việc một số Sa-môn
đã khuyên đệ tử nên thực hành pháp thiền giải thoát bằng cách "Mở
rộng tâm ra đến vô cực" (Appamanà Cetovimutti). Và một số Sa Môn
khác lại khuyến khích đệ tử hãy tu pháp Thiền giải thoát cách "An
trụ tâm vào một biên giới", hay một đề mục nhất định, tức là
cho tâm "cô đọng" lại để "bành trướng", đồng hóa với
một lãnh vực thiền định nào đó. (Mahaggatà Cetovimutti). Vậy đệ tử muốn
biết hai cách tu tập thiền pháp ấy, tựu trung giống nhau hay khác nhau?
A Nậu Lâu Ðà vui vẻ phân tích rằng:
- Hai cách tu tập Thiền pháp này hoàn
toàn khác nhau. Cách thứ nhất ám chỉ sự phát triển "Tứ Vô Lượng
Tâm" (Brahma Vihàra), một khả năng diệu dụng, khi hành giả đã thuần
thục trong các bậc Thiền (Jhàna). Tứ Vô Lượng Tâm là sự biểu lộ bốn
phẩm tính, gồm: TỪ (Mettà), BI (Karunà), HỶ (Mudità), và XẢ (Upekkhà). Nhưng
cách tu tập Thiền pháp thứ hai ám chỉ sự an trụ con tâm trong một Ðề
mục hay "giới hạn" nào đó. Chẳng hạn như "đề mục" có
thể là một trong Tứ Ðại, tức Ðất (Pathavì), Nước (Apo), Lửa (Tejo),
hay Gió (Vàyo). Rồi khi tâm đã đắc định, an trú vững vàng trong các bậc
Thiền (Jhàna), thì hành giả mới để tâm "hội nhập", "đồng
hóa" hay "bành trướng" theo khuôn khổ hay giới hạn của đề
mục ấy! Chữ Phạn gọi là trạng thái này là Patibhàgà Nimitta. Tỷ dụ
Ðề mục (Kamatthàna) của hành giả là Nước, thì khi tâm của hành giả
đã đắc Ðịnh, thuần thục trong các bậc Thiền rồi, "tâm định"
ấy sẽ hội nhập, bành trướng và đồng hóa theo khuôn khổ hay giới hạn
của tất cả nước trên mặt đất này, từ một điểm nhỏ nhất như bụi
sương, cho đến toàn thể chất nước trên thế gian. Chữ Phạn đồng
nghĩa với tính "Hòa nhập toàn thể" ấy là "Mahaggatà
Cetovimutti".
Tình trạng hội nhập, bành trướng và
đồng hoá của tâm định trong pháp thiền này, cũng không phải chỉ biểu
hiện trên phương diện thể chất, dung môi, mà còn biểu hiện cả trên phương
diện hình thức và sắc thái nữa. Sự đồng hóa toàn diện đó, trong kinh
chữ Phạn gọi là Kasiịa.
Tiếp theo, A Nậu Lâu Ðà còn nhắc đến
các loại chư thiên trên cõi trời Sắc giới (Rưpàvacara), để dẫn chứng
và so sánh các bậc tu thiền khác nhau. Ông nói:
- Chư thiên trên cõi trời Sắc giới,
tuy ở cùng một cảnh tượng, nhưng cũng có nhiều loại cao thấp khác
nhau: Chư Thiên nào nhờ tu luyện từ kiếp trước thuần thục, mà mức độ
định tâm hiện tại cao hơn, thì hào quang của họ sáng hơn. Còn vị nào
mức độ định tâm tầm thường, thì hào quang của họ yếu ớt. Riêng những
chư Thiên nào, trình độ định tâm đạt đến Tam Thiền, Tứ Thiền hay
Ngũ Thiền, thì hào quang của họ tỏa mạnh và xa vô cùng, không thể đo
lường được.
Mặt khác, sự mạnh hay yếu của các
loại hào quang đó cũng chứng tỏ rằng giác linh của các hạng chư Thiên
ấy rất trong sạch, hay tương đối trong sạch, thanh tịnh nhiều hay thanh tịnh
ít.
Và để trả lời một câu hỏi khác,
do một Sa-môn nêu ra, liên quan đến các hàng chư Thiên vừa nói, A Nậu
Lâu Ðà còn xác nhận rằng ông sở dĩ biết rõ trình độ giác linh của
chư Thiên chúng như thế, là bởi nhiều kiếp trước ông đã từng "sống"
với họ, rồi kiếp này nhờ tu thiền tinh tấn, đắc được Thiên Nhãn
Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông v.v... mà ông có thể "giao cảm",
"nói chuyện" với họ. (theo Trung A Hàm số 127: Majjhima Nikàya 127).
(Ghi chú: Chư Thiên ở cõi trời Sắc
giới, tiếng Phạn gọi là Àbhassarà Devà, có nghĩa là "Linh thức"
sống trong một môi trường tuy còn sắc tố, nhưng rất tinh vi, thanh khiết,
so với thân thể ô trược của loài người, và các giống sinh vật khác
trên trần gian. Có sách nói "Sắc tố tinh khiết" ấy là các vi tử
rất nhẹ, loãng trong ánh sáng, và có thể di chuyển ở ngoại tầng không
khí một cách thần tốc. Thiên chúng ở cõi Sắc giới này, theo kinh điển
ghi rõ, thì trình độ định tâm của linh thức họ, tối thiểu cũng
tương đương với đệ nhị thiền trong "Thanh Tịnh Ðạo" của Phật
giáo).
Một điển tích khác cũng thuật lại
rằng: Khi ấy, đức Phật đang thuyết pháp cho các hàng đệ tử nghe, tại
một quãng trường lộ thiên, nhân nói về hạnh tri túc, bỗng đức Phật
quay sang hỏi A Nậu Lâu Ðà:
- Này A Nậu Lâu Ðà! Ông có hài lòng
với đời sống Sa-môn hiện tại không?
- Bạch đức Bổn Sư! Ðệ tử hoàn
toàn thỏa mãn, an vui với đời sống tri túc, giảm thiểu vật chất này.
