-
ĐẤT NƯỚC
TRUNG QUỐC TRONG KINH ĐIỂN ĐẠI THỪA.
- (Tg.
Ht Ấn Thuận, Diệu vân tập, hạ biên chi cửu, Phật giáo sử địa
khảo luận, tr.251-270./
Phước
Năng dịch.)
Việc Phật giáo
được
truyền đến
Trung Quốc (sớm hơn
thời vua Minh Đế
nhà Đông
Hán, [206 BC – 23 AC]), chắc chắn
đã
củng cố thêm mối quan hệ văn
hoá của hai miền. Đến
khi các Tăng nhân cầu Pháp của Trung Quốc sang phương
Tây, thì mối quan hệ văn
hoá càng gắn bó. Phật giáo phát triển ở Trung Quốc, trong các kinh
điển
Phật giáo truyền đến
Trung Quốc, nhất là các kinh Đại
thừa của vùng Bắc Ấn, rất hay nói
đến
Trung Quốc. Điều
này cho thấy, có mối quan tâm của Phật, Bồ tát và các Tổ sư
đối
với Trung Quốc, bởi vì Trung Quốc là trung tâm của Phật giáo
Đại
thừa vậy. Tuy cái diện tích đất
đai
mà chữ Chi Na chỉ đến,
các học giả chưa
hoàn toàn nhất trí với nhau, nhưng
trong kinh Đại thừa, nhất định
là chỉ cho đất
nước
Trung Quốc. Từ đời Hán (206 BC – 23 AC) trở
đi,
Tây Vực (nay là tỉnh Tân Cương)
đã
trở thành một phần của lãnh thổ Trung Quốc, cho nên lấy lãnh thổ Trung
Quốc hiện nay làm phạm vi mà kể lại những điều có liên quan đến Trung Quốc
trong kinh Đại thừa. Vì ngẫu nhiên nghĩ ra, đọc lướt lại một lần kinh điển
Đại thừa, nên chắc chắn sơ sót còn nhiều.
1. PHẠM VI LÃNH THỔ CỦA TRUNG
QUỐC.
Trước
tiên, đất nước
Chi Na mà trong kinh nói đến, có Chi Na và Ngoài Chi Na, nói ngược
lại, có đất
nước
Trung Quốc và các vùng phụ thuộc Trung Quốc. Tác phẩm Chính Pháp niệm
xứ kinh của Cù Đàm
Bát Nhã Lưu
Chi dịch vào đời
Nguyên Nguỵ,
quyển 68, nói: “Lần lượt
đến
nước
thứ 15, tên là nước
Hán, lãnh thổ của nó ngang dọc khoảng một nghìn do tuần;
đất
đai,
lầu gác của quan lại (trong nước
ấy) tổng cộng khoảng một nghìn do tuần. Nhà Hán thật sự chỉ có hai trăm
do tuần.” Nhà Hán và Nhà Hán thật sự, ở
đây,
đối
chiếu với tác phẩm La Ma Da Na sử tụng trong văn
chữ Phạn, thì là Cina và Aparracina, tức là vùng Chi Na và Ngoài Chi Na.
Tác phẩm Chính Pháp niệm xứ kinh trong Đại tạng kinh của Tây Tạng,
dịch thẳng rằng: “Nước
thứ 15 tên là Quảng Hắc (tức Chi Na), và những nước
chung quanh nó, tổng cộng khoảng là một nghìn do tuần. Nước
thứ 16 tên là Ngoài (nước)
Quảng Hắc, rộng khoảng hai trăm
do tuần.” Hai vùng khác nhau này, tác phẩm
Đại
Phương
quảng Bồ tát tạng Văn
Thù Sư
Lợi nghi quỹ kinh được
dịch bởi Thiên Tức Tai đời
Triệu Tống (960-1279) gọi là ‘nước
Chi Na nhỏ (Cina-desa), nước
Chi Na lớn (Maha-cina)’. Sớm hơn
(thời gian đó), trong bộ Quán Đỉnh kinh của Bạch Thi Lợi Mật Đa La
dịch thời Đông Tấn (317-420), quyển 06, đã nêu ra sự khác biệt của hai khu
vực này, như
nói: “Trong nước
Chấn Đán lại có các nước
nhỏ, không biết lẽ phải, không có lễ nghi…Những nước
ngoài Chấn Đán, của các dân tộc do các vua nhỏ lãnh đạo, không có pháp
luật, không biết lẽ phải.” Cho nên, nước
Chi Na (hay nước
Chi Na lớn - nước
Hán) có diện tích một nghìn do tuần, còn nước
Ngoài Chi Na (hay Chi Na nhỏ - nước
Hán thật sự) chỉ có hai trăm do tuần. Chi Na nhỏ vốn là chữ dùng chỉ cho
các nước
phụ thuộc nằm xung quanh Trung Quốc; Nước
Nguyên Nguỵ được
thành lập ở phương
Bắc (của Trung Quốc), nên người dịch
bị lầm, nói cái đất nước
hai trăm do tuần kia là nước
Hán thật sự. Như
vậy, đất nước
Chi Na trong được
nói đến trong kinh Đại thừa, chính là chỉ cho đất nước
Trung Quốc, điều này dứt khoát không còn nghi ngờ gì.
Có một số tác phẩm ghi chép về
địa lý của dãi đất từ nước
Trung Quốc chính thống kéo dài đến Tây vực, như
Đại Bảo Tích kinh, hội thứ hai Kim Cương
lực sĩ hội, là tác
phẩm được
dịch bởi Trúc Pháp Hộ vào đời Đông Tấn (317-420). Trong đó, quyển 01 (của
Lực sĩ hội) nói rằng: “[Các nước]
Thích Chủng (chỉ cho Tắc Chủng), An Tức, Nguyệt Chi, Đại Tần, Kiếm Phù,
Nhiễu Động, (những nước
nằm từ dãi núi Thông Lĩnh trở về phía Đông như)
Binh Từ, Vu Điền, Sa Lặc, Thiện Thiện, Ô Kỳ, và vài nước
quanh đó, Hung Nô, Tiên Ty, Ngô, Thục, Tần Địa, và các nước
Man – Di - Địch.” Bộ A Dục vương
tức Hoại Mục nhân duyên kinh
được
dịch bởi Đàm Ma Nan Đề đời Phù Tần (350-394), tuy thuộc về Thí Dụ Tập,
nhưng
cái thời gian dịch ra, và nội dung kinh, đều là gần giống với tác phẩm
trên, như
nói: “[Từ] Sông Tân Đầu (Ấn Độ), đến nước
Bà Ca (Tắc Ca), Càn Đà Việt, xóm Ô Trì, Kiếm Phù, An Tức, Khương
Cư,
Ô Tôn, Quy Tư,
Vu Điền, rồi đến đất Tần.”
Lực sĩ hội
và Hoại mục nhân duyên kinh đều là nói vượt
qua sông Ấn Độ, qua A Phú Hãn (Afghanistan), qua vùng Trung Á thuộc nước
Nga, từ sông Y Lê mà tiến vào vùng Tân Cương
của Trung Quốc ngày nay. Con đường
này, cùng với con đường
sang Ấn Độ từ phía Bắc Trung Quốc (có từ thời Hán trở đi), rất phù hợp.
Tuy nhiên, vào khoảng cuối thời
Đông Tấn, từ Trung Quốc đi sang Ấn Độ, trãi qua con đường
Lạc Đà nổi tiếng, không phải chỉ có một mình Pháp Hiển. Về vấn đề địa lý
của con đường
này, trong bộ Đại Phương
đẳng Nguyệt Tạng kinh
do Na Liên Đề Lê Da Xá thời Cao Tề
dịch, có hai chỗ nói đến. Nay đối đối chứng và liệt kê ra, điều này đối
với vấn đề địa lý, có giá trị rất quan trọng. Ví như
nước
Kiệt Xoa mà Pháp Hiển đã đi qua, quyết không phải là nước
Khư Sa (Sa Lặc), bởi vì ngoài nước
Sa Lặc, thật sự còn một nước
tên là Kiệt Xoa.
Đại Phương
đẳng Nguyệt Tạng kinh
Q.09. Các nước
Q.10. Nơi
Nhận định.
ủng hộ Phật
pháp chư
Phật xuất hiện
Kế Tân Kế Tấn
na Ca Thấp Di La trong Tây vực ký.
Ưu
La Xa Ưu
La Xa Ô Thích Thi trong Tây vực ký
Khư
La Bà La Khư
La Bà La Luật Căn Bản của Hữu Bộ chép, Ca
Chiên Diên đi
qua thành phố Ca La,
đến Lạm Ba,
rồi dần đi đến Bộ Ca
Nả. Do vậy, Khư
La Bà La có lẽ là
thành phố Ca
La Bổ La.
A Sơ
Câu Ca A Sơ Cư
Ca Chưa
rõ
Đạt La Đà Đà La Đà
Đà Lịch trong bộ Phật quốc ký của
Pháp Hiển.
0---- Ba Lư
Na Bột Luật trong Đường
Thư.
Phất Lê Sa Phất Ly
Sa Chưa
rõ.
Ca xa Ca
Sa Kiệt Xoa trong Phật quốc ký của
Pháp Hiển
Già Cư
Ca Già Câu Ca Trác Câu Ca của Tây vực ký
Tỷ Đề Tỷ Đề
Nghi là nước
Tây Dạ trong Hán Thư
Sa Lặc Sa Lặc
Khư
Sa trong Tây vực ký
Quy Tư
Quy Tư
Quật Chi trong Tây vực ký
Bà Lâu Ca Bà Lâu Ca
Bạt Lục Ca trong Tây vực ký
Hề Chu Ca Hề Chu Ca
Chưa
rõ
0---- Ức
Ni Nghi là Vu Nê trong Hán Thư
Thiện Thiện Thiện
Thiện Thiện Thiện trong Hán Thư
Khẩn Na La Khẩn Na La
Không rõ
ChấnĐánHánquốc Chấn Đán
Chỉ Bắc Triều.
0---- La
La Không rõ
0---- Ngô
Địa Chỉ Nam Triều.
2. CÁC VỊ THẦN HỘ PHÁP CỦA
TRUNG QUỐC
Trong kinh Đại thừa, rất coi
trọng việc hộ Pháp của các quỷ Dạ Xoa. Trung Quốc đã là trung tâm của Phật
giáo Đại thừa, đương
nhiên cũng có các vị thần hộ Pháp, vả lại còn cho rằng đó là các vị thần được
đức Phật an bày, phó chúc dặn dò họ đến để hộ trì cho người Trung Quốc. Vị
hộ Pháp mà Phật giáo giới Trung Quốc rất quen thuộc, là Vi Đà Thiên tướng
– hay là Vi Côn tướng
quân, vị này xuất phát từ thời Đường
(618-907), từ Đạo Tuyên luật sư.
Quan Công – hay Quan Đế, là vị hộ Pháp có liên quan đến Đại sư
Trí Giả của tông Thiên Thai đời Tuỳ (581-619). Đấy toàn là những vị hộ
Pháp được
phát hiện bởi các vị tổ sư
Trung Quốc. Trong các kinh điển Đại thừa, lại còn rất nhiều vị thần hộ
Pháp nữa.
Tác phẩm Chuyển Pháp luân Bồ
tát tồi ma oán kinh, được
Bất Không đời Đường
dịch, phần phụ chú có ghi: “Những vị sau đây là những vị thần hộ quốc của
nước
Đại Đường:
(10 vị đại Dược xoa) Dược
xoa Tỳ Thủ Yết ma, Dược
xoa Kiếp Tỷ La, Dược xoa Pháp Hộ, Dược xoa Kiên Mục, Dược xoa Quảng Mục,
Dược xoa Hộ Quân, Dược xoa Chu Hiền, Dược xoa Mãn Hiền, Dược xoa Trì Minh,
Dược xoa A Tra Phệ Câu. (3 vị đại Long vương)
Long vương Phạ Tô Chỉ, Long vương Tô Ma Na, Long vương Bổ Sa Tỳ Ma. (3 vị
đại Thiên Hậu) Thiên hậu Ha Lợi Đế, Thiên hậu Ế La Phệ Sai, Thiên hậu Song
Mục. Mỗi vị ấy đều có 5000 thần tướng
làm quyến thuộc.”
Truyền thuyết của Bất Không,
cùng với Nguyệt Tạng phần, quyển 9, của Đại Tập kinh khá
giống nhau. Nhưng
Nguyệt Tạng kinh (tức Nguyệt Tạng phần) cho rằng Tỳ Thủ Yết
Ma là một vị trời nam, và riêng thêm vào Dược
xoa Ban Chi Ca. Bộ Phật mẫu Đại khổng tước
Minh vương
kinh của Bất Không
dịch (quyển trung) nói: “Dược
xoa Bán Chi Ca, ở tại nước
Yết Thấp Di La. Có 500 con trai, có quân đội mạnh, có sức lực mạnh. Đứa
con lớn của bà tên là Kiên Mục, sống tại nước
Chi Na.” Bản dịch của Nghĩa Tịnh đời Đường cũng giống vậy. Thế thì, Ban
Chi Ca là mẹ của Kiên Mục, và bà ấy không nằm trong số 10 đại Dược
xoa ở trên. Tuy nhiên, theo bản dịch của Tăng Già Bà La: “Dạ xoa Ban Chi
Cá, sống tại nước
Kiếp Tân, có 500 con, có quân đội mạnh, có sức lực mạnh. Đứa con lớn nhất
tên là Ban Chỉ Cá, sống ở nước
Chỉ Na. Dạ xoa Sa Can Xã (tức Kiên Mục) sống ở nước
Tu Đa La.” Điều này cho thấy hình như
có một Dạ xoa tên là Ban Chỉ Cá (con trai lớn cùng tên với mẹ). Trong kinh
văn chữ Phạn cũng nói như
vậy. Cho nên tôi nghĩ, Nguyệt Tạng kinh nói đúng. Cái khu vựcTân Cương
ngày nay, trong Nguyệt Tạng kinh, quyển 9, đức Phật cũng dặn dò các
vị thần đến đó hộ Pháp, như
sau:
Nước
Ca Xa: Càn thát bà Trì Hoa, Càn thát bà Ma Hầu La Ca, Dạ xoa Kim Chỉ Trì,
Dạ xoa Tỳ Trì, Long vương
Quang Chưởng,
Long vương Thắng Đoạt, Thiên nữ (vị trời nữ, Tiên nữ) A Lâu Ni, Thiên nữ
Hoa Nhật.
Nước
Già Cư
Ca: Long vương Kiếm Bà La, Cưu
bàn trà Cực Ác, Tỳ xá già Na Mễ Ba, Nữ La sát Nguyệt Tinh, Ngạ quỷ Thiên
Khải, Dạ xoa Yết Ác.
Nước
Tỷ Đề: Long vương Cụ Túc, Long vương Thiện Đạo, Cưu
bàn trà Kiên Mục, Thiên nữ Tỳ Na Dạ Ca, Thiên nữ Đạo Thần, Thiên nữ Thi
Lợi, Thiên nữ Kha Cụ, Thiên nữ An Trụ.
Nước
Sa Lặc: Thiên tử (vị trời nam, Tiên nam) Phát Sắc, Càn thát bà Hộ Quốc, Dạ
xoa Phật Hộ, Dạ xoa Trợ Bạc, Long vương Khổng Tước
Hạng, Long nữ Sơn
Mục, Cưu bàn trà Ngật Lợi Ba Xa, Thiên nữ Trì Đức, Thiên nữ Long Hộ.
Nước
Vu Điền: Thiên tử Nan Thắng, Dạ xoa Tán Chỉ, Dạ xoa Cổ Dương
Cước,
Dạ xoa Kim Hoa Man, Long vương Nhiệt Xá, Thiên nữ A Na Khẩn Thủ, Thiên nữ
Tha Nan Xà Lê, (Thiên?)
VươngTỳ
Sa Môn.
Nước
Quy Tư:
Thiên tử Mâu Khải, Dạ xoa Hoàng Đầu, Nữ La sát Yếm Tài, Dạ xoa Hầu Hộ, La
sát Thi Lợi Già Tra , La sát Lộc Xỉ, Cưu
bàn trà Sớ Xỉ.
Nước
BÀ Lâu Ca: Dạ xoa Khiên Trà, Cưu
bàn trà A Bà Ca Lợi, La sát Thuỳ Nhũ.
Nước
Hề Chu Ca: Càn thát bà Vương
Hoạt, Long (vương?) Hề Ty La.
