Trưởng lão Chu-lợi
Bàn-đặc (Cūlapanthaka) là một trong những vị đại đệ tử của Đức Phật.
Tàu âm ra nhiều tên khác nhau: Chu-lợi Bàn-đặc, Chu-lợi Bàn-đà-già,
Chú-trà Bán-thác-ca, Tri-lợi Mãn-đài, v.v. Trong Tăng chi, Chương Một
Pháp, liệt kê các vị Tỳ khưu đại đệ tử, ngài Cūlapanthaka được nhắc đến
2 lần:
- Trong các vị đệ tử Tỳ khưu của Ta, có thể
dùng ý hóa thân, tối thắng là Cūlapanthaka.
- Trong các vị đệ tử Tỳ khưu của Ta, thiện
xảo về tâm thắng tiến, tối thắng là Cūlapanthaka.
Trong Tăng nhất A-hàm,
Chương Một Pháp, thuộc Hán tạng, cũng có đề cập đến ngài:
- Tỳ khưu bậc nhất trong chúng Thanh văn
của Ta về tài hay thay hình đổi dạng, tạo mọi thứ biến hóa,
chính là Tỳ khưu Chu-lợi Bàn-đặc.
1. Tiểu sử
Một thương gia giàu có
ở thành Vương Xá có một cô con gái duy nhất. Cô gái có lòng thương yêu
một người đầy tớ, và sợ bị gia đình cấm đoán, cô cùng người yêu trốn nhà
ra đi. Chẳng bao lâu, cô mang thai. Khi đứa con trong bụng đã lớn, lo sợ
khi phải sinh con ở nơi xa xôi không bà con thân thuộc, cô đề nghị với
chồng cùng nhau trở về nhà cha mẹ.
Trên đường đi, cô hạ
sinh một bé trai. Vì đứa con sinh ra giữa đường nên được đặt tên là
Panthaka, có nghĩa là người đi đường hay lữ khách, Tàu âm là Bàn-đặc. Cả
hai quyết định ở lại nuôi con, không quay về Vương Xá. Rồi cô lại mang
thai đứa thứ hai, lại diễn tiến như trước, sinh con giữa đường, nên cũng
đặt tên là Panthaka. Để phân biệt, đứa đầu gọi là Mahāpanthaka (Đại
Bàn-đặc, Ma-ha Bàn-đặc), và đứa sau là Cūlapanthaka (Tiểu Bàn-đặc,
Chu-lợi Bàn-đặc). Có sách dịch là Đại Lộ Biên Sinh và Tiểu Lộ Biên
Sinh.
Lớn lên, Ðại Bàn-đặc
biết ông ngoại mình là một thương gia giàu có ở thành Vương Xá, nên đòi
cha mẹ dẫn đến thăm. Ngoài cô con gái, ông bà thương gia không có đứa
con nào khác, nên bằng lòng nhận cháu ngoại, còn hai vợ chồng thì được
cho tiền để đi nơi khác sinh sống.
Ông bà thương gia
thường đến thăm viếng Đức Phật, và Ðại Bàn-đặc đã lớn khôn nên được đi
theo ông ngoại nghe Đức Phật thuyết pháp. Một ngày nọ, chàng muốn xuất
gia, sống đời tu sĩ. Ông thương gia nghe cháu nhỏ trình hày ý định như
vậy, vô cùng hoan hỷ và dẫn chàng đến gặp Ðức Phật.
Ðức Phật chấp nhận cho
Ðại Bàn-đặc xuất gia, nhập Tăng đoàn, giao chàng cho một vị Trưởng lão
chỉ dạy. Vị tu sĩ trẻ nhận đề mục thiền quán về năm yếu tố đầu tiên cấu
tạo thân (tóc, lông, móng, răng, da). Với đề mục này, trong suốt mùa an
cư, vị tỳ khưu miên mật tu hành, và do chuyên cần tinh tấn hành thiền,
ngài đắc quả vị A-la-hán. Tỳ khưu Ðại Bàn-đặc nghĩ rằng em mình cũng có
khả năng chứng nghiệm được Chánh pháp, nên đến gặp ông ngoại xin cho
Chu-lợi Bàn-đặc xuất gia. Ông thương gia hoan hỷ chấp thuận.
Chu-lợi Bàn-đặc được
gia nhập Tăng đoàn, nhưng đầu óc đần độn, trong bốn tháng cũng không
thuộc được bài kệ:
Như hoa sen thắm
đượm,
Tròn nở sáng tinh sương,
Ngào ngạt trinh nguyên hương,
Kìa, xin mời chiêm ngưỡng,
Ðấng Thế Tôn chói lọi,
Như mặt trời lừng không.
Hòa thượng Minh Châu
dịch như sau:
Như bông sen thơm
dịu,
Vào rạng đông buổi sáng,
Hoa được nở toàn diện
Với mùi hương bát ngát.
Nhìn đức Phật chói sáng
Với hào quang chiếu diện,
Như mặt trời rực sáng
Trên bầu trời quang đãng.
