Sức
mạnh của tinh thần yêu thương
(Kuala Lumpur, Malaysia) : Sứ
mệnh hoằng dương Phật pháp tại Phi châu của Thượng tọa Hui Li đang đơm
hoa kết trái. Tuy nhiên, trong những ngày đầu của sứ mệnh cao cả ấy, cư
dân địa phương, các quan chức chính quyền, và tín đồ các tôn giáo khác gọi
Thượng tọa là loài “quỷ sứ” và “cỏ độc”.
“Tôi bị cư dân địa phương,
các quan chức chính quyền, và tín đồ các tôn giáo khác lên án, chụp mũ.
Họ không biết Phật giáo là gì, và trước đó họ cũng chưa từng thấy bóng
dáng một tu sỹ Phật giáo trong chiếc y vàng,” Thượng tọa Hui Li nhớ lại.
Thượng tọa phải đối mặt với
những phản kháng từ giáo hội và cư dân địa phương qua việc xây dựng ngôi
Tam Bảo tọa lạc ở Bronkhorstspruit, gần thành phố Pretoria.
Mặc
dù vậy, Thượng tọa vẫn kiên trì thực hiện nhiệm vụ của mình bất chấp những
đe dọa rằng ngôi chùa sẽ bị chính quyền tịch thu. “Trước khi vượt qua những
chướng duyên này, tôi phải giữ vững tâm an tịnh, thực hành nhẫn nhục và
yêu thương,” Thượng tọa Hui Li chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn bằng điện
thư.
Để chứng minh mình là nhà tu chân
chính và để lôi cuốn mọi người, Thượng tọa Hui Li xúc tiến hoạt động từ
thiện để giúp đỡ người nghèo và người bệnh bằng việc chia sẻ quần áo,
thực phẩm và thuốc men.
Là tu sỹ Phật giáo Phi châu nổi tiếng,
Thượng tọa Hui Li phát nguyện dành 5 kiếp để phát triển và hoằng dương
Phật pháp tại Phi châu.
Thượng tọa Hui Li sinh năm
1955 trong một gia đình nông dân nghèo ở miền quê Pington, Đài Loan. Từ
nhỏ Thượng tọa đã nhận chân cuộc đời là mong manh. Ngôi trường của
Thượng tọa nằm cạnh nghĩa trang và những đám tang diễn ra thường xuyên
đã để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm khảm Thượng tọa.
Năm 1987, Thượng tọa phát tâm xuất gia
với đại lão Hòa thượng Hsin Yun (Tinh Vân), người sáng lập Hội Phật
Quang Sơn Quốc tế.
Một năm sau đó, Thượng tọa được thọ
giới Tỳ kheo, trở thành sứ giả của đức Như Lai. Năm 1992, để thực hiện
tâm nguyện của Hòa thượng Tinh Vân là xây dựng một ngôi chùa trực thuộc
Hội Phật Quang Sơn trên mỗi châu lục, Thượng tọa phát tâm đến Nam Phi
xây dựng ngôi chùa Phật giáo Đại thừa đầu tiên trên đất Phi châu.
Thượng tọa đến Nam Phi, một
miền đất xa lạ. Trong nhiều tuần lễ, Thượng tọa tham quan đó đây và gặp
không ít khó khăn để có được một cái nhìn rõ ràng hơn về đất nước Nam
Phi.
Có giai đoạn, Thượng tọa bị bệnh sốt
rét, nhưng kiên quyết không chùn bước trong sứ mệnh phục vụ Phi châu.
“Nếu không bị bệnh sốt rét, bạn sẽ không có visa để làm việc ở Nam Phi,”
Thượng tọa bùi ngùi chia sẻ.
Năm 1994, lễ khánh thành Trường Cao
đẳng Phật học Phi châu - trường cao đẳng Phật học đầu tiên ở Phi châu –
được tổ chức tại chùa Nan Hua (Nam Hoa Tự) ở Bronkhorstspruit để giảng
dạy Phật pháp cho thanh niên với mục đích giúp họ giảm bớt những vấn đề
của họ thông qua giáo dục.
Năm 1998, khi đến Malawi tặng xe lăn
cho người tàn tật, Thượng tọa Hui Li chợt tỉnh rằng, 40% dân số Nam Phi
bị nhiễm HIV dương tính và trên một triệu trẻ em hoặc đã mất cha hay mẹ,
hoặc đã mất cả cha lẫn mẹ hiện đang đối diện với căn bệnh thế kỷ - AIDS.
Thượng tọa hiểu rằng sẽ có rặt một thế
hệ trẻ mồ côi. Những đứa trẻ này, trong giai đoạn chúng đến tuổi trưởng
thành, hẳn sẽ không có sự giáo dưỡng đúng cách, hoặc nhận được sự giáo
dục rất ít. Vì vậy, Thượng tọa nảy sinh ý niệm thành lập những Trung tâm
Giáo dưỡng Phật A-Di-Đà (Amitofo Care Centres - ACC)
Các chú nhỏ mồ côi Phi châu chú tâm
tập thiền tại ACC ở Malawi
Năm 2001, Thượng tọa Hui Li từ chức
viện chủ chùa Nan Hua để dấn thân trong công tác phật sự ở Phi châu.