Nước
Ức Ni: Dạ xoa Dũng Kiện Chấp Lê, Long vương Tượng
Nhĩ, Nữ La sát Kiết Ca Tri, Nữ La sát Tuyết Trì.
Nước
Thiện Thiện: Thiên tử A La Tri, Dạ xoa A Sa Ca, Nữ La sát Vô Trước.
Nước
Khẩn Na La: Dạ xoa Xích Mục, Cưu
bàn trà Bất Động.
Sự phân chia công tác của các
vị thần Hộ Pháp này, hình như
là không cố định. Như
Dược xoa Pháp Hộ là hộ Pháp của nước
Chi Na, lại là vị Hộ Pháp của nước
Ca Xa. Đại Tập kinh, Hư
không mục phần,
quyển 01 nói: “Nước
Quy Tư
có một Long vương, tên là Hải Đức….Nước
Vu Điền có một Long vương, tên là Lạc Bảo Tạng. …Nước
Chân Đan có một Long vương, tên là Tam Giác.” Cái tên Long vương Tam Giác
này, không thấy trong 3 vị Long vương hộ trì nước
Chi Na. Ngược
lại, trong Đại Tập kinh, Nhật Tạng phần, quyển 11, nói: “Ở nước
Hán Chấn Đán trong cõi Diêm Phù Đề, là nơi
ở của thánh nhân Na La Da Na Phất La Bà Sa Mâu ni, phó chúc cho Long vương
Hải Đức (bảo hộ). Cũng trong cõi Diêm Phù Đề, gần bên bờ một con sông
trong nước
Vu Điền, là nơi
ở của Cù Ma Sa La Hương
Đại Thánh nhân Chi Đề, phó chúc cho Long vương Ngật (Chi) Lợi Ha Bà Đạt Đa.”
Sự sắp xếp công tác của các vị Hộ Pháp không cố định, không biết việc ấy
có quan hệ gì với lòng nhiệt thành và trách nhiệm của các vị hay không?
Ngoài ra, Nguyệt Tạng phần,
quyển 10, lại có đoạn đem tất cả các nước,
phó chúc cho nhị thập bát tú (28 vì sao), bảo các vì sao ấy nên “bảo vệ
và nuôi lớn” chúng sinh. Ngô Địa và Vu Điền, phó chúc cho Mão tú (sao Mão).
Sa Lặc, Ức Ni, phó chúc cho Tất tú (sao Tất). Chấn Đán phó chúc cho Sấm tú
(sao Sấm). Quy Tư
phó chúc cho cho Nữ tú. Bà Lâu Ca phó chúc Ca phó chúc cho Nguy tú. Còn nước
Hà Chu Ca lại cho chúc cho hai sao Phòng và Sâm, nước
Kkư
Sa phó chúc cho sao Giác và sao Hư.
nước
Tỷ Đề phó chúc cho ba sao Tất, Nữ và Hư.
Tuy đây không phải là chuyên về hộ trì chánh pháp, những cũng có liên quan
đến người
Trung Quốc.
3. CÁC VỊ VUA THÁNH (THÁNH
VƯƠNG) CỦA TRUNG QUỐC.
Sự phát triển của Phật giáo,
cần phải được
sự ủng hộ của chính phủ. Như
vua A Dục, vua Ca Nị Sắc Ca…, đứng lên ủng hộ Phật Pháp, nhờ thế Phật giáo
mới có cơ
hội phát triển vượt
bậc. Cho nên Phật giáo ở Trung Quốc vốn rất hết sức hưng
thịnh, nhất định phải có vua hiền ủng hộ. Liên quan đến vấn đề này, trong
kinh Phật đã có dự báo từ trước.
Tôi nghĩ, lời dự báo dù không ứng nghiệm, cũng là một lời dạy rất khéo cho
chúng ta hôm nay. Việc này chủ yếu là liên quan đến lời tiên đoán cho Bồ
tát Nguyệt Quang. Bộ kinh được
cho rằng dịch vào thời Phù Tần (350-394) hoặc Diêu tần (384-417), mất tên
người
dịch, là Thân Nhật kinh (được
truyền rằng do Trúc Pháp Hộ dịch, nhưng
Pháp Hộ cũng đã có dịch rồi một bộ kinh tên là Phật thuyết Nguyệt Quang
Đồng tử kinh), nói rằng: “Sau khi Ta vào Niết bàn khoảng một nghìn
năm, kinh điển và giáo Pháp đã muốn mất hết, Đồng tử (chú bé) Nguyệt Quang
sẽ đầu thai làm Thánh vương
ở nước
Tần, quy y Phật pháp, tuyên truyền và làm hưng
thịnh Đạo ta. Nước
Tần và các nước
xung quanh - Thiện Thiện, Ô Trường,
Quy Tư,
Sa Lặc, Đại Uyển, Vu Điền, và các nước
Khương,
Lỗ, Di, Địch, đều kính trọng Phật Pháp.” Đây rõ ràng là tình hình Phật
giáo thời vua Phù Kiên và Diêu Hưng.
Sau đó một chút, tác phẩm (mất tên người
dịch), đời Lưu
Tống (420-479) là Phật thuyết Pháp diệt tận kinh, cũng có câu: “Khi
Nguyệt Quang ra đời, gặp lại được
Phật Pháp, làm hưng
Phật Pháp khoảng 52 năm.” Đến thời Tuỳ, Bộ kinh cùng nguyên bản ấy được
dịch khác đi, lấy tên là Đức Hộ Trưởng
giả kinh, do Na
Liên Đề Lê Da Xá dịch, càng nói rõ hơn:
“Chú bé này sau khi Ta vào Niết bàn…trong nước
Chi Na của cõi Diêm Phù Đề (có khi viết thẳng là nước
Tuỳ) là vua, tên hiệu là Đại Hạnh…Vua Đại Hạnh với lòng tin sâu sắc, với
sức uy đức lớn, cúng dường
cái bát của Ta.” Đại Hạnh cùng với niên hiệu Đại Nghiệp của vua Dượng
Đế khớp nhau, Hạnh và Nghiệp, trong tiếng Phạn, không chỉ ý nghĩa gần nhau,
mà chữ cũng khá giống. Nhưng
Dượng
Đế không thể được gọi là vua hiền trong Phật giáo, có lẽ là Văn Đế vậy!
Đến thời Đường,
bộ kinh được dịch lần thứ 03 bởi Bồ Đề Lưu
Chí là Phật thuyết Bảo vũ kinh, nói: “Phương
Đông có một vị trời, tên là Nguyệt Quang...Phật nói với vị trời rằng: Sau
khi Ta mất, thời gian cuối cùng (thời mạt Pháp), trong khoảng những năm
400-500, chánh Pháp muốn diệt, người
ở cõi Ta Bà này, trong nước
Ma ha Chi Na, làm vị Bồ tát Như
Nhất sinh Bổ xứ, nên hiện làm vị (vua) Tự Tại vương
bằng thân nữ, sống đời dài lâu, dùng chính Pháp để cai trị dân chúng.” Đây
rõ ràng là thời đại của vua Võ Tắc Thiên. Trong bản kinh Bảo vũ kinh
dịch lần thứ nhất, hoàn toàn không có đoạn ấy, đây nhất định là Bồ Đề
Lưu
Chí đã dung hợp hai thuyết Nữ vương
trong Đại Tập kinh và Nguyệt Quang trong truyền thuyết, để hợp với
tâm lý của nhà vua nữ đương
thời. Các vị Thánh vương
của Trung Quốc được
nói trong kinh Đại thừa, đại để là như
vậy.
4. NHỮNG THÁNH ĐỊA CỦA PHẬT
GIÁO TRUNG QUỐC
Bốn ngọn núi nổi danh của Trung
Quốc, là Đạo tràng (nơi
hoằng bá đạo Pháp) của bốn vị Bồ tát, đây là truyền thuyết hình thành ở
Trung Quốc. Ngọn núi được
kinh Đại thừa nói tới, có lẽ là Ngũ Đài sơn.
Bộ Hoa Nghiêm kinh dịch vào đời Đường
(quyển 45), Bồ tát trụ xứ phẩm, có hai chỗ: 1. "Phía Đông Bắc có
một nơi
gọi là núi Thanh Lương,...hiện
nay có Bồ tát Văn Thù Sư
Lợi." 2. "Nước
Chấn Đán có một nơi,
gọi là hang Na La Diên". Liên quan đến hang Na La Diên, Nhật Tạng kinh
quyển 11, cũng có nói: "Nước
Hán Chấn Đán là nơi
ở của Thánh nhân Na La Da Na Phất La Bà Sa Mâu ni.” Theo Hoa Nghiên
kinh, núi Thanh Lương
hoàn toàn chưa
hề được nói rõ là thuộc về Trung Quốc, đồng thời không phải là chung một
chỗ với hang Na La Diên. Nhưng
việc cho rằng núi Ngũ Đài là núi Thanh Lương,
sớm đã là niềm tình chung của tín đồ Phật giáo Trung Quốc; rồi hang Na La
Diên cũng bị giải thích là nằm trong núi Ngũ Đài. Hai miền đất trong
Hoa Nghiêm kinh, trên thực tế đã được
quy về một nơi
ở Trung Quốc. Cái niềm tin này hết sức là phổ biến, đến khi Bồ Đề Lưu
Chí đời Đường
dịch ra bộ Văn Thù Sư
Lợi Bảo tạng Đà la ni kinh,
càng chứng minh cho niềm tin ấy- núi Thanh Lương
chính là núi Ngũ Đài. Như
nói rằng: “Sau khi ta mất, ở hướng
Đông Bắc của châu Diêm Phù đề này, có một nước
tên là Đại Chấn Na; trong nước
ấy, có ngọn núi tên là Ngũ Đỉnh, Bồ tát Văn Thù Sư
Lợi, đi dạo qua đó và ở lại, vì chúng sinh trong vùng đó mà thuyết Pháp.”
Sau đó, bắt đầu có những ghi chép về việc người
ta gặp được
đức Văn Thù rồi, như
kinh bộ Phật thuyết tối thượng
ý Đà là ni kinh của
Thi Hộ đời Triệu Tống (960-1279) dịch, nói: “Có vị Tỷ khưu
tên là Truyền Giáo. Vào Ngày 15 hắc ngoạt tháng 9 (ngày 30 tháng 9 âm lịch),
đi về phương
Bắc, đến nước
Chi Na không xa, khoảng 04 do tuần. Chợt thấy bên đường
có một vị thần…Kỹ lưỡng
nhìn lại, ấy không phải người
nào lạ, mà chính là Đồng tử (chú bé) Diệu Kiết Tường.”
5. CÁC BẬC THÁNH Ở TRUNG QUỐC
Phật giáo Trung Quốc hưng
thịnh như
thế, những hành giả tu chứng nhất định là rất nhiều. Nay chỉ dựa theo kinh
điển nói về các vị Phật, Bồ tát hoá thân đến Trung Quốc hoá độ mà thôi.
