Tử, quận Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị; con của cụ Võ Văn Xưng và bà Trần Thị Diều.
THỜI ẤU THƠ
Năm lên bảy, Ngài bắt đầu theo học chữ Nho. Với tư chất
thông minh, không bao lâu, Ngài đã tinh thông Nho học. Nhờ túc duyên của
nhiều đời, chí xuất trần sẵn cưu mang trong chủng tử, Ngài đã phát
tâm xuất gia thọ giáo với Hòa thượng Tâm Tịnh (Trú trì chùa Tây Thiên
- Huế, lúc bấy giờ) và được ban pháp danh là (thượng) TRỪNG (hạ) Thủy),
pháp tự là Chí Thâm, pháp hiệu là Giác Nhiên.
THỜI GIAN TU HỌC:
Sau 23 năm tu học, Ngài chuyên tâm nghiên cứu tinh yếu của
Kinh luật Đại thừa; đặc biệt, Ngài đã sử dụng phần lớn thời gian
trong việc thiền định. Vì thế, đạo phong của Ngài ngày càng đượm nét
Thiền sư.
Đến năm Canh Tuất (1895), triều Duy Tân, Ngài cùng với
Hòa thượng Tịnh Khiết (Cố Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN) thọ tam đàn Cụ
túc tại Giới đàn chùa Phước Lâm (Hội An). Đại giới đàn này do Ngài
Vĩnh Gia làm đàn đầu, Ngài Tâm Truyền làm Yết-ma và Ngài Hoàng Phú làm
Giáo thọ. Từ đó, giới đức tinh nghiêm, pháp thân thanh tịnh là kim chỉ
nam trong suốt cuộc đời hành hóa của Ngài sau này.
CÔNG NGHIỆP HOẰNG PHÁP
Mãi đến năm 1932, cùng các Hòa thượng Phước Huệ (chùa
Thập Tháp - Bình Định), Giác Tiên, Hòa thượng Tịnh Hạnh, Cư sĩ Tâm
Minh, Trương Xướng... sáng lập Hội An nam Phật học. Hội đã cung thỉnh
Ngài đảm nhiệm chức vụ Chứng minh Đại đạo sư và kiêm nhiệm Giám đốc
Phật học đường Tây Thiên - Huế.
Năm 1934, Ngài làm Trú trì Quốc tự Thánh Duyên (Túy Vân -
Huế), một trong ba quốc tự lớn tại Thừa Thiên (Linh Mụ, Thánh Duyên, Diệu
Đế).
Năm 1936, trều đình phong chức Ngài làm Tăng cang. Cùng năm
đó, Tạp chí Viên Âm, phương tiện hoằng pháp của Phật giáo, do Ngài và
Hòa thượng Giác Tiên chứng minh.
Năm 1938, do ủy nhiệm của các vị Tôn đức thiền gia, Ngài
nhận chức Trú trì Tổ đình Thuyền Tôn (Thừa Thiên). Tổ đình này thuộc
phái Lâm Tế, do Tổ Liễu Quán khai sơn. Ngài là đời thứ VIII, dòng Thiền
Liễu Quán.
Năm 1956, Ngài được Giáo hội Phật giáo Trung phần cung thỉnh
vào chức vụ Viện trưởng Phật học viện Hải Đức - Nha Trang (cơ quan
đào tạo Tăng tài của Phật giáo Trung phần).
Năm 1958-1926, Ngài đảm nhiệm chức Chánh hội trưởng Tổng
trị sự Hội Phật giáo Trung phần trong suốt bốn niên khóa. Trong thời
gian này, với tuổi trên tám mươi vẻ đẹp tùy hình, Ngài vẫn chu toàn
nhiệm vụ, kinh lý, nhiều lần đến các Hội Phật giáo khắp nơi ở Cao
nguyên và Trung nguyên.
Xúc động hơn nữa, cũng chính Ngài, năm 88 tuổi, sức yếu
thân gầy, trong tay chiếc gậy trúc Ngài không từ nan, quyết một lòng hy
sinh vì đạo, đích thân dẫn đầu cuộc biểu tình của Tăng tín đồ Phật
giáo Thừa Thiên - Huế mở đầu phong trào vận động đòi hