-
Huyền Trang Đại
Sư: Cuộc
đời và Sự nghiệp
Như Nguyện soạn dịch
Huyền Trang, thường gọi là Đường Tăng, Ngài họ Trần, tên
Y, người Lạc Châu Câu Thị ( nay thuộc trấn Yển Sư Câu Thị Hà Nam). Năm
13 tuổi xuất gia tại chùa Tịnh Độ Lạc Dương, sau đó đến kinh đô Trường
An cầu học, ba năm sau đến Tam Hợp, giảng kinh ở Kinh Châu, rồi đến
Triệu Châu, cầu pháp ở Tương Châu, rồi về lại Trường An. Bởi vì Ngài cầu
học không ngừng nghĩ nên 20 tuổi đã trở thành vị pháp sư lỗi lạc khắp
nam bắc thời bấy giờ. Nhưng kiến thức càng cao thì Ngài phát hiện kinh
điễn và những giải thích giáo nghĩa Phật giáo của các vị thầy có đâu đó
những sai biệt. Lại khổ nỗi hệ thống kinh điễn Phật Giáo Trung Quốc lúc
đó pha tạp nhiều thứ,cách
dịch thì rối ren, khó để tin cậy. Vì thế, Ngài quyết tâm đi tìm cầu gốc
tích của kinh điễn, liền đến Thiên Trúc tầm sư học đạo, tìm cầu chân
kinh.
Đường Thái Tông từng xưng tán Huyền Trang đại sư là “
thiên hạ vô song”, đúng vậy, cuộc đời của Ngài là một nghị lực kiên
cường và nhiệt tình không ai sánh bằng, với tinh thần phấn đấu để theo
đuổi sự thật của kiếp người và đạt được lý tưởng của riêng mình, đủ để
chiếu sáng thiên cổ, người đời sau khó mà so sánh kịp. Ngòai tinh thần
này, Ngài còn tạo ra thành quả và cống hiến làm cho hậu thế kính phục.
Lương Khải Siêu nói rằng “Huyền Trang là bậc công thần số một của Phật
giáo Trung Quốc”, Trương Kỳ Vân nói “ Huyền Trang là du học sinh gương
mẫu nhất”, không ít học giả nước ngòai đối với thành tựu đặc biệt về
phương diện địa lý của Ngài vô cùng tôn sùng. Liên quan đến cuộc đời và
sự nghiệp của Ngài có một số phươg diện sau để cùng tham khảo và nhận
định:
Về
Phương diện văn hóa học thuật
1.
Huyền trang là nhân vật đắc lực nhất xúc tiến mối giao lưu văn
hóa Ấn Độ và Trung Quốc. Ngài du học ở Ấn 17 năm và tinh thông 5 lọai
ngôn ngữ của Ấn Độ (các ngôn ngữ địa phương của đông, tây, bắc, nam,
trung Ấn ). Sau khi về nước Ngài sáng lập ra phương thức dịch mới (tân
dịch), tổng số kinh điển phiên dịch là 1335 quyển, lại còn phụng mệnh
Lão Tử dịch Đạo Đức Kinh thành Phạn văn để truyền sang Ấn Độ.
2.
Huyền Trang là vị đầu tiên hiểu đúng và ứng dụng logich học một
cách đắc lực trong quá trình học và diễn giải kinh đểin, thời gian du
học ở Ấn Ngài rất xem trọng “Nhân minh học”, Nhân minh học là một trong
năm loại tri thức của Ấn Độ, cũng là luận lý học hoặc logich học của tất
cả học thuyết lúc bấy giờ. Trung Quốc có “ Mạc Biện” của phái Mạc Gia
được xem là hệ thống luận lý học hòan chỉnh nhất của thời cổ đại, nhưng
về sau không có người phát triễn và ứng dụng. Ngài Huyền Trang đem Nhân
Minh Học từ Ấn về, có thể nói Trung Quốc bắt đầu thu nhập từ nước ngòai
một bộ lý luận học hòan chỉnh, mà Ngài Huyền Trang ở Ấn đã học tập nhiều
năm nên sớm đã có thể ứng dụng nó vào công việc học vấn.
3.
Ngài Huyền Trang là nhà phiên dịch thành công nhất. Lúc hội dịch
kinh Huyền Trang phát triễn thành có hệ thống và tổ chức. Tổ chức này
tuy không phải là Ngài Huyền Trang sáng tạo đầu tiên, mà trãi qua thời
kỳ dài phối hợp của sự giúp đỡ và chi viện triều đình, tổ chức này tương
đối hòan chỉnh mà công lao rõ ràng nhất vẫn là của Ngài. Ngài Huyền
Trang làm chủ dịch, bên dưới có lập các khoa như hội đồng chứng nghĩa,
trao chuốt lời văn, đối chiếu phạn văn, viết bản thảo đều do các nhân
tài ưu tú của Phật giáo đương thời đảm trách. Phương thức dịch kinh Phật
trước Ngài Huyền Trang phần lớn là dịch ý, dịch ý đương nhiên
cũng biểu đạt ưu điểm nhất định, nhưng so với nguyên bảng ít nhiều cũng
có những thêm bớt; nên Ngài Huyền Trang đã cải cách, sử dụng phương thức
dịch thẳng, đối chiếu cùng với bảng gốc mà không mất đi nghĩa, đã khai
sáng kỷ nguyên “tân dịch” cho lịch sử dịch Phật kinh của Trung Quốc.
4.
Cống hiến về sử địa học của Ngài Huyền Trang. Ngài nhận được rất
nhiều lời ca ngợi của các học giả trong và ngoài nước. Một học giả người
Pháp xưng tán “Đại Đường Tây Vực Ký” của Ngài Huyền Trang viết là kim
chỉ nam cho cho các học gia nghiên cứu Ấn Độ. Là tài liệu cho các học
giả ngày nay chỉnh lý, tìm hiểu, sắp xếp về phương diện lịch sử và địa
lý của thế kỷ thứ 7. Tất cả những gì có được hoàn toàn đều nhờ công lao
của Ngài.
Về Phương diện ngoại giao
Do Ngài Huyền Trang lúc du học ở Ấn đã biểu hiện là một
con người vô cùng tuyệt trác lỗi lạc nên rất được chính phủ và toàn dân
kính phục. Trong cuộc đại hội Kanykudja thắng lợi, lại càng được minh
chủ Giới Nhật Vương đương thời của Bắc Ấn vô cùng khâm phục. Sau khi
Ngài về nước Giới Nhật Vương liền phái sứ giả đến Trung Hoa, Đường Thái
Tông lập tức ra lệnh Vương Huyền Sách và hơn 20 người đi sứ sang Ấn. Hai
nền văn minh cổ đại Ấn Độ- Trung Hoa từ đó giao lưu qua lại.
Về Phương diện Nhân cách và tinh thần
Ngài Huyền Trang vì mục đích đến Ấn Độ cầu pháp nên
không sợ những gian nan mà mạo hiễm tiến bước. Chúng ta thử nghĩ xem, ở
trong một sa mạc mênh mông trên không chim bay dưới không thú chạy, cũng
không một dấu chân người, chỉ băng tuyết nối tiếp nhau, ở những vách núi
cao chọc trời với gió tuyết xen lẫn, cảnh tượng vắng vẽ đến khiếp sợ.
Trên lộ trình gặp chổ giặc cướp hoành hành, Ngài Huyền Trang chỉ nương
vào một trái tim kiên cường bất khuất mà đi hết hành trình, thật làm cho
mọi người khâm phục.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/huyentrangdaisu.htm