Văn Thù Bồ tát ở núi Ngũ Đài,
điều này không cần phải nói nữa. Ngoài Bồ tát Văn Thù, Quán Đỉnh kinh
được
Bạch Thi Lê Mật Đa La dịch vào đời Đông Tấn (317-420), quyển 06 nói:
“Trong cõi Diêm Phù Đề, có nước
Chấn Đán, ta sai ba vị Thánh đến đó giáo hoá.” Bộ Thanh tịnh Pháp Hành
kinh, vốn bị cho là nguỵ tạo, nói: “Bồ tát Nguyệt Quang, ở đấy
(Trung Quốc) xưng
là Nhan Hồi; Bồ tát Tịnh Quang, ở đó gọi là Trọng Ni (Khổng Tử), Bồ tát Ca
Diếp, ở đó gọi là Lão Tử. Mặc dù Pháp Hành kinh không đáng tin, nhưng
Quán Đỉnh kinh là bộ kinh có tính chất biên tập (nghĩa là có tính
chất chung như
tất cả kinh điển vốn có xưa
nay của Phật giáo), cho nên việc ba vị Thánh đến Trung Quốc giáo hoá, có
đáng tin hay không, cần được những công trình nghiên cứu sau này.
Trong Đại Tập kinh, Nguyệt
Tạng phần, quyển 11, nói rằng những vị hoá Phật đến Trung Quốc, hết
sức là nhiều. Như
nói: “Lúc ấy, Đức Thế Tôn vui vẻ mĩm cười,
từ khuôn mặt Ngài phóng ra rất nhiều luồng ánh sáng, soi sáng khắp nơi,
lập tức trong khắp bốn châu thiên hạ này, có vô lượng
trăm nghìn đức Phật xuất hiện…Nước
Ca Sa có 28 vị Phật xuất hiện, Nước
Già Cư
Ca có 20 vị Phật xuất hiện, nước
Tỷ Đề có 45 vị Phật xuất hiện, nước
Sa Lặc có 98 vị Phật xuất hiện, nước
Vu Điền có 180 vị Phật xuất hiện, nước
Quy Tư
có 99 vị Phật xuất hiện, nước
Bà Lâu Ca có 24 vị Phật xuất hiện, nước
Hề Chu Ca có 18 vị Phật xuất hiện, nước
Ức Ni có 80 vị Phật xuất hiện, nước
Thiện Thiện có 29 vị Phật xuất hiện, nước
Khẩn Na La có 80 vị Phật xuất hiện, nước
Chấn Đán có 255 vị Phật xuất hiện, nước
La La có 24 vị Phật xuất hiện, nước Ngô Địa có 50 vị Phật xuất hiện, nước
Tân Đà Bạt Trì có 25 vị Phật xuất hiện. Phật nói: Này các vị! Các vị Phật
nhiều như
thế, xuất hiện khắp nơi trong bốn châu thiên hạ, từ thành thị, thôn ấp đến
rừng núi.Ta nay dùng sức thần gia bị, trong (bốn châu thiên hạ), lại dựng
lên số chùa tháp nhiều cũng như
vậy.” Các vị Hoá Phật trong lãnh thổ Trung Quốc rất nhiều, nhiều hơn
cả nước
gốc là Ấn Độ. Trung Quốc có rất nhiều các chùa tháp nổi tiếng như
thế, là vì có nhiều vị Hoá Phật xuất hiện. Đấy cũng là nhờ sức phò hộ của
Phật. Như thế cũng là nói, sự tạo lập các ngôi chùa tháp nổi tiếng nơi các
danh sơn,
đều là do uy lực của chư
Phật vậy.
6. NƯỚC
VU ĐIỀN
Về nước
Vu Điền được
nói đến trong kinh Đại thừa, có một sự tất yếu phải bàn đến. Nước
vu Điền có 180 vị Phật xuất hiện, là khu vực Phật giáo Đại thừa thứ hai
sau nước
Trung Quốc chính thống. Ngôi chùa tên Ngưu
Đâù Sơn
Tự ở phía Tây Nam của kinh đô, là một thánh địa khá nổi tiếng. Đại Tập
kinh, Nhật Tạng phần, quyển 10 nói: “Trong cõi Diêm Phù
Đề, ở nước
Vu Điền, trên bờ một dòng sông, bên chân núi Ngưu
Đầu, cạnh bờ sông là nơi
ở của Cù Ma Sa La Hương
Đại Thánh nhân Chi Đề, phó chúc cho Long vương Ngật Lợi Ha Bà Đạt Đa, bảo
vệ và cúng dường
cho thánh nhân ấy…Phật bảo Long vương: Ta nay không lâu sau sẽ đến thăm nơi
ở của Cù Ma Sa La Mâu ni, toạ thiền 07 ngày, hưởng
niềm vui giải thoát.” Bộ Tây vực ký và truyền thuyết của Tây Tạng,
cũng có chép việc này. Tuy nhiên, Hoa nghiêm kinh (bản 80 quyển),
quyển thứ 45, lại nói: “Nước
Sa Lặc có một nơi
ở, gọi là Núi Ngưu
Đầu.” Tuy nhiên, trong bộ Hoa nghiêm kinh được
dịch vào đời Tấn, nước
Sa Lặc được
gọi là nước
Biên Di, nhưng
người
chủ (việc) dịch này kinh này là Thật Xoa Na Đà, là người
nước
Vu Điền, ông ấy vì sao lại nói là nước
Sa Lặc? Đây thật là một điều thật khó lý giải. Núi này, theo Nhật Tạng
kinh thì có chỗ gọi là núi Ngưu
Giác, có chỗ gọi là núi Ngưu
Đầu. Ngôi chùa mang tên là Cù Ma Sa La Hương,
hoặc gọi là Cù Ma Sa La Càn Đà, cho nên gọi chung là (chùa) Ngưu
Đầu Hương
tự.