Thượng tọa trở nên nổi tiếng như bác
sỹ Albert Schweitzer (*) của Phật giáo đại thừa. Sau những lần vận động
thuyết phục cố đệ nhất phu nhân Cộng hòa Malawi là Ethel Mutharika thành
công, một lô đất nằm ở ngoại ô thành phố Blantyre, miền nam Malawi, được
cúng dường để thực hiện dự án của Thượng tọa.
Dự án xây dựng Trung tâm Giáo
dưỡng Phật A-di-đà ở Cộng hòa Malawi được khởi công năm 2003. Các nhà
mạnh thường quân, chủ yếu từ Đài Loan, đã ủng hộ tài chính cho công
trình này.
Qua năm 2005, giai đoạn 1 của dự án đã
được hoàn thành và 120 em có độ tuổi từ 3 đến 12 được chuyển đến đây.
Qua năm 2008, Trung tâm Giáo dưỡng Malawi đã tiếp nhận giáo dưỡng 300
trẻ mồ côi và những trẻ chỉ còn cha hoặc mẹ.
Hiện tại, một trường tiểu học
đang mượn tạm một trong những ký túc xá của trung tâm cho đến khi một
ngôi trường dành cho 500 chú nhỏ có thể được xây dựng.
Bước kế tiếp là xây dựng một trường
trung học và trung tâm đào tạo nghề. Một phòng khám chữa bệnh do 2 bảo
mẫu, các y tá có đủ tay nghề và các tình nguyện viên nước ngoài đảm
trách.
Hăng say luyện tập võ
Thiếu Lâm tại ACC ở Malawi.
Để rèn luyện và thấm nhuần tính kỷ
luật, đức kiên trì, và tinh thần tập trung, một chương trình giao lưu
văn hóa bằng môn võ Thiếu Lâm được đưa vào dạy tại Trung tâm Giáo dưỡng
Blantyre.
Khoảng 100 chú nhỏ hiện đang luyện tập
võ nghệ do các võ sư nhà sư đến từ chùa Thiếu Lâm, tỉnh Hồ Nam, Trung
Quốc. Mỗi sáng, các em đều tham dự các khóa lễ và học giáo lý nhà Phật.
Trung tâm Giáo
dưỡng Phật A-Di-Đà cũng hỗ trợ các tổ chức trong các cộng đồng khác ở
các huyện lân cận. Các tổ chức này hiện đang ủng hộ trên 2000 thiếu nhi
và hơn 1500 thanh niên .
Trung tâm Giáo dưỡng Phật A-Di-Đà
(ACC) có các chi nhánh ở Harare (Zimbabwe), Nhlangano (Swaziland),
Mafikeng (Lesotho) và Yaound (Cameroon). Kế hoạch tiếp theo là thành lập
các trung tâm ở Zambia và Tanzania.
In Buddha We Trust --
Follow Lord Buddha, He will set you FREE!
Thượng tọa Hui Li và 30 em của trung
tâm sẽ có chuyến tham quan từ thiện ở Malaysia và Brunei với chủ đề
Truyền bá Hạt giống Tình thương (Spread The Seeds Of Love) từ ngày 28-11
đến ngày 30-12-2009..
Phái đoàn sẽ có chương trình biểu diễn
từ thiện tại các thành phố: Ipoh, Penang, Johor, Petaling Jaya, Kuantan,
Kuala Lumpur, Kelantan, Muar, Malacca, Kota Kinabalu, Miri, Bintulu,
Sibu và Kuching.
Các nhà tổ chức của chuyến
tham quan này là Viện Giáo dưỡng Trẻ em Đại từ (Persatuan Anak-anak
Yatim Eduwis Selangor), Trung tâm NSS (một tổ chức từ thiện ở Ipoh) và
Quỹ tài trợ Hai Tao.
(*) Theo wikipedia.org, Albert
Schweitzer (14 tháng 1 năm 1875 - 4 tháng 9 năm 1965) là tiến sỹ, bác sỹ,
nhà triết học, nhà thần học người Đức, sau mang quốc tịch Pháp. Ông đoạt
giải Nobel Hòa bình năm 1952 vì đã có công lao to lớn giúp đỡ người châu
Phi, bất chấp gian khổ, bệnh tật. Ông đã có khoảng 50 năm chữa bệnh cho
người dân Gabon, một đất nước nằm ở miền tây Trung Phi. Khi qua đời, ông
được an táng tại đây. (ND)
Thích Minh Trí theo The Star
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/sukien/sucmanh.htm