PHẬT GIÁO VÀ
VĂN HỌC TRUNG QUỐC
- Sài
Tùng Lâm trường đại học thành phố Đài Bắc Đài Loan
- Như Nguyện
dịch
A.Theo
sự lưu chuyển và phiên dịch của kinh điển Phật giáo,tăng sĩ cùng với văn
nhân danh sĩ kết bạn ngày càng nhiều, phổ cập phương thức giảng kinh tự
viện, Phật giáo đối với các phương diện văn học cổ đại Trung Quốc có sức
ảnh hưởng rất lớn.
Từ
thời Nguỵ Tấn đến nay ở thi ca, tiểu thuyết, hý kịch đều hiện ra diện
mạo không giống với đời Tần Hán và trước đó.Nguyên nhân chủ yếu là vì
văn thể của kinh điển Phật giáo, thái độ sống và quan điểm giá trị của
lý luận Phật giáo tác động vào phương pháp tuyên truyền Phật giáo và chủ
trương sanh mạng và vì văn học Trung Quốc mang lại phương pháp ý tứ mới,
mệnh đề văn thể mới làm cho hình thức và nội dung thay đổi. Ở hình thức:
thể luật thơ bao gồm giảng xướng văn học, thông tục tiểu thuyết huý khúc
(tuồng)…sản sanh tập tục văn học có tác dụng trực tiếp. Ở nội dung tăng
thêm hai loại thành phần mới, biến hoá mới.
1.
Văn học Trung Quốc như “Kinh Thư” vốn xem trọng nhân sự, tản văn
Trang Tử giàu ảo tưởng, nhìn xa trông rộng, thuận với tự nhiên; Hán phú
chủ yếu miêu tả sông núi mây gió; mà chủ trương của Phật giáo là nhân
sinh và quan sát vô thường khổ không của nó,biết được cái chuyển biến
huyển hoá của vũ trụ,từ đó xây dụng cảnh tình mới cho văn nhân. Tác phẩm
văn học từ thời Đường đến nay phê phán nhân sinh vũ trụ, đối với nhiều
sự việc tự nhiên làm phê bình siêu việt, tuyên truyền biểu dương điều
tốt căm ghét điều xấu nêu lên ý nghĩa và mục đích chính của nhân quả
Phật giáo.
2.
Văn học vốn có của Trung Quốc tương đối ít sức ảo tưởng, ít tính
siêu việt thời gian không gian, ít ảo tương siêu hiện thực mà chú trọng
về sự tả thực. Tức làm cho một số truyện thần tiên cũng có ý đơn giản;
mà Phật giáo thì giàu sức tưởng tượng trên trời dưới đất không môt chút
gò bó, không bị hạn chế của không gian thời gian, tam thiên đại thiên
thế giới vô cùng vô tận, có sắc thái lãng mạn rất lớn, thúc đẩy chủ
nghĩa văn học lãng mạn phát triễn.
3.
Do cuối đời Hán đến Đông Tấn các vị An Thế Cao, Trúc Pháp Hộ… áp
dụng phương pháp trực dịch để phiên dịch kinh điển Phật giáo “Cao tăng
truyện” “An Thế Cao truyện”.Từ Đông Tấn đến nay, các nhà phiên dịch Phật
giáo đã từ từ sáng tạo một loại thể tài mới của tiếng Hoa và tiếng Phạm
dung hợp (phiên dịch văn học).
Cưu Ma La Thập dịch “Dy Ma Cật sở thuyết kinh” “Diệu
Pháp Liên Hoa kinh” “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa kinh” “Đại Trí Độ Luận”,…
thì dịch văn chương rất hoa mỹ, ngôn ngữ ý nghĩa rất thông suốt rõ
ràng.Trong đó “Duy Ma Cật sở thuyết kinh” nếu từ góc độ văn học mà
thưởng thức thì đây là một bộ tiểu thuyết tuyệt diệu. “Diệu Pháp Liên
Hoa kinh” tuyên dương tất cả chúng sanh đều có khã năng đạt đến trí tuệ
của Phật, mục đích chính là người người đều có thể thành Phật, và còn có
rất nhiều ngụ ngôn mỹ lệ khác. “Đại Phật Đảnh Như Lai mật ngôn tu chứng
liểu nghĩa chư Bồ tát vạn hạnh Thủ Lăng Nghiêm kinh” là hình tượng sinh
động tuyên truyền thứ tự tu hành từ thấp đến cao, đạt đến giáo nghĩa của
quốc độ chư Phật.Ba bộ kinh này được văn nhân các thời đại yêu thích,
được xem là tác phẩm thuần văn học, đối với văn họcTrung Quốc có ảnh
hửơng rất lớn.