Tỳ khưu Ðại Bàn-đặc
thấy em mình như vậy, nghĩ rằng không thể đạt cứu cánh tối thượng của
người xuất gia, nên có ý muốn cho Chu-lợi giải y, rời khỏi Tăng đoàn.
Nhưng Chu-lợi rất tha thiết gắn bó với giáo lý của Đức Phật, không muốn
quay về đời sống thế tục.
Một hôm, y sĩ Kỳ-bạt
(Jivaka) đến đảnh lễ Đức Phật, rồi đến gặp ngài Đại Bàn-đặc, lúc bấy giờ
là vị quản chúng, xin thỉnh mời tất các các vị các Tỳ khưu đến thọ thực
tại nhà. Trưởng lão Ðại Bàn-đặc nhận lời mời cả chúng Tỳ khưu, trừ vị Tỳ
khưu đần độn không thuộc kinh kệ. Chu-lợi Bàn-đặc thấy anh không đoái
hoài đến mình, nên buồn bã, quyết định rời Tăng đoàn, về nhà sống đời cư
sĩ. Sáng hôm sau, ông rời tinh xá rất sớm. Cũng sáng sớm đó, Đức Thế Tôn
quan sát thế gian, thấy rõ việc này, nên Ngài đến trước cổng chờ Chu-lợi
Bàn-đặc.
Khi thấy Đức Phật,
Chu-lợi đảnh lễ. Ðược Ngài hỏi đi đâu vào giờ này, ông kể tự sự. Ngài
bảo ông:
- Chính Ta thu nhận ông
vào Tăng đoàn. Nay anh ông đuổi ông đi, tại sao ông không đến Ta? Ông
hoàn tục thì làm được gì? Hãy ở lại với Ta.
Đức Phật cho ông một
tấm vải trắng, và nói:
- Này Chu-lợi Bàn-đặc,
ông hãy ngồi tại đây, mặt hướng về phía đông, dùng khăn này để lau thân
thể và niệm: “Tẩy sạch bụi bẩn, tẩy sạch bụi bẩn, tẩy sạch bụi bẩn!”
Rồi Ðức Phật hướng dẫn
Tăng chúng đến nhà y sĩ Kỳ-bạt để thọ thực, và ngồi xuống chỗ đã dành
sẵn.
Về phần Chu-lợi
Bàn-đặc, ông vâng lời Đức Thế Tôn, dùng khăn trắng đó vừa lau thân thể
vừa niệm thầm: “Tẩy sạch bụi bẩn, tẩy sạch bụi bẩn, tẩy sạch bụi
bẩn!” Chiếc khăn ban đầu trắng sạch, bây giờ nhớp nhúa do mồ hôi và
bụi bặm. Từ đó ông nhận ra, vì thân này mà khăn đã mất hết sự sạch sẽ
tinh khiết ban đầu và trở thành nhiễm ô cáu bẩn, nên thốt lên: “Các
hành quả thật vô thường!” Ngay khi ấy, ông khai mở tuệ sinh diệt.
Tại nhà y sĩ Kỳ-bạt,
Đức Phật biết ông đã được đầy đủ phước duyên. Ngài dùng thần thông phóng
hào quang hiện thân đến ngồi trước mặt ông và nói:
- “Chu-lợi Bàn-đặc,
đừng nghĩ rằng chỉ tấm vải ấy trở thành cáu bẩn, mà ngay trong tâm ông,
cũng đầy cấu uế của tham ái, sân hận, và si mê. Ông hãy tẩy sạch chúng”.
Rồi Ngài đọc bài kệ:
Tham ô nhiễm, chẳng
phải là bụi bẩn.
Ô nhiễm chính dùng để chỉ tâm tham.
Các Tỳ khưu, hãy tẩy sạch tham lam.
Và sống đúng pháp của bậc Vô Nhiễm
Sân ô nhiễm, chẳng
phải là bụi bẩn.
Ô nhiễm chính dùng để chỉ tâm sân.
Các Tỳ khưu, hãy tẩy sạch hận sân.
Và sống đúng pháp của bậc Vô Nhiễm.
Si ô nhiễm, chẳng
phải là bụi bẩn.
Ô nhiễm chính dùng để chỉ tâm si.
Các Tỳ khưu, hãy tẩy sạch mê si,
Và sống đúng pháp của bậc Vô Nhiễm.
Bản dịch khác của Hòa
thượng Minh Châu:
Tham mới gọi là bụi,
Chớ không phải bụi này;
Tham mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng.
Hỡi này các Tỳ khưu,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo pháp
Của vị không bụi bẩn.
Sân mới gọi là bụi,
Chớ không phải bụi này,
Sân mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng.
Hỡi này các Tỳ khưu,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo pháp
Của vị không bụi bẩn.
Si mới gọi là bụi,
Chớ không phải bụi này;
Si mới thật đồng nghĩa
Với chữ bụi thường dùng.
Hỡi này các Tỳ khưu,
Hãy từ bỏ bụi này,
Hãy sống trong Giáo Pháp
Của vị không bụi bẩn.
Nghe xong bài kệ,
Chu-lợi Bàn-đặc chứng quả A-la-hán và các thần thông, và đắc được trí
tuệ phân tích, thông suốt tất cả các bài giảng của Đức Phật.
Trong khi đó, tại tư
gia, y sĩ Kỳ-bạt dâng nước lên Đức Phật. Đức Phật lấy tay đậy bình bát,
ngăn lại, và hỏi:
- Này Kỳ-bạt, không còn
Tỳ khưu nào ở tinh xá sao?
- Bạch Thế Tôn, Trưởng
lão Đại Bàn-đặc đã cho biết là không còn vị Tỳ khưu nào trong tinh xá.
Đức Phật bảo:
- Này Kỳ-bạt, còn có Tỳ
khưu đấy!
Y sĩ Kỳ-bạt lập tức cho
người đến tinh xá xem còn vị Tỳ khưu nào không, để thỉnh mời đến nhà.
Do thiên nhĩ thông,
Chu-lợi Bàn-đặc nghe như thế, nên dùng thần thông biến ra hằng ngàn Tỳ
khưu trong vườn xoài, người may y, kẻ nhuộm y, người khác tụng đọc kinh,
v.v., không người nào giống người nào. Khi gia nhân của y sĩ Kỳ-bạt đến
đó, thấy rất đông Tỳ khưu, liền quay về, trình báo:
- Thưa gia chủ Kỳ-bạt,
con thấy còn rất nhiều vị Tỳ khưu ở tinh xá.
Ðức Phật bảo gia nhân
trở lại tinh xá nói Đức Thế Tôn gọi Chu-lợi Bàn-đặc đến thọ thực. Khi
người ấy đế khu vườn xoài và gọi tên Chu-lợi, cả ngàn Tỳ khưu đồng thanh
trả lời “Ta là Chu-lợi Bàn-đặc”. Người ấy ra về thưa lại. Đức Phật bảo
hãy trở lại tinh xá lần nữa, và nắm tay vị Tỳ khưu đầu tiên nói “Ta là
Chu-lợi Bàn-đặc”, và thỉnh vị ấy đi thọ thực, những vị còn lại sẽ biến
mất tức khắc. Sự việc xảy ra đúng như lời Đức Phật, và anh ta trở về tư
gia y sĩ Kỳ-bạt với ngài Chu-lợi Bàn-đặc.
Sau buổi thọ thực, Đức
Phật dạy y sĩ Kỳ-bạt thỉnh Trưởng lão phúc chúc. Thay mặt chư Tăng, ngài
Chu-lợi có một thời giảng xuyên suốt, và phúc chúc gia đình Kỳ-bạt, âm
vang như tiếng rống của loài sư tử.
2. Tiền kiếp
2.1)
Trong một kiếp trước, Chu-lợi Bàn-đặc là một vị vua. Có lần trong một
buổi lễ đi tham quan quanh thành, mồ hôi tươm ướt trán, ông lau trán với
một chiếc khăn sạch, và khăn trở nên lem luốt. Vị vua nhận ra thân thể
nhơ bẩn của mình đã khiến chiếc khăn trước sạch sau dơ, và sau đó thấy
được tính vô thường trong đời sống. Nhờ có phước trí hiểu rõ tính vô
thường này, trong kiếp hiện tại, quán xuyên suốt về đề mục tẩy sạch ô
nhiễm đã giúp ông giác ngộ.
2.2) Vào
thời Đức Phật Ca-diếp (Kassapa), Chu-lợi Bàn-đặc rất thông minh, nhưng
khi vào Tăng chúng, ông đã chế nhạo một Tỳ khưu kém trí. Vị này vì bị
làm trò cười nên xấu hổ, không học thuộc, thậm chí không lặp lại được
lời kinh. Do quả báo của nghiệp bất thiện này, ông tái sinh thành người
đần độn. Học xong câu sau, câu trước đã quên mất.
2.3) Vị Thầy lỗi
lạc và chàng trai trẻ ngu độn
Chú giải Pháp Cú có ghi
một câu chuyện tiền kiếp mà Đức Phật đã từng giúp đỡ ngài Châu-lợi
Bàn-đặc. Đức Phật kể một chuyện tiền kiếp như sau:
Ngày xưa, một chàng trẻ
tuổi ở Ba-la-nại đi đến thành Hoa Thị để học nghề với một vị thầy rất
lỗi lạc. Anh làm hết mọi việc, phục vụ tận tụy cho thầy. Nhưng anh lại
đần độn, không thuộc nhớ một điều gì. Dù vị thầy thấy anh rất đắc lực,
cố gắng dạy nghề cho anh nhưng chỉ mất công vô ích. Qua một thời gian
lâu, anh ta vẫn không thuộc được một lời dặn dò nào. Chán nản, anh muốn
bỏ về nhà.
Vị thầy thấy anh ta hết
lòng hầu hạ mình, nên ông dạy cho anh một câu chú. Ông bắt anh học thuộc
câu: “Ngươi đang âm mưu, ngươi đang âm mưu! Tại sao ngươi làm thế? Ta
biết hết cả rồi!” Vất vả lắm anh ta mới học thuộc câu chú. Rồi ông
cho chàng một số tiền làm lộ phí và dặn dò:
- Bây giờ anh hãy đi
kiếm sống bằng câu chú này. Anh không được quên, phải luôn luôn nhắc đi
nhắc lại.
Anh ta lên đường trở về
Ba-la-nại sống với mẹ. Lúc bấy giờ, vua Ba-la-nại khởi tâm muốn đi khắp
hoàng thành để tìm hiểu, lắng nghe ý kiến của dân chúng về sự cai trị
của nhà vua. Đêm đó, vua cải trang ra khỏi cung điện, đi đến nhà dân. Có
bọn trộm đang đào một đường hầm giữa hai nhà để chui vào, trong đó có
nhà của chàng trai trẻ. Vừa đúng lúc, chàng trai thức giấc, nhớ lời dặn
của thầy, chàng ôn lại câu chú, miệng đọc: “Ngươi đang âm mưu, ngươi
đang âm mưu! Tại sao ngươi làm thế? Ta biết hết cả rồi!” Bọn trộm
nghe qua, rất kinh sợ vì tưởng là đã bị phát giác, liền tháo chạy. Vua
đang ở gần đó, thấy bọn trộm chạy vì nghe chàng trai đọc thần chú, nên
sáng hôm sau, khi về hoàng cung, ngài ra lệnh đòi chàng trai đến để để
truyền dạy câu chú cho ngài. Anh ta đồng ý và được vua ban cho một ngàn
đồng vàng.
Viên tướng chỉ huy quân
đội thời đó muốn soán ngôi nên âm mưu với anh thợ cạo để giết vua. Ðến
ngày cạo râu cho vua, anh thợ cạo vào hoàng cung, thấm ướt râu vua với
nước hoa, mài dao cạo cho bén để cắt cổ vua. Lúc ấy, nhà vua sực nhớ đến
câu chú vừa học, nên ngài đọc ôn lại cho thuộc: “Ngươi đang âm mưu,
ngươi đang âm mưu! Tại sao ngươi làm thế? Ta biết hết cả rồi!” Anh
thợ cạo kinh sợ khi nghe câu đó, vì nghĩ rằng vua đã biết âm mưu của
mình. Anh ta ném dao, quỳ mọp sát chân vua, run rẩy. Vua đoán ngay việc
gì xảy ra nên ra vẻ giận dữ, bảo:
- Tên ngu xuẩn kia!
Ngươi nghĩ rằng ta không biết gì sao?
- Tâu bệ hạ, xin tha
mạng cho thần!
- Được. Hãy nói hết đầu
đuôi cho ta nghe.
Nghe xong, vua gọi viên
tướng đến, trục xuất khỏi vương quốc, và giao chức thống lãnh quân đội
cho chàng trai trẻ để đền ơn.
Đức Phật kết thúc câu
chuyện:
- Trong tiền kiếp,
chàng trai trẻ là Chu-lợi Bàn-đặc, và vị thầy lỗi lạc là Ta.
Ngài kết luận:
Người khôn ngoan
thông minh,
Có thể nâng đời mình,
Lên địa vị cao sang
Bằng chút ít tài sản,
Như thổi ngọn lửa nhỏ,
Gây nên đám lửa to.
2.4) Chuyện Tiểu
Triệu Phú:
Một hôm, khi nghe các
Tỳ khưu bảo Đức Thế Tôn là nơi nương tựa cho Chu-lợi Bàn-đặc. Đức Phật
kể thêm chuyện quá khứ Tiểu Triệu Phú (Cūlasetthi), được trong
kinh Bổn sanh:
Thuở xưa, tại nước
Kasi, trong thành Ba-la-nại, ngài Bồ-tát sinh ra trong một gia đình
triệu phú và được gọi là Tiểu Triệu phú. Ngài có trí thông minh, học
rộng, nhiều kiến thức. Một hôm, trong khi đi đến hầu vua, giữa đường
thấy một con chuột chết, ngài nói:
- Người nào có mắt, chỉ
cần nhặt con chuột này lên, có thể xây dựng sự nghiệp lớn.
Bấy giờ có một chàng
trai đang bị túng thiếu, nghe triệu phú nói vậy, suy nghĩ: “Vị triệu phú
này rất thông minh, có lẽ ông ấy biết điều gì đó nên mới nói như vậy”.
Anh ta bèn nhặt con chuột, bán được một xu cho một người mua về cho mèo
ăn. Với đồng xu ấy, chàng mua đường mật và lấy nước uống với một cái
bình. Gặp những người làm tràng hoa, chàng cho mỗi người một ít đường,
mật và nước uống. Đáp lại, những ấy cho chàng một nắm hoa. Chàng mang ra
chợ bán.
Hôm sau, với số tiền
bán hoa ấy, chàng lấy đường, mật, một ghè nước rồi đi đến vườn hoa. Tại
đó, các người làm tràng hoa cho chàng những cành hoa đã hái còn sót lại.
Chàng mang hoa ấy ra chợ bán. Không bao lâu với phương cách này, chàng
có được tám đồng tiền vàng.