Liền đó, đức Phật bèn tán dương:
- Này chư Tỳ-khưu Tăng! Ai là kẻ
phát nguyện xuất gia ngay lúc còn trẻ, tuổi đời đang thanh xuân, quyền
uy, tiền tài, danh vọng có đầy đủ, mà chối bỏ để chọn lấy đời sống
phạm hạnh, là người đáng khen ngợi! Kẻ ấy xuất gia, không phải vì để
tránh bị vua chúa gia hình, cũng không phải vì mất hết của cải rồi thất
vọng, lo sợ nghèo đói, hay nợ nần, mà tìm nơi ẩn dật. Họ xuất gia vì
muốn sống trong Pháp bảo nhiệm mầu, giải thoát! Do đó, những gì họ
tinh tấn thực hành hằng ngày, vốn chẳng phải để khoe khoang, mà là để
tìm thấy hạnh phúc chân thật, nhất là hạnh phúc an tịnh trong các bậc
Thiền, hạnh phúc tẩy trừ được năm chướng ngại nội tâm, và hạnh
phúc diệt tận những phiền não, ác pháp hằng làm cho họ sa đọa. Mục
đích duy nhất của họ là tiến lên Thánh quả giải thoát.
Rồi trước khi chấm dứt lời tán dương,
đức Phật còn nhấn mạnh:
- Này chư Tỳ-khưu Tăng! Vì vậy, mỗi
khi Như Lai công bố sự đắc quả Bất Lai của một Sa-môn viên tịch, Như
Lai không nói để đề cao một đệ tử Phật, mà là để khuyến khích những
bậc phạm hạnh sinh tiền, nên theo gương giải thoát kia, mà tinh tấn đạt
đạo quả cho chính mình.
Và những lời khen ngợi của đức Phật
đó, đã làm cho Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà được khích lệ không ít. (theo
Trung A Hàm số 68: Majjhima Nikàya No 68).
Riêng các câu chuyện nói về sự xuất
hiện của A Nậu Lâu Ðà trên cõi trời, thì kinh Tạp A Hàm số 6/5
(Samyutta Nikàya No. 6/5) có đọan ghi lại như sau:
Khi ấy đức Phật phóng thần quang biết
được một vị trời trên cõi Phạm Thiên (Brahma) đang lầm lạc, suy nghĩ
rằng: "Các Sa-môn, đạo sĩ trần gian, dù tu tập tinh vi đến đâu, cũng
không thể gia nhập vào cõi Phạm Thiên được!".
Ðức Phật liền hóa thân thành một
vầng ánh sáng, bay thẳng lên cõi Phạm Thiên, và xuất hiện an tọa trước
mặt vị trời đó. Thấy đức Bổn Sư tự nhiên biến mất, bốn thượng
đệ tử là Ðại Ca Diếp (Mahà Kassapa), Ðại Mục Kiền Liên (Mahà
Moggallàna), Ðại Ca Phi Na (Mahà Kappina), và A Nậu Lâu Ðà Anuruddha, vội
dùng "Thiên Nhãn Minh" tìm xem Phật đang ở cảnh giới nào, thì họ
được biết đức Phật đang ở cõi trời, để tiếp độ một Phạm Thiên
lầm lạc. Cả bốn vị Ðại đệ tử không hẹn mà cùng hiển lộng thần
thông bay lên hầu Phật. Khi đến nơi, họ đồng cung kính đảnh lễ đức
Thế Tôn, rồi tuần tự ngồi sau lưng đức Phật, chừa một khoảng cách
vừa phải.
Vị Phạm Thiên đang tư duy tự đắc
về sự cao cả của cõi trời mình, bỗng thấy xuất hiện không phải chỉ
một đức Phật Cồ Ðàm, mà còn có cả bốn vị Ðại đệ tử thần thông
siêu đẳng nữa, thì ông lập tức thức tỉnh, dẹp bỏ ngạo mạn, và
tán dương oai lực của Phật Toàn Giác, cùng chư Ðại đệ tử.
Một lần khác, Thiền Tăng A Nậu Lâu
Ðà theo thói quen, thức dậy vào nửa đêm để tụng "Kinh Cứu Khổ"
cho đến sáng. Bất chợt ông "nghe" tiếng một nữ ngạ quỷ rầy
đứa con trai rằng:
- Này con! Con hãy im lặng cùng mẹ
nghe Phật ngôn! Nếu chúng ta hiểu rõ lời Phật dạy và cố gắng hành đúng
theo, thì chúng ta sẽ được rất nhiều hạnh phúc, và sẽ được giải
thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, nhất là được giải thoát khỏi kiếp
làm ngạ quỷ này!
A Nậu Lâu Ðà lập tức dùng "Thần
nhãn" quan sát, thì ông thấy hai mẹ con một nữ ngạ quỷ đang khép
nép, cung kính đứng nhìn ông. (theo Tạp A Hàm số 10/6: Samyutta Nikàya No.
10/6).
Trở lại việc va chạm không thể
tránh khỏi trong đời sống làm người, Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng bị
"chỉ trích" vì đám học trò:
Số là khi ấy xảy ra vụ tranh luận
giữa hai nhóm tu sĩ tại Kosambì. Tôn giả A Nan Ðà (Ànanda) vào hầu Phật
thì được Phật hỏi xem cuộc tranh luận ấy đã chấm dứt chưa. A Nan
Ðà tình thật thưa rằng:
- Bạch đức Thế Tôn! Cuộc tranh luận
vẫn còn tiếp tục, vì một đệ tử của sư huynh A Nậu Lâu Ðà, đang cứng
đầu chia rẽ Tăng già, mà sư huynh (ám chỉ A Nậu Lâu Ðà) không khuyên răn
lấy một tiếng.
Tôn giả A Nan Ðà sở dĩ chỉ trích
như vậy, vì ông vừa hay tin rằng trong lúc có chuyện lộn xộn giữa Tăng
chúng, thì Thiền Sư A Nậu Lâu Ðà lại cùng hai huynh đệ khác là Nandiya
và Kimbila, bỏ vô rừng Gosinga để tu thiền nhập thất, chăm lo trau dồi
thiền định của chính mình, chẳng ngó ngàng gì đến sự "xung đột"
của những đồng đạo xung quanh.
Vì chỉ mới đắc quả Tu Ðà Hườn
(quả Thánh thấp nhất), nên A Nan Ðà còn một ít phàm tính. Ðối với
ông, trách nhiệm của một vị thầy rất quan trọng, bởi những Tỳ-khưu
đang tranh chấp kia, có một số người, vốn là đệ tử của A Nậu Lâu
Ðà.