Đức Phật từng nói về nước
Vu Điền ngày xưa,
như:
“Thời Phật Ca Diếp, nước
Vu Điền kia tên là Ca La Sa Ma (nước
ngoài gọi là Ca La Xa Ma)…Chúng sinh trong nước
ấy, thường
hay phóng dật, tham đắm ngũ dục, chê khinh thánh nhân, gieo tiếng xấu cho
thánh nhân, lấy bụi quăng ném vào thánh nhân. Các vị tu hành khi ấy, sau
khi bị nhục, đều đã lìa bỏ nước
này, đi sang nước
khác…Trong nước
ấy, thần lửa thần nước
đều nổi giận, tất cả nước
trong sông hồ ao giếng đều bị cạn kiệt. Chúng sinh trong nước
ấy, không có nước
và lửa để sống, chết đói và chết khát cả. Khi ấy, toàn bộ đất nước
tự nhiên tan hoang.” (Nhật Tạng kinh, quyển 10). Sự hoang phế một
thời cuả nước
Vu Điền, Tây vực ký nói đó là câu chuyện nước
Hạt Lao Lạc Ca bị bão cát vùi lấp, nhưng
nước
Lao Bạc Ca thật ra là ở Ấn Độ. Trong truyền thuyết của Tây Tạng thì chuyện
này giống với câu chuyện cái hồ lớn của nước
Ca Thấp Di La. Nước
Sa Ma (trong kinh), chính là nước
Tắc Chủng; Ca La Xa Ma, có lẽ vốn là miền đất mà dân Tắc Chủng cư
trú.
Sự kiến thiết trở lại của nước
Vu Điền, là do dân di cư
từ nơi
khác đến. Nhật Tạng phần lại nói: “Những thành trì thôn xóm của nước
ấy, đều đã hoang tàn; những dân cư
trong đó, toàn là từ phương
khác đến ở…Nước
Vu Điền sau khi ta mất khoảng 100 năm, mới khôi phục lại được.”
Tây vực ký và truyền thuyết của Tây Tạng, đều nói khi nước
Vu Điền phục hưng
là thời đại vua A Dục, vua A Dục ra đời sau khi Phật mất khoảng một 100
năm, nên điều này cùng với kinh nói là phù hợp. Sự kiện này, đáng làm cứ
liệu để tham khảo về vấn đề lịch sử.
Sự truyền bá Phật giáo vào nước
Vu Điền, Nguyệt Tạng kinh có nói: “Khi ấy, có 20.000 nghìn người
có phước đức lớn, hiểu biết Phật Pháp, từ nước
Sa Lặc đi đến nước
ấy trú ngụ. Vì 20.000 nghìn người có phước đức lớn này, thường đến nơi đại
chi đề của núi Cù Ma Sa La Hương ngày đêm thường đến cúng dường Chi Đề.”
Cái thông tin này, có thể giải thích rằng sự truyền bá và phát triển Phật
Pháp vào nước
Vu Điền có mối quan hệ với Tăng chúng đến từ nước
Sa Lặc. Tôi nghĩ, ngôi chùa ở núi Ngưu
Đầu có thể vốn là thánh địa của nước
Sa Lặc, từ khi các vị sư hoằng Pháp từ nước
Sa Lặc đến nước
Vu Điền, Vu Điền mới bắt đầu có chùa núi Ngưu
Đầu (trong Phật giáo, tình hình này khá phổ biến). Phật giáo Đại thừa ở Vu
Điền, phát triển hơn
cả nước
Sa Lặc, chùa núi Ngưu
Đầu bèn trở thành ngôi chùa chuyên biệt của nước
Vu Điền.
Trong phần phó chúc hộ trì Phật
Pháp của Nguyệt Tạng kinh, nước
Vu Điền có Tỳ Sa Môn Thiên vương,
điều này cùng với sự ghi chép của Huyền Trang thật hoàn toàn phù hợp.
7. TÌNH HÌNH TRUYỀN BÁ ĐẠO PHÁP
CỦA PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC
Trong kinh, những chỗ ngầm chỉ
cho nước
Trung Quốc, cũng có rất nhiều, ở đây chỉ giới thiệu những nơi
nói trắng ra. Phật thuyết Phân biệt kinh của Trúc Pháp Hộ dịch nói:
“Sau khi Ta vào Niết bàn một nghìn năm, Ma Đạo sẽ rất thịnh…Tại nước
Chân Đan, sẽ có một nghìn vị Tỷ khưu
cùng ở trong nước
ấy, giáp biên giới với nước
Ma. Trong số những người
thông minh của số Tỷ khưu
này, chỉ có một hai vị là đệ tử của Phật…Sau khi Ta vào Niết bàn, sẽ có
đời ác năm trược
xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, trong nước
Chân Đan, Ma sự rất thịnh hành, bít lấp chánh Đạo. Tuy là có kinh Pháp, nhưng
ít người
học. Ví có người
học, ít có người
hành. Đời ấy, có những Tỷ khưu,
ít có khả năng tự giữ gìn thanh tịnh, thường
làm theo những thói tục, mơ
ước
cao xa, không khác người
đời, thích mặc đồ đời, học chữ nghĩa của đời, thích các sự giao tế qua lại
của thói đời, kéo bè kéo đảng để tìm nguồn vui.” Nếu xem đây là tình hình
Trung Quốc thời Trúc Pháp Hộ, há không đúng hay sao?!