Rồi vào một ngày mưa
gió, trong vườn của vua có rất nhiều cành cây khô và lá bị gió làm rụng
xuống, người giữ vườn không biết cách nào để quét cho sạch. Chàng đề
nghị với người giữ vườn sẽ giúp ông ta quét sạch vườn này, với điều kiện
là củi và lá này thuộc về của chàng.
Người giữ vườn chấp
thuận. Chàng đi đến sân chơi của bọn trẻ, cho chúng đường mật, và nhờ
chúng dọn sạch củi, lá. Chẳng bao lâu, chúng chất thành đống trước vườn.
Khi ấy, người thợ đồ gốm đi tìm củi để đốt nung chén bát cho nhà vua,
thấy đống củi ấy tại cửa vườn hoa, ông ta mua ngay và tự tay mang củi
đi.
Nhờ thế, chàng có được
mười sáu đồng tiền, ghè bình và năm cái bát. Chàng nghĩ đến một kế
hoạch, đặt một ghè nước không xa cửa thành và đem nước cho năm trăm
người cắt cỏ uống. Họ nói:
- Anh giúp chúng tôi
rất nhiều. Chúng tôi phải làm gì để đền ơn?
Chàng trả lời:
- Khi nào tôi có việc
cần, tôi sẽ nói cho các anh biết.
Chàng làm quen với một
thương buôn trên bộ và một thương buôn trên biển. Vị thương buôn trên bộ
báo tin cho chàng biết ngày mai sẽ có người buôn ngựa đến tại thành này
với năm trăm con ngựa. Nghe vậy, chàng nói với những người cắt cỏ:
- Hôm nay, mỗi người
hãy cho tôi một bó cỏ, và không bán cỏ của các anh cho đến khi tôi bán
xong cỏ của tôi.
Họ bằng lòng và đem đến
nhà chàng năm trăm bó cỏ. Người lái buôn ngựa không tìm được cỏ trong
thành phố, nên phải tìm đến chàng để mua cỏ, với giá một ngàn đồng tiền.
Với số tiền đó, chàng sắm một chiếc nhẫn vàng.
Vài ngày sau, người
thương buôn trên biển báo tin cho chàng biết sẽ có một chiếc tàu lớn cập
bến. Chàng nghĩ đến một kế hoạch khác. Chàng thuê một cỗ xe trang bị đầy
đủ, đi đến bến cảng với vẻ rất uy nghi bệ vệ. Sau khi đưa chiếc nhẫn làm
bảo chứng, chàng đặt mua toàn thể hàng hóa trên tàu, rồi dựng một lều
gần đó, và dặn những người làm công như sau:
- Khi có các người lái
buôn từ ngoài đến, hãy báo cho ta biết qua ba người giới thiệu.
Khi nghe tin có tàu
đến, khoảng một trăm thương buôn từ Ba-la-nại đến để mua hàng. Họ được
cho biết là hàng không thể lấy được vì phải để dành cho người lái buôn ở
tại chỗ ấy, và hàng đã có bảo chứng. Họ nghe vậy liền đi đến gặp chàng.
Những người hầu, như đã được dặn trước, báo tin họ đến, qua ba người
giới thiệu.
Một trăm người lái buôn
ấy, mỗi người góp cho chàng một ngàn đồng để hùn vốn trên tàu và góp một
ngàn đồng nữa để lấy phần hàng hóa của mình. Do đó, chàng ta có được hai
trăm ngàn đồng tiền và trở về Ba-la-nại.
Ðể bày tỏ lòng biết ơn
đối với Tiểu Triệu phú, chàng đến thăm ông, đem theo một trăm ngàn đồng
vàng. Tiểu Triệu phú hỏi chàng đã làm gì để được số tiền này, chàng
tường thuật tất cả câu chuyện, từ khi nghe lời ông, nhặt con chuột chết,
và xây dựng tài sản... Tiểu Triệu phú rất hoan hỷ, gả con gái cho chàng.
Khi ông qua đời, chàng thừa hưởng gia tài, trở thành vị triệu phú của
thành Ba-la-nại.
Sau bài pháp thoại này,
Đức Phật nói lên bài kệ:
Bậc trí với ít vốn,
Bậc có mắt, ít hàng,
Tự xây dựng cho mình
Tài sản lớn như vậy,
Như dùng hơi thở mình
Thổi lớn đám lửa nhỏ.
Tiếp theo, Ngài nói:
- Này các Tỳ khưu,
trong tiền kiếp, Tiểu Triệu phú ấy chính là Ta và chàng trai trẻ kia là
Chu-lợi Bàn-đặc. Nhờ Ta chỉ dạy, Chu-lợi ngày nay đạt được quả tối
thượng trong các pháp, cũng như ngày xưa đã đạt được tài sản to lớn.
3. Các chuyện khác
3.1) Chú giải
kinh Pháp Cú
Một hôm, tại tinh xá Kỳ
Viên, các Tỳ khưu nhắc lại chuyện Chu-lợi Bàn-đặc:
- Trong bốn tháng,
Chu-lợi Bàn-đặc không thuộc nỗi một câu kệ. Nhưng vì trong tâm ông vẫn
nung nấu ý nguyện không hề lơi lỏng nên ông đã chứng A-la-hán, và giờ
đây đang làm chủ tài sản xuất thế gian.