4.
Phật Đà Bạt Đà La dịch “Đại Phương Qủang Phật Hoa Nghiêm kinh”,
văn chương rất đặc biệt, hùng vĩ và kỳ lạ. Đàm Vô Sấm dịch “Phật Sở Hành
Tán kinh” thuật lại việc làm của cuộc đời Đức Phật thành một bộ truyện
ký hình thức văn vần. Hai bộ kinh này làm tiêu biểu đậm đà thú vị nhất
cho văn học, trong lịch sử văn học có ảnh hưởng mạnh. Từ thời Hán Nguỵ
đến nay, văn xuôi và văn vần làm chủ yếu.Lúc này các nhà phiên dịch kinh
Phật lấy văn thể bạch thoại giản dị thông thường dịch kinh, không cần
trao chuốt nhưng phải hiểu, ảnh hửơng sâu sắc cho sự phát triễn văn học
sau này.
5.
Trung quốc trước đời Đường không có các tác phẩm tiểu thuyết và
kịch tuồng; mà Phật kinh xem trọng kết cấu và bố cục của hình thức như:
“Phật sở hành tán kinh”, “Phật bổn hạnh kinh”, “Phổ diệu kinh” thành
câu chuyện dài; “Tu lại kinh” là tác phẩm thể tiểu thuyết, “Duy Ma Cật
sở thuyết kinh” “Tứ ích Phạm thiên sở vấn kinh” là thể loại bán tiểu
thuyết; mà những chuyện này đều từ kinh điển Phật giáo dịch ra, từ đó
có tác dụng thúc đẩy và khuyến khích gợi ý phát triễn và sản sanh ra các
thể loại hát nói,kể chuyện ,tiểu thuyết,hý khúc về sau.
Phật giáo Ấn Độ dùng những câu chuyện ngụ ngôn
của tiểu đại lục Nam Á thời cổ lại làm “dụ thể”, y theo khuôn giáo nghĩa
của mình gọi là “dụ y” lại tuyên truyền giáo nghĩa của mình. Lấy “thí
dụ”nỗi tiếng như” kinh bách dụ” (“Bách cú thí dụ kinh”, thực tế chỉ có
98 dụ). Vì tính chất của tác phẩm ngụ ngôn giản dị súc tích sinh động
thú vị hay đẹp, để súc tiến văn học ngụ ngôn Trung Quốc.
B.Phật giáo đối với thơ
ca Trung Quốc có ảnh hưởng rất lớn, ngoài ra Phật giáo truyền nhập Thanh
minh luận 聲明論Ấn
Độ dẫn đến phát minh bốn thanh của âm vận học Nam triều và các quy luật
thơ ca.Tứ đó thúc đẩy khai sáng các thể tài mới và cách thức luật thơ ca
từ đời Đường về sau.
Mặt khác tư tưởng Phật giáo, đặc biệt là tư tưởng
thiền tông và lí luận Không của Bát Nhã, len lỏi thấm nhuần và thúc đẩy
mãnh liệt cho nội dung thơ ca, phong phú cảnh tình của thi ca làm cho
thơ ca càng thêm đa sắc thái, hình thành một loại thi cảnh điềm nhiên
tịch tịnh, nhàn nhã tự tại.
Thời Đông Tấn học giả Chi Đạo Lâm chuyên về Bát Nhã
là nhà thơ kiệt xuất nhất lúc đó tác phẩm của Ông rất nhiều hịên vẫn
được bảo tồn .Kết hợp tư tưởng Lão Trang và sông núi tự nhiên với tài
học văn nghệ xuất sắc tài năng mới lạ làm cho nhiều văn nhân tán thưởng,
khen ngợi.
Nhà thơ lớn Tạ Linh Vận, khéo léo khắc hoạ cảnh vật
tự nhiên, có cảm giác thoả mái dể chịu, mở ra trường phái thi ca sơn
thuỷ.
Đời Đường thiền tông hưng thạnh thơ Đường cũng mở
mang thành tinh hoa văn học một thời, thiền và thơ đều là nhu yếu thể
nghiệm nội tâm, đều xem trọng ý tứ và hình tượng ví dụ, và tìm ý ngoài
lời.Thiền tông là một tương tự tính của tông giáo thực tiễn và sáng tác
thơ ca thực tiễn hình thành chiếc cầu nối thông thương hai loại này (văn
học và tông giáo).