Sự chỉ trích của Tôn giả A Nan Ðà
sau đó được mô tả rõ rệt hơn nữa, qua câu nói ông đã "phàn
nàn" với đức Bổn Sư:
- Bạch đức Thế Tôn! Sư huynh A Nậu
Lâu Ðà cứ thu nhận đệ tử mà không chú ý gì đến việc hướng dẫn họ
cả!
Nhưng đức Phật đã từ bi phân giải:
- Này A Nan Ðà! Ông chớ nên lẫn lộn
giữa vai trò làm thầy với sự vô minh của một số học trò! A Nậu Lâu
Ðà có thể có duyên lành cho các tu sĩ ấy xuất gia, nhưng ông lại không
có "oai duyên" để quở trách! Vậy thì trong khi vắng mặt A Nậu
Lâu Ðà, ba đại Sa-môn khác là A Nan Ðà, Ðại Ca Diếp, hay Ðại Mục Kiền
Liên, đều có thể can thiệp, chấm dứt cuộc tranh chấp giữa các Tỳ-khưu
Kosambì. Ngoài ra, này A Nan Ðà! Cũng có những hạng Tu sĩ không thể sửa
đổi tật xấu, và họ rất hài lòng khi những đồng đạo xung quanh bị
vướng mắc trong một cuộc tranh luận kéo dài. Nhờ thế, họ sẽ không bị
các bậc Bổn Sư chú ý tìm ra ác tâm của họ, có thể trục xuất họ ra
khỏi Tăng chúng (theo Tăng Chi A Hàm 4/241: Anguttara Nikàya 4/241).
Vả lại, hai người đệ tử trong hiện
tại, có thể có hai ông thầy hướng dẫn hai cách khác nhau, nhưng hai người
đệ tử đó, trong quá khứ lại có ác nghiệp đã tạo từ nhiều tiền kiếp
giống nhau, nên kiếp này họ tự nhiên hành động như nhau. Ðây là trường
hợp của hai Tỳ-khưu mất nết: một đệ tử của A Nan Ðà, và một đệ
tử của A Nậu Lâu Ðà. Cả hai Tỳ-khưu ấy đều rất ngạo mạn, luôn
luôn muốn tỏ ra mình là người hữu lý nhất trong các cuộc tranh luận. Kết
quả, Tôn giả A Nan Ðà, dù thường xuyên quở trách đệ tử, vẫn không
thay đổi hạnh kiểm học trò được. Còn A Nậu Lâu Ðà cứ lo tu thiền
làm gương thì đệ tử cũng chẳng nhận ảnh hưởng gì! (theo Tạp A Hàm số
16/6: Samyutta Nikàya No. 16/6).
Thời đức Phật và chư đại Thánh Tăng
còn tại tiền, mà vẫn có những tu sĩ như thế, huống chi là thời bắt
đầu mạt pháp của chúng ta. Người Phật tử đọc đến đây chắc có thể
cũng thấy được cái tính Tương Ðối trong mọi vấn đề.
[VII]
TIỀN KIẾP A NẬU LÂU ÐÀ
Ða số tiền kiếp của Thánh Tăng A Nậu
Lâu Ðà đều được ghi trong Túc Sinh truyện (Jàtaka). Nhưng một ít cũng
thấy xuất hiện trong Tôn Túc Kệ Ngôn (Theragàthà). Chẳng hạn như chú giải
câu kệ ngôn số 910 thuật rằng:
Thuở giáo pháp của đức Phật quá
khứ tên Kassapa (Ca Diếp), tiền thân A Nậu Lâu Ðà sinh làm một người
nghèo, song thường xuyên cúng dường các bậc Phạm hạnh. Nhằm khi đức
Phật đã viên tịch, người hằng ngày lo chăm sóc, nhang khói ngôi bảo
tháp an trí Xá lợi Phật...
(Lời thêm của dịch giả: Phật quá
khứ Ca Diếp (Kassapa) chỉ trùng tên với Thánh Tăng Ðại Ca Diếp (Mahà
Kassapa), đệ tử đứng đầu của đức Phật Thích Ca trong giáo pháp hiện
hành! Chúng tôi xin lưu ý quí độc giả hai nhân vật lịch sử này, sống
hai thời khác nhau, kẻo sự trùng tên có thể gây ra ngộ nhận).
Nhân một hôm, tiền thân A Nậu Lâu
Ðà tuy nghèo, nhưng đã nhịn ăn mua một lễ vật khá đắt tiền là
"mỡ thơm" (rút ra từ sữa bò) để đốt đèn cúng dường ngôi Bảo
tháp. Hạnh hy sinh cao quí ấy đã ăn sâu vào tiềm thức của tiền thân A
Nậu Lâu Ðà, nên kiếp này nhờ tu thiền đắc quả, ông chợt nhớ lại
và tự thuật, qua bài kệ ngôn sau đây:
"Tôi nhớ rõ cái kiếp xưa nghèo
ấy
Sinh nơi nào và tâm tính làm sao.
Phật nhập diệt rồi, tôi chỉ ra vào,
Tháp Xá Lợi để cúng dường, chăm sóc!".
Còn liên quan đến những kiếp sống
trên cõi trần, hay làm Thiên vương trên cõi trời, thì Thiền Tăng A Nậu Lâu
Ðà đã nói trong ba "Tôn Túc Kệ Ngôn" các số 913, 914 và 915 rằng:
"Lên thiên cảnh, tôi từng là
vua chúa,
Tuổi thọ dài không biết mấy triệu năm.
Ðâu Suất Ðà Thiên, Ðế Thích đã làm
Có phép lạ và chúng thần phủ phục.
*
Xuống trần thế quyền "Chuyển
Luân Thánh Ðức
Lãnh thổ phú cường mở rộng bốn phương
Nam Thiệm Bộ Châu, uy thế khôn lường,
Dùng chánh pháp để an dân lạc nghiệp.
*
Lên với xuống: Trời, người... từng
bảy kiếp.
Bảy kiếp trần gian, bảy kiếp thiên đường...
Mỗi kiếp đều ngồi ngôi báu đại vương.
Mười bốn kiếp, Túc Mạng Minh nhớ rõ!".