Đức Phật nghe như thế,
bèn dạy rằng:
- Này các Tỳ khưu! Một
Tỳ khưu khi nỗ lực hết sức mình tuân giữ giới luật thì không thể nào
không làm chủ tài sản xuất thế gian.
Và Ngài nói câu kệ sau
(Hòa thượng Minh Châu dịch):
Nỗ lực, không phóng
dật
Tự điều, khéo chế ngự,
Bậc trí xây hòn đảo,
Nước lụt khó ngập tràn. (Pháp Cú, 25)
Hòa thượng Nārāda giải
thích:
- Một hòn đảo nổi cao trên mặt nước
không thể nào bị ngập lụt. Một hải đảo như thế là nơi an toàn cho tất
cả. Cũng như thế, bậc thiện trí nỗ lực tu học, phải tự biến mình thành
hải đảo, bằng cách thành tựu đạo quả A-la-hán. Khi ấy, sẽ không còn bị
lôi cuốn trong dòng của bốn loại lụt là ái dục (kāma), tà kiến (diṭṭhi),
hữu ái (bhava-tanha), và vô minh (avijjā).
Các bản dịch khác:
a) Tỳ khưu Giới Đức:
Sống không phóng
dật, kiên trì,
Tự điều, tự chế thường khi mới là!
Chí người thiện trí cao xa
Xây hòn đảo lớn, quê nhà trú thân!
b) Cư sĩ Tâm
Minh Ngô Tằng Giao:
Luôn luôn cố gắng
nhiều bề,
Lại thêm hăng hái, không hề buông lung,
Tự mình khắc chế mọi đường,
Những người hiền trí vô cùng tinh anh.
Tạo ra hòn đảo cho mình,
Vượt trên sóng nước vây quanh thét gào,
Não phiền theo ngọn sóng trào,
Dễ gì quấy nhiễu dâng cao ngập tràn.
c) Giáo sư Tịnh
Minh:
Nhờ nhiệt tâm cố
gắng,
Tự chế, sống nghiêm trang,
Người trí xây hòn đảo,
Nước lụt khó ngập tràn.
3.2) Kinh Phật Tự Thuyết (Cảm Hứng Ngữ -
Udāna 5.61)
Một ngày nọ, khi Đức Thế Tôn trú ở tinh xá Kỳ
Viên. Lúc bấy giờ, Trưởng lão Chu-lợi Bàn-đặc ngồi gần Ngài, tư thế kiết
già, lưng thẳng, nghiêm trang để niệm trước mặt. Thấy thế, Đức Phật nói
lên lời cảm hứng để khen ngợi:
Với thân, tâm an trú,
Ðứng, ngồi hay nằm xuống,
Tỳ khưu an trú niệm,
Trước sau được thù thắng,
Vượt tầm mắt ác ma.
3.3) Phân tích
giới Tỳ khưu, Chương Ưng đối trị
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn ngự tại
tinh xá Kỳ Viên. Các tỳ khưu trưởng lão thay phiên giảng dạy các tỳ khưu
ni. Ngày nọ, khi đến phiên Trưởng lão
Chu-lợi Bàn-đặc, ngài
đọc đi đọc lại bài cảm hứng này, để dạy các tỳ khưu ni:
Tâm hướng thượng, chẳng lười,
hiền triết tu trí đạo,
vị ấy không ưu sầu,
an tịnh, luôn chánh niệm.
Các tỳ khưu ni không tin tưởng nơi
ngài, nên không lắng tâm chú ý nghe. Vì thế, họ không thông hiểu, và
sinh tâm chán nản. Thấy vậy, ngài trổ thần thông bay lên không trung,
rồi đi kinh hành trên bầu trời, rồi đứng lại, rồi ngồi xuống, rồi nằm
xuống, rồi biến thành khói, rồi cháy rực lên, rồi biến mất. Các tỳ khưu
ni kinh ngạc, thán phục, phát tâm chú ý đến các lời giảng của ngài và
lãnh hội rất nhanh.
Sau đó, đại đức Chu-lợi Bàn-đặc
giảng dạy các tỳ khưu ni ấy cho đến khi trời tối hẳn, rồi mới giải tán.
Khi ấy, cửa thành đã đóng nên các tỳ khưu ni ấy phải trú lại bên ngoài
thành cho đến sáng sớm, rồi mới đi vào thành phố. Dân chúng thấy thế,
phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Các tỳ khưu ni này không còn phạm
hạnh; họ đã ở lại qua đêm với các tỳ khưu trong tu viện, và bây giờ mới
đi vào thành phố.