Đời Đường thi nhân thường nói về thiền,tham thiền,
làm thơ biểu đạt ý vị thiền và lý thiền,thiền sư cũng cùng với thi nhân
xướng hoạ,ngâm vịnh biểu đạt cảnh giới lý tưởng của nhân sinh, từ đó
biểu hiện len lỏi một chiều của thiền đối với thi ca vì thơ Đường mở ra
con đường mới. Thiền có hai ảnh hưởng chủ yếu đối với thơ:một là lấy
thiền nhập vào thơ, lấy thiền ý thiền vị dẫn nhập vào trong thơ; hai là
lấy thiền dụ thơ, lấy quan điểm thiền tông mà luận bàn thơ.
Các đại thi nhân như:Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Bạch
Cư Dị,Hàn Sơn Tử, Liểu Tông Nguyên…
Sau đời Tống thiền tông tiếp tục thịnh hành, có nhiều
vị Tăng cũng là nhà thơ, học thông nội ngoại ngâm vịnh rất tuyệt, văn
nhân cùng với danh tăng thường qua lại như Tô Đông Pha, Vương An Thạch,
Hoàng Đình Kiên, Dương Vạn Lý… làm nhiều bài thơ pha trọn tư tưởng Phật
giáo, thậm chí còn lấy cả Ngữ lục thiền tông.
C.Phật giáo có ảnh
hưởng đến hát nói và tiểu thuyết, đối với thi ca có ảnh hưởng nỗi bật.Từ
Nam bắc triều về sau Phật giáo vì thu hút tín đồ,mở rộng ảnh hưởng,bắt
đầu phổ biến ba phương pháp hoằng pháp là “chuyển đọc” “phạm bối” “xướng
đạo”. “Chuyển đọc”: xướng kinh, vịnh kinh tức phúng tụng Phật kinh làm
cho người nghe hiểu. “Phạm bối”: các bài ca tán của Phật giáo, lấy thanh
âm cảm động lòng người. “xướng đạo”:tuyên truyền khai đạo ,giảng kinh
thuyết pháp.Những phương pháp này làm cho Phật giáo đi vào nhân gian,một
mặt mở ra phong khí ca nhạc Phật giáo, đồng thời có viết biến văn,tiếp
đến là kịch nói…xuất hiện. “biến văn” đối với văn học thông thường có sự
ảnh hưởng rất lớn.Những câu chuyện của cuộc đời Đức Phật vẽ thành những
bức tranh đặc sắc gọi là “biến hiện”về sau phát triễn thành câu chuyện
Phật kinh gọi là “biến văn”.
Đời Đường lưu hành một nghệ thuật hát nói goi là
“chuyển biến”, “chuyển” là điệu hát nói “biến”thể văn thay đổi, lúc biểu
diễn vừa biểu hiện rõ tranh vẽ vừa hát nội dung câu chuyện.Bức tranh đó
goi là “biến tứơng”, bản gốc của câu chuyện hát đó gọi là “biến văn”.
Biến văn từ nội dung Phật giáo dần dần giảm nhẹ ý nghĩa tôn giáo mà mở
rộng nhân vật lịch sử,câu chuyện dân gian.Quan trọng có Duy Ma Cật cư
sĩ và Văn Thù Sư Lợi bàn luận phật pháp như “Duy Ma Cật kinh biến văn”,
“Đại Mục Kiền Liên Minh Gian Cứu Mẹ”của câu chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ,
“Hàng ma biến văn” của Xá Lợi Phất và lục sư đấu pháp, “ Mạnh Khương Nữ
biến văn” của Mạnh Khương Nữ đến Vạn Lý Trường Thành tìm chồng khóc đến
nỗi tường thành sụp đỗ.
Biến văn tuy được nhân dân yêu thích nhưng bị xem là
không phù hợp để phát triễn…Tống Chân Tông Triệu Hằng Minh cấm biến văn
lưu hành nên phong trào giảng xướng biến văn ở tự viện do đây mà dập tắt
nhưng lại làm sống dậy với hình thức khác.