(N. Ð. thoát dịch ra văn vần, theo
Theragàthà các câu 913, 914 và 915).
Còn tra cứu về phía Túc Sinh truyện
(Jàtaka), thì các học giả sẽ thấy có ít nhất là hai mươi ba thuật sự,
kể lại tiền kiếp của A Nậu Lâu Ðà. Hầu hết đều xác nhận rằng:
Tiền thân A Nậu Lâu Ðà đã nhiều lần làm vua trời Ðế Thích (Sakka), nhất
là các Túc Sinh truyện số 194, 243, 347, 429, 430, 480, 494, 499, 537, 540, 541,
545, 547.
Có một lần, tiền thân A Nậu Lâu
Ðà sinh làm một vị sứ giả của vua trời Ðế Thích, tên là Paĩcasikha.
Sứ giả ấy là một thiên thần rất giỏi về âm nhạc, nên luôn luôn
được Ðế Thích ưa chuộng.
Riêng bảy kiếp sinh làm người, như
đã nói ở đọan trước, thì tiền thân A Nậu Lâu Ðà thường xuyên sống
hạnh hiền đức. (theo các Túc Sinh truyện số 423, 488, 509, 522: Jàtaka 423,
488, 509, 522). Hai trong số bảy kiếp ấy, tiền thân A Nậu Lâu Ðà và tiền
thân đức Bồ Tát Sĩ Ðạt Ta đã sinh làm đôi anh em. Còn năm kiếp còn lại
thì có ba kiếp, tiền thân ông sinh làm vua (theo Jàtaka 485), một kiếp sinh
làm giáo sĩ của triều đình (theo Jàtaka 515), và một kiếp sinh làm xa phu
hoàng gia (theo Jàtaka 276).
Cảnh bị đọa làm thú, tiền thân A
Nậu Lâu Ðà chỉ bị một lần. Ðó là câu chuyện con chim câu rừng mất
bạn, rất thương nhớ, rồi tình nguyện nhịn đói, như đã ghi ở đọan
trước. (theo Jàtaka 490). Như vậy, nếu kê khai sơ lược, dựa trên Túc
Sinh truyện (Jàtaka), thì tiền thân A Nậu Lâu Ðà đã có mười lăm lần
sinh vào Thiên chúng, bảy lần sinh làm người, và một lần sinh làm thú. Tổng
cộng là hai mươi ba thuật sự vậy.
Ðiểm làm cho chúng ta chú ý ở đây
là trong các tiền kiếp tái sinh làm vua trời (hay vua trần gian) ấy, tiền
thân A Nậu Lâu Ðà đã thường xuyên tỏ ra có nhiều sức mạnh thể xác,
và được ngưỡng mộ tinh thần. Ðiều này chứng tỏ rằng tiền thân
ông đã hưởng quả lành của thiện pháp, chứ không phải như vị vua trời
trong thần thoại Hy Lạp Zeus bị chi phối bởi tình yêu và sự tranh ngôi
trên thiên cung, cũng không như thần Jehovah (hay Yahavé), bậc thường "ứng
lời" vào xác phàm được chọn lựa để tiết lộ "thiên ý"
và nhân danh "thiên quyền" thưởng phạt con người, trong đạo Do
Thái và Nhất Thần giáo.
Nhưng Ðế Thích trong Túc Sinh truyện
đạo Phật thì hoàn toàn khác. Vị Thiên Vương này là chúa tể của cõi
trời thứ ba mươi ba, bậc có nhiều thiện tâm, và luôn luôn tìm cách che
chở những ai bất hạnh.
Câu chuyện đức Ðế Thích cứu nạn
cho một vua lành trên thế gian, xin kể như sau:
Khi ấy đức Bồ Tát sinh xuống cõi
trần làm một vị vua nhân từ. Vua ra lệnh nghiêm cấm toàn dân không được
giết súc vật để lấy máu tế lễ thần linh. Kết quả, có một hung thần
ngu muội đã nổi giận bắt vị vua nhân đức ấy đem hành hình hút máu.
Hoàng hậu thấy chồng sắp bị lâm nguy, bèn cầu khẩn Thiên Vương Ðế
Thích. Bà cất cao giọng ngay thật, hướng lên chín từng mây than rằng:
"Thiên Vương chúa tể cõi trời,
Hào quang người có sáng ngời hay không?
Thấy chăng những giọt máu hồng
Của người vô tội vào trong hung thần?
Nghiệp oan ma quỷ khôn phân
Càng gây càng vướng vào thân đọa đày!
Thiên Vương biết rõ duyên này,
Xin mau bảo vệ vua dày thiện tâm!"...
(N. Ð. thoát dịch theo Jàtaka số 347).
Ðế Thích nghe những lời cầu cứu
ấy, liền lập tức hiện xuống thế gian, đánh đuổi hung thần chạy mất,
rồi cứu mạng vị vua nhân từ, đem lại niềm tin bình an, và sự vui mừng
cho toàn thể hoàng cung.
Về sau này, vua trời Ðế Thích chính
là A Nậu Lâu Ðà, và vị vua nhân từ bị nạn cùng Hoàng hậu, chính là
đức Thái tử Sĩ Ðạt Ta và Công chúa Da Du Ðà La (Yasodharà).
Mặt khác, tiền thân A Nậu Lâu Ðà
tái sinh làm Ðế Thích đã không những chỉ cứu mạng đức Bồ Tát (là
tiền thân Thái tử Sĩ Ðạt Ta) nhiều lần, mà ông còn che chở thanh danh,
hay xuất hiện đưa đức Bồ Tát vượt qua những hoàn cảnh hiểm nghèo,
không biết bao nhiêu lần nữa.
Ngoài ra, trong một số trường hợp,
Ðế Thích (tiền thân A Nậu Lâu Ðà) còn muốn kích thích đức Bồ Tát
(tiền thân Phật Thích Ca), để vị này tinh tấn trau giồi đức hạnh giải
thoát hơn lên. Chẳng hạn như trong Túc Sinh truyện cuối cùng, Ðế Thích
đã hóa thân thành một ông Bà la môn già yếu, để hỏi xin người vợ của
đức Bồ Tát, hầu thử thách hạnh bố thí Ba la mật của vị nầy. (theo
Jàtaka số 547).