Các vị tỳ khưu khác khi nghe được
lời phàn nàn, phê phán, chê bai ấy, bèn trình báo lên Đức Phật. Ngài gọi
Trưởng lão Chu-lợi Bàn-đặc đến và hỏi:
- Này Chu-lợi Bàn-đặc, nghe nói thầy
giảng dạy các tỳ khưu ni ngay cả khi mặt trời đã lặn, có đúng thế không?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế Tôn khiển trách rằng:
- Này Chu-lợi Bàn-đặc, vì sao thầy
lại giáo giới các tỳ khưu ni khi mặt trời đã lặn như thế? Này Chu-lợi
Bàn-đặc, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức
tin, họ đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng các tỳ khưu ni này không còn
phạm hạnh, các tỳ khưu ni này đã ở lại qua đêm với các tỳ khưu trong tu
viện, bây giờ mới đi vào thành phố.
Và này các tỳ khưu, các thầy nên phổ
biến điều học như sau: “Nếu vị tỳ khưu nào giảng dạy tỳ khưu ni khi
mặt trời đã lặn thì vị ấy phạm tội ưng đối trị (pācittiya).”
3.4) Trưởng lão
Tăng kệ
Trong Trưởng lão Tăng
kệ, có ghi lại các dòng kệ cảm hứng của Trưởng lão Chu-lợi Bàn-đặc, sau
khi ngài đắc quả Thánh giải thoát, như sau (bản dịch của Hòa thượng Minh
Châu):
Ta chậm chạp, tiến
chậm,
Trước ta bị khinh miệt,
Anh ta đuổi ta đi:
Nay, ngươi hãy về nhà.
Ta bị đuổi như vậy,
Tại cửa chính Tăng xá,
Sầu khổ, đứng tại đấy,
Vọng luyến lời Phật dạy.
Tại đấy, Thế Tôn
đến,
Ngài sờ trên đầu ta,
Với cánh tay, nắm ta,
Dắt ta vào Tăng xá.
Ðạo Sư thương xót
ta,
Cho ta khăn lau chân;
Hãy an trú tâm tư,
Vào vật thanh tịnh này.
Và ngồi xuống một bên,
Tâm tư khéo an trú.
Ta nghe lời Ngài
dạy,
Sống hân hoan Chánh pháp,
Ta thực hành thiền định,
Ðể đạt đích tối thượng.
Ta biết được đời
trước,
Thiên nhãn ta thanh tịnh,
Ba minh đã đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
Pan-tha-ka hóa hiện,
Dưới hàng ngàn hình thức,
Ngồi vườn xoài xinh đẹp,
Chờ đợi thời phát hiện.
Rồi Ðạo Sư giữ ta,
Một sứ giả báo thời,
Ðúng thời được báo hiệu,
Ta đến, ngang hư không.
Ðảnh lễ chân Ðạo Sư,
Một bên ta ngồi xuống.
Biết ta đã ngồi xuống,
Bậc Ðạo Sư chấp nhận.
Bậc nhận đồ tế vật,
Cả toàn thể thế giới,
Là phước điền loài người,
Ngài chấp nhận cúng dường.
-- (Trưởng lão Tăng kệ, 557-566)
3.5) Chu-lợi
Bàn-đặc trong sự tích Thập bát La-hán
Sự tích 16 vị La-hán
(từ chữ A-la-hán) được chép trong sách Pháp Trụ Ký (Fachu-chi). Sách này
do ngài Nan-đề Mật-đa-la (Nandimitra - Khánh Hữu) soạn ra, và Tam Tạng
Pháp sư Huyền Trang (600-664) dịch ra chữ Hán. Ngài Nan-đề-mật-đa-la là
người Tích Lan, ra đời khoảng 800 năm sau khi Đức Phật tịch diệt. Pháp
Trụ Ký trình bày danh tánh, trú xứ và sứ mạng của 16 vị La-hán, trong đó
có hai anh em ngài Bàn-đặc.
Về sau, người ta thêm
tôn giả Khánh Hữu thành La-hán thứ 17 và tôn giả Tân-đầu-lô thành La-hán
thứ 18 (nhưng không biết ai là tác giả đầu tiên của con số 18 này). Thật
ra, tôn giả Tân-đầu-lô chính là Tân-đầu-lô Bạt-la-đọa-xà (Pindola
Bharadvaja), vị La-hán thứ nhất trong 16 vị. Có lẽ do không am tường
kinh điển và không thông hiểu tiếng Phạn mà thành lầm lẫn như thế.
Trong số các La-hán
này, có vị không thấy ghi trong kinh điển, có vị không sống cùng thời
với Đức Phật. Thí dụ như La-hán Na-tiên (Nagasena), thật ra, chỉ được đề
cập trong bộ sách “Vua Milinda Vấn Đạo” (trong Hán tạng, có kinh
“Na-tiên Tỳ khưu”), được soạn ra vào khoảng 300-400 năm sau khi Đức Phật
nhập diệt. Sự kiện về đề mục tu quán của ngài Chu-lợi Bàn-đặc cũng không
thống nhất. Có sách ghi ngài đắc quả A-la-hán khi quét dọn sân vườn, có
sách ghi khi ngài lau chùi giày dép của chư Tăng.