Bộ Quán Đỉnh kinh do
Bạch Thi Lê Mật Đa La biên tập vào đời Tấn, nói: “Trong nước
Chấn Đán, lại có các nước
nhỏ, không biết lẽ phải, không có nghi lễ; chỉ biết giết hại, không có từ
tâm…Muốn diệt bỏ Phật Pháp, khiến chánh Pháp không còn tồn tại, phá chùa
diệt Tăng.” Không biết là đoạn này chỉ cho cái vùng nào của Trung Quốc.
Bộ Đưong
lai Biến kinh, mất
tên người
dịch, nói: “Về phương
Bắc, trong nước
Tấn, có một vị trời, tên là Kiền Thu. Khi Phật Pháp sắp diệt, (vị trời này)
ba lần xuất hiện làm vua nước
Tấn, phá hoại đất nước.
Tuy nhiên, việc ba vị vua xuất hiện phá hoại Phật Pháp, vốn chỉ cho nước
An Tức, Tắc Ca, Du Na (Hy Lạp). Đương
lai Biến kinh là bản
kinh dị dịch của bộ Ca Đinh Tỷ khưu
Thuyết Pháp diệt tận kinh,
người
dịch đem nó giải thích là nước
Trung Quốc, đối với sự phi Pháp của Phật giáo đồ Trung Quốc, chỉ trích một
cách mạnh mẽ. Tình hình thực tế của Phật giáo thời Lưỡng
Tấn (265-316), từ bộ kinh này và bộ Phân biệt kinh của Trúc Pháp Hộ
dịch, có thể ít nhiều thấy được
điều đó.
8. NHỮNG VIỆC KHÁC
Còn một vài việc khác liên quan
đến Trung Quốc, như
sau.
1.
Cái bát của Phật
truyền đến nước
Sa Lặc và Trung Quốc.
Đức Hộ trưởng
giả kinh nói: “Vua
Đại Hạnh (ở Trung Quốc) dùng lòng tin lớn, dùng uy đức lớn, cúng dường
bát của Ta. Ở đây vài năm, bát của Ta sẽ đi đến nước
Sa Lặc, từ đó lần lượt
đi đến Trung Quốc.” Ngày xưa
có Bát ký kinh, nay đã mất. Bộ Pháp uyển Châu Lâm, (quyển
30) phần lược
dẫn nói: “Sau khi
Phật Niết bàn, bát này tuỳ duyên đi các nơi,
làm phước
cho chúng sinh. Lần hoá hiện làm phước
sau cùng, là ở nước
Hán.” Điều này cùng với câu nói trong Pháp Hiển truyện: “Khoảng
trăm năm hay nghìn năm sẽ đến nước Vu Điền. Ở đó trăm năm hay nghìn năm sẽ
đến nước Quật Thứ. Khoảng trăm năm hay nghìn năm lại sẽ đến đất Hán.”, rất
là ăn khớp. Có điều, trừ nước
Sa Lặc truyền lại rằng La Thập thường
đội bát Phật trên đầu ra, ở tất cả nơi đều chưa
từng thấy xuất hiện.
2. Phật cũng biết nói tiếng
Trung Quốc.
Đại Tỳ Bà Sa Luận,
quyển 79, nói: “Khi ấy, người
nước
Chi Na đến dự trong hội, nói về âm và nghĩa chữ Chi Na cho Phật nghe.” Hoá
ra, Phật cũng từng học qua tiếng Trung Quốc, như
Phương
Quảng Đại Trang nghiêm kinh,
phần Thị Thư
phẩm, rõ ràng có nói
tới “Sách vở Trung Quốc”. Trong Phật Bản hạnh kinh và Phổ Diệu
kinh cũng có nói như
thế.
3.
Trung Quốc là
vùng đất tu dễ chứng Đạo.
Như
Đại Phương
Đẳng Bồ tát tạng Văn thù Sư
Lợi Nghi Quỹ kinh nói.
4.
Ở Trung Quốc cũng
có Chuyển Luân Thánh vương.
Xưa
nay đều nói Chuyển Luân Thánh vương
xuất hiện ở Ấn Độ, trên thực tế mà nhìn, một đất nước
rộng lớn mênh mông như
Trung Quốc, lẽ nào không có vua ấy xuất hiện hay sao? Tỳ Bà Sa Luận,
quyển 25 nói: “(Những vị vua) Chuyển Luân vương,
như
là vua Chi Na…”
5.
Trong những sản
phẩm nổi tiếng ở Trung Quốc, có tơ
lụa và bảo kiếm.
Đại Tỳ Bà Sa Luận,
quyển 136, nói: “Nước
Chi Na có loại Cương
đao rất trứ danh.” Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ luật Tạp sự,
quyển 24 cũng có câu nói: “Chi Na bảo kiếm”. Rõ ràng, Can Tương,
Mạc Da, trong thời đaị Đông Chu (770 BC – 256 BC), sớm đã là những bảo
kiếm trứ danh. Liên quan vấn đề tơ
lụa, Bà Sa Luận quyển 12 nói: “ Đến như Trung Quốc, tuy là nô bộc,
mà vẫn mặc áo lụa, những người
cao quý ở các nước khác chưa
chắc đã bằng.” Tơ
lụa là một thứ còn nổi tiếng hơn
kiếm báu của Trung Quốc .
6.
Đường
từ Ấn Độ đến Trung Quốc, rất là xa.
Bà Sa luận,
quyển 101 nói: “Những người
thời nay, đến nước
Chi Na, rất ít kẻ trở về.” Để hình dung sự xa cách nhau của hai miền đất,
quyển 70 lại nói: “Cha ở Ca Thấp Di La, con ở Chi Na”, hoặc có câu nói:
“Mẹ ở Ca Thấp Di La, cha ở Chí Na.:”
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/trungquoc_kinhdaithua.htm