Rồi trong một hoàn cảnh khác, Ðế
Thích đã thử lòng quyết tâm bố thí Ba La Mật (Paramità) của đức Bồ Tát,
bằng cách hỏi xin đôi mắt của ông (theo Jàtaka số 499).
Còn để thử hạnh kiên nhẫn và hòa
dịu, Ðế Thích đã bêu nhục, chê bai sự xấu xí của đức Bồ Tát khi
kiếp nọ Bồ Tát sinh ra không được đẹp trai cho lắm. Trước sự chê xấu,
bêu nhục ấy, đức Bồ Tát đã ôn hòa trả lời rằng:
Tôi sở dĩ chịu quả bất hạnh nầy
là vì trong kiếp trước tôi đã tối tăm làm nhiều điều ác độc! Nhưng
trong kiếp nầy, tôi đang tinh tấn trau dồi thân, khẩu, ý, cũng như khuyến
khích, khen ngợi mọi người xung quanh làm như tôi, để kiếp sau khỏi bị
nhiều quả khổ.
Kế đó, Ðế Thích bảo với đức Bồ
Tát rằng:
- Ông muốn ban cho đức Bồ Tát một
điều ước, thì đức Bồ Tát lập tức xin được giải thoát khỏi các tật
xấu như ác tâm, thù ghét, tham lam và khao khát. Xa hơn nữa, đức Bồ Tát
(tiền thân Phật) còn tâm nguyện đừng bao giờ làm hại ai, và Ngài tự
giảng giải rằng:
Tất cả những điều mong ước ấy,
nếu thành tựu là do công hạnh và thiện nghiệp của một người thanh tịnh
đã tạo, chứ không phải được một vua trời nào có thể ban cho cả"
(theo Jàtaka 440: Túc Sinh truyện số 440).
Riêng trong hai Túc Sinh truyện số 429
và 430, thì Ðế Thích đã thử tính ưa chuộng đời sống đạm bạc của
đức Bồ Tát.
Nhóm thuật sự tiếp theo kể chuyện
đức Ðế Thích mời đức Bồ Tát lên cõi trời để chứng kiến những
khung cảnh kỳ diệu, huyền bí trên Thiên giới. Loại thuật sự nầy đã
được mô tả tượng trưng trong câu chuyện nhạc sĩ thổi tiêu tên Guttila
rồi, xin khỏi dài dòng ở đây (theo Jàtaka số 243).
Riêng hai Túc Sinh truyện các số 541
và 494, tiền thân đức Phật đã sinh làm hai vị vua nhân từ tên là Nimi
và Sadhina, thì tiền thân A Nậu Lâu Ðà cũng tái sinh hai lần làm Ðế
Thích. Và ông (Ðế Thích) đã mời và dùng thần thông đưa hai vị vua sống
theo phạm hạnh ấy lên viếng cõi trời.
Bây giờ nói qua những tiền kiếp A Nậu
Lâu Ðà tái sinh làm người, chúng tôi xin chọn những mẫu chuyện sau đây:
Một kiếp nọ, tiền thân A Nậu Lâu
Ðà sinh làm quan Tư vấn Bà la môn trong triều, được nhà vua kính chuộng,
và thường hỏi về những hành động lợi ích và công bằng mà một vị
minh vương nên phối hợp để cai trị toàn dân cho được hiệu quả. Quan
Tư vấn thành thực nói rằng:
Hạ thần không thể trả lời câu hỏi
ấy một cách thông suốt được. Nhưng hạ thần hứa sẽ cố gắng tìm ra
một người đại trí, có thể giúp cho bệ hạ những ý kiến chính trị rất
hay.
Rồi ông đi tìm đức Bồ Tát (tiền
thân Phật) để cầu xin những pháp lành trị dân. (theo Túc Sinh truyện số
515: Jataka N. 515).
Còn khi tiền thân A Nậu Lâu Ðà sinh
làm viên xa phu hoàng gia, một lần vì muốn tránh trận mưa to sắp đổ xuống,
xa phu đã dùng cây nhọn húc vào hông ngựa, để thúc chúng chạy thật
nhanh. Về sau, mỗi khi đi ngang qua chỗ ấy, hai con tuấn mã tự động chạy
thục mạng, in tuồng hoảng sợ một cái gì đó đã làm cho chúng đau điếng
bên hông.
Hiểu được nguyên nhân gây ra kinh
hoàng cho hai con ngựa quí, luôn luôn tận lực chạy theo lệnh của mình,
viên xa phu bắt đầu hối hận, tự trách đã không hành động đúng theo
tinh thần của kẻ kỵ mã. (theo Jàtaka số 276).
Nhiều sắc thái nổi bật và nhiều tư
liệu khác nhau, trong toàn thể Túc Sinh truyện nói về tiền thân A Nậu
Lâu Ðà, đã cho chúng ta thấy một số điểm quy nạp: Ðó là đặc tính,
là nghị lực, và các khía cạnh tâm lý chân thành của tiền thân ông,
lúc nào cũng lo làm tròn bổn phận, duy trì sự bình an, và biết tìm ra
nguyên nhân đau khổ của kẻ khác, kể từ đó có thể sửa lỗi, hay chia
xẻ nỗi khổ với đối tượng. Các đặc tính và nghị lực ấy cũng chứng
minh rằng: Sự thuần thục trong thiền định, cùng với sự chứng đắc
Thượng thừa trong các loại thần thông, của Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà, vốn
bắt nguồn từ những công phu, hay những kinh nghiệm đã qua trong quá khứ,
nhất là trong các tiền kiếp sinh làm vua trời Ðế Thích, hay vua người, mà
được gần gũi với tiền thân Phật (Bồ Tát).
[VIII]
A NẬU LÂU ÐÀ SAU KHI PHẬT NHẬP DIỆT
Theo kinh Ðại Niết Bàn, trong bộ Trường
A Hàm số 16 (Mahà Parinibbàna Sutta - Dìgha Nikàya N. 16) thì Thánh Tăng A Nậu
Lâu Ðà đã có mặt bên cạnh Bổn Sư, lúc đức Phật nhập Niết Bàn.
Khi ấy đấng Toàn Giác biết rõ sự
sắp lìa bỏ nhục thân nầy, Ngài bèn nhập định vi diệu vào các bậc
thiền, nhất là các bậc thiền Hữu Sắc và Vô Sắc. Rồi Phật an trú
vào trong một đại Thiền pháp, tên gọi là "Diệt Thọ Tưởng Ðịnh"
(Tiếng Pàli gọi là Sannà Vedaniya Nirodha)...
Sa-môn hầu Phật là Tôn giả A Nan
Ðà đang buồn rầu, chợt quay hỏi Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà rằng:
- Bạch sư huynh! đức Thế Tôn đã nhập
Niết Bàn chưa?", thì được ông trả lời:
- Này A Nan Ðà! Sư huynh đã nhập định
và dùng "Thiên Nhãn" theo dõi tâm Phật thì được biết Thần Quang
của đức Bổn Sư đang an trú trong Vô Sắc thiền, bậc Diệt Thọ Tưởng
Ðịnh.
- Kính bạch sư huynh! Sư huynh biết rõ
đức Bổn Sư viên tịch, diễn tiến như thế nào, xin sư huynh từ bi thông
báo cho.
"Này hiền đệ A Nan Ðà! Ðể
theo dõi Thần Quang của đức Thế Tôn, tệ huynh đã phải nhập hết thiền
Hữu Sắc (Rùpà Jhàna) đến thiền Vô Sắc (Arùpa Jhàna), vì trạng
thái Phật tịch diệt không nằm trong phạm trù "Ngài muốn sống hay muốn
chết", mà sự "nhắm mắt kỳ diệu" ấy hoàn toàn nằm trong
diễn tiến tự nhiên của thân nghiệp cuối cùng, trước khi Phật trở thành
vô sanh bất tử! Nghĩa là Phật không chối bỏ xác thân này, nếu những tế
bào của sự sống còn hoạt động, đồng thời Ngài cũng không mắc dính,
bám víu vào sự sống hữu hạn, phù du, và xoay vần ấy. Ngài an trú ở
các bậc thiền, theo thứ tự từ thấp đến cao (Nhất thiền lên Tứ thiền),
rồi từ cao đến thấp (Tứ thiền trở lại Nhất thiền). Hết lên đến
xuống và hết xuống lại lên như vậy, cốt để giữ cho nhục thân được
quân bình, vừa "chờ" cho những tế bào cuối cùng "chủ trương"
sự sống, chấm dứt hoạt động.
Và xuyên qua sự thông báo từng giây
phút ấy của A Nậu Lâu Ðà, mà những đệ tử có mặt bên cạnh nhục
thân đấng Toàn Giác đã biết được khi nào đức Phật thực sự viên tịch.
Lúc đức Thế Tôn xả báo thân, vĩnh
viễn an nghỉ Niết Bàn, thì trời Phạm Thiên (Brahmà) và Ðế Thích
(Sakka), chủ tể cõi trời thứ ba mươi ba, đồng thanh cúng dường quả giải
thoát của Bậc Thiên Nhân Sư, bằng những câu kệ, nói lên luật Vô Thường,
bất di bất dịch như sau:
" Tử sinh là luật luân hồi,
Có sinh, ắt tử, trời người không qua".
Rồi người thứ ba tán dương sự nhập
Niết Bàn linh diệu của đức Phật là A Nậu Lâu Ðà. Ông ứng khẩu ngâm
mấy câu kệ rằng:
"Cao thượng thay là giờ nhập
diệt,
Ðấng từ bi thanh khiết khôn lường.
Buồn, vui, sinh, tử... không còn,
Vượt ra tam giới, mười phương Niết Bàn".
Tuy nhiên, những phàm Tăng, và một số
Thánh nhân bậc thấp (còn tái sinh lại tối đa bảy lần nữa), vì lòng ngưỡng
mộ đức Phật còn "chủng tử" ràng buộc, nên họ buồn khổ
khóc than thảm thiết. Nhất là khi họ nghe Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà chính
thức công bố sự viên tịch của đức Phật.
Trước hoàn cảnh như vậy, Thánh Tăng
A Nậu Lâu Ðà liền khuyên giải họ. Và bằng tâm từ bi, ông đã làm giảm
lòng phiền muộn của các đồng đạo bằng cách lôi kéo họ chú ý đến
sự có mặt (nhưng mắt phàm không nhìn thấy) của rất nhiều Thiên Chúng
tới lễ bái nhục thân đức Phật lần cuối cùng A Nậu Lâu Ðà nói:
- Nầy chư huynh đệ! Các Thiên chúng
cũng đang buồn rầu, đau xót, tiếc thương, chẳng khác nào những phàm
nhân, khi vừa mất một vị Phật. Nhưng hỡi chư Sa-môn huynh đệ! Lúc đức
Bổn Sư còn sống, Ngài đã chẳng dạy cho chúng ta pháp Vô thường gây ra
khổ não là gì? Và giờ đây pháp ấy đang được chứng nghiệm trước mắt
quí vị, tại sao quí vị không nhớ lại lời Bổn Sư để bình tâm niệm
tưởng ân đức của bậc Giải Thoát?
Tiếp theo, Thánh Tăng A Nậu Lâu Ðà
và Tôn giả A Nan Ðà đã thức trọn đêm hôm ấy để cung hầu nhục thân
đức Phật. Sáng hôm sau, A Nậu Lâu Ðà bèn yêu cầu A Nan Ðà đi công bố
tin đức Thế Tôn nhập Niết Bàn đến chư Phật tử trong các làng lân cận,
nhất là trong thành phố Kusinàrà.
Thế là hầu hết dân chúng địa
phương, kể cả những người chưa thấm nhuần Phật giáo, chỉ cảm kích
đức hạnh của đấng Giải Thoát mà thôi, đã tự động tập hợp, rồi
dựng lên một lễ đài, và một giàn hỏa vô cùng trang nghiêm lộng lẫy,
bằng những loại gỗ quí và trầm hương, để cử hành lễ Trà tỳ đức
Phật.
Có một điều lạ là khi tám người
thanh niên lực lưỡng, đồng loạt nâng nhục thân đức Phật đặt lên
giàn hỏa, thì họ dù rán sức đến đâu cũng không làm được. Bất chợt
họ rùng mình kinh cảm, và lập tức đến hỏi Thánh Tăng A Nậu Lâu Ðà,
vì sao nhục thân của đức Thế Tôn lại có một trọng lượng lạ lùng
như vậy. A Nậu Lâu Ðà vốn biết rõ lý do, bèn nói cho họ biết rằng
các hàng Thiên chúng ước muốn cho cuộc lễ hỏa táng được thực hiện
dưới một thứ tự khác. Nghĩa là qua trung gian của Thánh Tăng A Nậu Lâu
Ðà, chư Thiên đã đề nghị với toàn thể Tăng và tín đồ có mặt, một
nghi thức lễ Trà Tỳ đúng theo nguyện vọng của các vị vua trời.