Thêm vào đó, cũng thấy
xuất hiện nhiều tài liệu và hình tượng ghi tên vị La-hán thứ 16 và 17
khác nhau, chẳng hạn:
- Ngài Trương Huyền,
vào khoảng năm 900-1000 ở Trung quốc, khi vẽ hình 18 vị La-hán, diễn tả
vị thứ 17 và 18 là tôn giả Ca-diếp và Quân-đề Bát-thán.
- Trong truyền thống
Phật giáo Tây Tạng, ngoài 16 vị trên, người ta thêm Đạt-ma Đa-la (Pháp
Tăng) và Bố Đại Hòa thượng; hoặc thêm hai tôn giả Hàng Long và Phục Hổ;
hoặc thêm Ma-da Phu nhân và Di-lặc để thành ra 18 vị.
4. Kết luận
Qua các câu chuyện về
Trưởng lão Chu-lợi Bàn-đặc, xin đóng góp vài nhận xét thô thiển sau đây:
1) Đề tài thiền quán có
thể là những sự việc thông thường trong đời sống, không cần phải tìm
kiếm xa xôi. Trong trường hợp ngài Chu-lợi Bàn-đặc, chúng ta thấy Đức
Phật biết được căn cơ của ngài, nên khuyên ngài quán sát tấm khăn trắng
dùng để lau thân thể, để thấy được đặc tính vô thường và công phu tẩy
sạch tham sân si. Trong trường hợp ngài Đại Bàn-đặc, vị thầy đã cho ngài
đề mục “tóc lông móng răng da” để quán soi sự bất tịnh của thân xác.
2) Chúng ta không nên
có thái độ kiêu ngạo, chê bai, khinh thường những người đầu óc chậm chạp,
thiếu trí thông minh. Có thể đó là quả báo do nghiệp bất thiện họ tạo ra
trong các kiếp trước. Với sự nỗ lực tinh tấn tu học, và khi phước duyên
tròn đủ, các vị ấy vẫn đạt được đạo quả giác ngộ giải thoát.
3) Công phu tu học cần
phải được huân tập nhiều đời, nhiều kiếp, qua sự tinh tấn nỗ lực không
ngừng. Đức Phật lúc nào cũng khen ngợi những người có lòng tin, có giới
đức, và có sự tinh tấn hành trì.
4) Trong suốt 45 năm
hoằng pháp, Đức Phật đã tế độ cho nhiều hạng người, từ trẻ đến già, cả
nam lẫn nữ, từ hạng cùng đinh, nghèo khổ cho đến hàng thương gia, nghệ
sĩ, vua quan. Tùy theo nghiệp duyên của họ, Ngài có những lời khuyên
thích hợp để khích tấn sự tu tập.
5) Chúng ta phải biết
tùy thời, tùy duyên, khéo léo sử dụng nhiều phương cách khác nhau để tu
tập cho mình, và giúp đỡ bạn đồng tu.
6) Giới luật tu sĩ đặt
ra là do các duyên sự khởi sinh khi thành lập Tăng đoàn, và có những
điều giới đặt ra để giúp giữ gìn thanh danh, tác phong của các tu sĩ,
tránh sự hiểu lầm, đàm tiếu, dị nghị của dân chúng.
7) Chúng ta cần lưu ý
vấn đề “tam sao thất bản”. Những gì được lưu truyền hay trình bày trong
các tài liệu sách báo thời nay cần phải được đối chiếu với kinh điển.
Không nên tin theo một cách mù quáng, nhất là các truyền thuyết không có
cơ sở vững chắc, không có nguồn gốc rõ ràng. Người xưa có câu: “Nói có
sách, mách có chứng”. Lúc nào cũng nên áp dụng tinh thần trạch pháp để
tìm hiểu những gì được truyền tụng.
Tây
Úc, tháng 9-2007
*
Tham khảo:
- Tích truyện Pháp Cú, E. W. Burlingame (Thiền viện Viên Chiếu dịch).
- Kinh Pháp Cú, Hòa thượng Narada (Phạm Kim Khánh dịch).
- Trưởng lão Tăng kệ, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.
- Chuyện Tiền thân Đức Phật, Tập I, Tiểu bộ, Hòa thượng Thích Minh Châu
dịch.
- Kinh Phật Tự thuyết (Cảm hứng ngữ), Tiểu bộ, Hòa thượng Thích Minh
Châu dịch.
- Tăng chi bộ, Chương Một Pháp, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch.
- Tăng nhất A-hàm, Chương Một Pháp, Hòa thượng Thích Thanh Từ dịch.
- Phân tích giới Tỳ khưu, Chương Ưng đối trị, Tỳ khưu Indacanda dịch.
- Sự tích Thập bát La-hán, Hòa thượng Thích Phước Sơn.
- Thập bát La-hán, Lâm Thế Mẫn (Thích Đạo Luận dịch).
- Dictionary of Pali Proper Names, G. P. Malalasekera.
- The Dhammapada Commentary, Department of Pali, University of Rangoon.
- The Dhammapada Stories, Daw Mya Tin, Burma Pitaka Association.
- Buddhist Monastic
Code, Part I, Chapter 8: Pacittiya, Bhikkhu Thanissaro.
* * *
-
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/truonglaochuloibandac.htm