Kế thừa trực tiếp biến văn nhưng lấy hát nói làm chủ
gọi là “bảo quyển”; gián tiếp ảnh hưởng có: hát nói, các cung điệu, kể
chuyện lịch sử, tiểu thuyết bạch thoại… “bảo quyển” hình thành vào đời
Tống thịnh hành vào đời Minh Thanh; lấy văn vần tám chữ,mười chữ làm chủ
ở giữa lấy văn xuôi,hiện nay còn lại những câu chuyện Phật giáo như
“Hương sơn bảo quyển” “Ngư lam bảo quyển”. Câu chuyện dân gian lưu hành
ở Minh Thanh như “Lương Sơn Bá bảo quyển” “Thổ địa bảo quyển” “Dược danh
bảo quyển”…hơn hai trăm loại.
Bảo quyển về sau phát triễn thành Khúc Nghệ kịch nói
hình thành vào thời Nguyên ,thịnh hành vào thời Minh,biểu diễn từ một
đến ba người có hát có nói.Nhạc khí là tỳ bà ba giây,nguyệt cầm làm
chính vừa đàn vừa hát, như kịch nói Tô Châu kịch nói Dương Châu đều là
những điệu hát nói tiếng địa phương lưu hành ở phương nam.Các cung điệu
,nguồn gốc ở Bắc Kinh lưu hành vào thời Tống Kim Nguyên, lấy hát làm
chính nói làm phụ nhưng phần hát phức tạp,lại không lấy phạm âm làm chủ
mà lấy các điệu hát đang lưu hành lúc đó,đối với đời Nguyên hình thức
tuồng Trung Quốc có ảnh hưởng rất lớn..
D. Trước đời Tần tiểu thuyết không được
các tầng lớp thượng lưu xem trọng, đến Lục triều bắt đầu xuất hiện những
người viết tạp chí tiểu thuyết, người đời Đường giảng lịch sử bằng những
câu chuyện thần kỳ, người đời Tống có tiểu thuyết bạch thoại, từ đời
Nguyên Minh về sau có tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết bắt đầu đưa
lên vũ đài văn học nhưng đối lập với thi ca..
Đời Đường các danh tăng sáng tác biến văn,lấy phương thức nói chuyện đời
thường để hát nói Phật kinh cũng có hát nói chuyện đời thường, “thuyết
thoại” ảnh hưởng đến người đời Đường “thuyết thoại” là điệu hát nghệ
thuật, “thoại” là câu chuyện, “thuyết thoại” là giảng thuyết câu chuyện
sau đó phát triễn thành người thuyết thoại trên phương diện kể chuyện
bình sách ở đời Tống, những bản gốc của câu chuyện đó gọi là “thoại bản”,
phần kể chuyện lịch sử (thường dùng lối văn gần gủi , bình dị) và tiểu
thuyết (dùng lối văn bạch thoại,truyện ngắn). Người đời Tống nói bản gốc
‘bình luận về tác phẩm và Đường Tăng Tam Tạng thỉnh kinh” cộng 17 chương
mang hình thức đầu tiên tiểu thuyết chương hồi.Từ tiểu thuyết bản gốc
phát triễn thành tiểu thuyết chương hồi, chương hồi rõ ràng, từng đoạn
hoàn chỉnh, câu chuyện liên tiếp làm thành hình thức tiểu thuyết chủ yếu
đời Minh Thanh như: “Tam Quốc Diễn Nghĩa”, Thuỷ Hữ truyện”, “Tây Du Ký”,
“Đối Thần diễn nghĩa”, “Kim Bình Mai từ thoại”, “Hồng Lô Mộng” v.v…
E. Từ “Nguyên Tạp Kịch” hiện ra hình thức
hợp với ca nhạc, vũ đạo, động tác và lời nói của nhân vật trong kịch bản.
Nguyên Tạp Kịch không những lấy tài liệu truyền kỳ, tiểu thuyết mà còn
trực tiếp lấy tài liệu của câu chuyện Phật giáo như: Trịnh Đình Ngọc (Bố
Đại Hoà Thượng), Ngô Xương Linh (Đường Tam Tạng Tây Thiên thỉnh kinh, (Quán
Âm Bồ Tát tu hành hương sơn ký) của đời Minh, (Mục Liên Cứu Mẹ khuyến
thiện hý văn)… đều chịu ảnh hưởng của Phật giáo.
(Bài
này của giáo sư Sài Tùng Lâm trường đại học thành phố Đài Bắc Đài
Loan-Như Nguyện dịch)
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/pgvavanhocTQ.htm