Kinh chép: Khi chư Thiên Vương "cầu
nguyện" xong, thì nhục thân của đức Phật bỗng trở thành nhẹ
nhàng vô cùng. Mọi người chỉ cần để một ngón tay lên kim quan... là
thân Phật cùng với mọi vật che chở tự động nâng lên cao, và di chuyển
an ngoạ ngay ngắn tại trung tâm giàn hỏa.
Nếu về phía Thiên chúng, A Nậu Lâu
Ðà đã tự động "tiếp xúc" với họ trong suốt cuộc lễ Trà tỳ,
thì về phía phàm nhân, Tôn giả A Nan Ðà cũng lo việc đôn đốc, cố vấn
dân làng, để những vật liệu cúng dường, thiêu đốt nhục thân đức
Phật, được họ chọn lựa tinh khiết, kỹ càng hơn. Nói vắn tắt là hai
vị Sa-môn huynh đệ nầy, mỗi người trách nhiệm một cảnh giới: Thiền
Tăng A Nậu Lâu Ðà giao cảm, nghinh đón các hàng Thiên chúng, và Tôn giả
A Nan Ðà tiếp xúc với cộng đồng phàm nhân (theo Trường A Hàm số 16:
Dìgha Nikàya N. 16).
Sau lễ Trà tỳ, hỏa táng nhục thân
đấng Giải Thoát, dưới sự chủ tọa của Ðệ nhất đệ tử Phật, tức
Thánh Tăng Ðại Ca Diếp (Mahà Kassapa), A Nậu Lâu Ðà tuy ở địa vị một
thánh Bất Lai A-la-hán, và cũng là thân nhân gần nhất của Phật Tổ, nhưng
Ngài đã không tự nhận mình ở vai trò thừa kế Bổn Sư, lãnh đạo Tăng
Già. Bởi vì khi sinh tiền, đức Thế Tôn đã không di chúc một giáo quyền
đến đệ tử nào hết.
(Quí đạo hữu nào muốn biết do kỳ
duyên chi, Trưởng lão Ðại Ca Diếp đã đến đúng lúc vào giờ chót, để
chủ tọa lễ Trà tỳ nhục thân đức Phật, xin hãy đọc cuốn Gương Lành
Thánh Ðại Ca Diếp, đã được dịch ra Việt ngữ và ấn tống.)
Ngay như Thánh Tăng Ðại Ca Diếp là vị
Thượng Thủ có nhiều phẩm hạnh giống đức Phật nhất, và ông còn được
toàn thể Tăng chúng, cũng như tín đồ hiện diện, đồng tâm suy tôn lên
ngôi vi chưởng môn, để thay Phật hướng dẫn Tăng Chúng, mà Ngài cũng
thanh tịnh từ chối, huống chi là A Nậu Lâu Ðà. Bởi cốt lõi Phật giáo
là làm cho người Phật tử phải "độc lập", tự mình hướng dẫn
lấy mình, đi theo ánh sáng giải thóat của bậc Toàn Giác, chứ không cần
một "giáo nhiệm" nào điều khiển cả. (Ý nói không trông chờ
tha lực).
Tuy nhiên, Trưởng lão Ðại Ca Diếp cũng
không phải không ý thức được trách nhiệm vô cùng quan trọng của mình
trong thời "hậu Phật". Nên vừa chứng minh xong lễ phân phối Xá
lợi Phật cho các hàng vua chúa xây tháp tôn thờ, Ngài liền dời gót hướng
về phía Vương Xá thành, khởi xướng triệu tập Ðại Hội năm trăm Thánh
nhân Bất Lai (A-la-hán), để nhắc lại tất cả những lời Phật dạy, hầu
lưu truyền phúc âm đến các đời sau. Và đó là cuộc kết tập Kinh Ðiển
Phật Giáo lần thứ nhứt.
Sách chép: Tôn giả A Nan Ðà (đại đệ
tử hầu cận Phật cho đến giây phút cuối cùng) lúc ấy chưa đắc quả
A-la-hán, có thể bị đại hội không mời dự, nên Thánh Tăng A Nậu Lâu
Ðà đã thúc giục ông hãy tinh tấn vượt bực, để mau hội nhập vào
Thánh giới Bất Lai, mới tham gia đóng góp cuộc kết tập Phật ngôn được.
Kết quả, chỉ trong vòng một thời
gian ngắn, Tôn giả A Nan Ðà, với sự quyết tâm tinh tấn, đã diệt tận
tham sân si phiền não, đắc quả A-la-hán rồi dùng thần thông nương vào một
tia sáng, bay vào tham dự hội nghị, trước sự hoan hỷ, tán dương của bốn
trăm chín mươi chín vị Thánh nhân A-la-hán.
Diễn tiến cuộc kết tập Kinh Ðiển
Phật Giáo lần thứ nhất, dưới sự chủ tọa của Thánh Tăng Ðại Ca Diếp,
có thể trình bày tóm tắt như sau:
1. Tôn giả A Nan Ðà tụng lại tất cả
những bài pháp dài ngắn khác nhau, đủ loại chủ đề khuyến thiện và
phân tích, rồi sau đó ghi chép, kết tập thành một "rổ", gọi
là Tạng Kinh (Sutta Pitaka).
2. Thánh Tăng Upàli thuật hết những
điều Luật, và điển tích mà đức Thế Tôn đã căn cứ vào đó, để chế
ra các phần răn cấm (như Tỳ kheo giới, Sa di giới, Tỳ kheo Ni giới, Sa di
Ni giới cho các bậc xuất gia, và Thập giới, Bát giới hay Ngũ giới cho những
hàng cư sĩ. Toàn thể luật cấm được kết tập chép lại thành một
"rổ", gọi là Tạng Luật (Vinaya Pitaka).
Trong kỳ kết tập Kinh Ðiển Phật
Giáo lần thứ nhất nầy, năm trăm vị A-la-hán chỉ thuật lại nguyên văn
lời Phật nói, rồi lập thành hai Tạng là Tạng Kinh và Tạng Luật mà
thôi! Riêng "Tạng Luận" (Abhidhamma Pitaka) về sau xuất hiện, là nhờ
các cuộc kết tập Kinh Ðiển Phật Giáo nối tiếp, đã phân tích và xếp
loại những Phật ngôn trong Tạng Kinh ra thành hai phần: Phần thứ nhất nặng
vần khuyến thiện, được tiếp tục gọi là Tạng Kinh (Sutta Pitaka). Còn
phần thứ hai dành phân tích tâm thức, được gọi là Tạng Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma Pitaka), hay còn gọi là Tạng Luận.
Từ đó, chúng ta có thể nhận thấy
rằng: Thánh Tăng A Nậu Lâu Ðà đã từ bi khuyến khích và tiếp độ vị
sư đệ của ông (ám chỉ Tôn giả A Nan Ðà), ngay sau khi đức Thế Tôn tịch
diệt, để đưa vị Sa-môn nầy vào thánh giới giải thoát, chấm dứt
vòng sinh tử luân hồi.
Và Phật giáo được kết tập thành
Tam Tạng Kinh Ðiển có hệ thống đó, đã lưu truyền cho đến ngày nay,
xuyên qua hơn hai mươi lăm thế kỷ, và sẽ còn tiếp tục lưu truyền, gieo
phúc lành cho chúng sanh, nhân loại, mãi đến thời mạt pháp, sau năm ngàn
năm.
Theo kinh Trường A Hàm thì trong đại
hội kết tập Kinh Ðiển Phật Giáo lần thứ nhất ấy, Thánh Tăng A Nậu
Lâu Ðà đã hợp tác một cách tích cực với sư đệ là Tôn giả A Nan
Ðà, để thuật lại toàn thể bộ kinh Tăng Chi A Hàm (Anguttara Nikàya).
Sau cùng, liên quan đến sự viên tịch
của A Nậu Lâu Ðà, chúng tôi không tìm thấy một chỗ nào trong điển tích
Phật giáo, nói rõ tuổi thọ, ngày giờ và địa điểm nhắm mắt chính
xác của vị Thánh Tăng nầy, ngoại trừ những câu kết thúc một loại
hai chục bài kệ, do chính A Nậu Lâu Ðà thốt ra. Những câu kết thúc các
kệ ngôn ấy, có vẻ gián tiếp nói về nơi nhập diệt của ông. Chúng
tôi xin mạn phép phỏng dịch ra văn vần Việt ngữ, để cống hiến chư vị
Phật tử xa gần, vài bài kệ ngôn ấy như sau:
"Niềm tin Phật, bần Tăng không
lay chuyển,
Và Phật ngôn cũng thực hiện chu toàn
Cái ngã làm người, trời, thú... không còn.
Vòng sinh tử trọn kiếp nầy là hết.
*
Vườn "Vệ Lữ" (1) miền
"Va Chân" (2) sẽ chết,
Xác thân nầy trả cát bụi, thời gian...
Dưới bóng tre xanh, nơi nhập Niết Bàn.
Sạch phiền não, ấy tận cùng giải thóat".
(theo hai Tôn Túc Kệ Ngôn số 918, 919:
Theragàthà N. 918-919)
- Hai địa danh "Vệ Lữ" (1) và
"Va Chân" (2) trên đây do dịch giả mạo muội "Việt hóa"
do hai từ ngữ Pàli là "Veluva" và "Vajjian" để dễ diễn tả
ra Kệ Ngôn. Vả lại, khi y cứ nơi bài kệ sau cùng nầy (do chính Thánh Tăng
A Nậu Lâu Ðà nói, thì ông đã nhập diệt trong vườn Veluva, thuộc xứ
Vajjian đó.
Ngày nay, nếu chúng ta nhìn vấn đề
theo khía cạnh lịch sử địa phương và so sánh cách thức tổ chức xã hội
thời cổ Ấn Ðộ, thì vùng Vajjian nói trên là nơi ngày xưa phát xuất nền
"Cộng Hòa" đầu tiên trên thế giới. Vì thuở ấy lãnh thổ này
đã được quản trị bởi một Hội Ðồng Bô Lão, do toàn dân bầu, dưới
sự chủ tọa của một niên trưởng, chứ quốc gia không "được"
cai trị bởi một tiểu vương như những nơi khác.
Và với tấm lòng chân thành ngưỡng
mộ vị Thánh Tăng có THIÊN NHÃN THÔNG siêu đẳng, có trong các hàng cao đồ
đại Thinh Văn, đệ tử của đức Phật, dịch giả xin kết thúc tập
"A Nậu Lâu Ðà" độc đáo nầy.
Dịch xong tại Paris , ngày 17 tháng
12 năm 1993
Nguyễn Ðiều
-ooOoo-
Bài thơ
CÚNG DƯỜNG THÁNH ANURUDDHA (A NẬU
LÂU ÐÀ)
Thiền tâm như đá, thân như núi
Núi, đá khôn lay giữa gió ngàn
Thánh định đắc rôi, thông tất cả
Luân hồi dứt nghiệp khổ lang thang.
*
Nhiều kiếp người làm vua Thiên giới
Lắm khi vương tước cõi trần gian
Hạnh phúc cũng từng hơn xã hội
Nhưng người không nhiễm tật tham, sân.
*
Ðời sống cuối cùng nhờ hướng
thượng
Hành theo gương Phật, định tâm thần
Ánh sáng Bồ đề từ vô lượng
Bừng lên vẹt hết bóng vô minh.
*
Người đã nhập vào trong Thánh giới
Nhãn căn đắc chứng một thần thông
Ba cõi, sáu đường "tâm chỉ gợi"
"Hiện ngay trước mắt", diệu vô cùng!
*
Tuổi thọ hết rồi, người viên tịch
Trong vườn tre mát, lá mông lung
"Thần Nhãn Niết Bàn là ngọc bích
Ðưa người ra khỏi khổ xoay vòng.
*
Ðệ tử giờ đây lòng thanh tịnh
Cúng dường Thiền Thánh tánh như không
Người đã là Sen qua sử tích
Hương Thơm còn khắp cõi vô cùng.
(Nguyễn Ðiều cẩn đề)
Lời nói đầu
| Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4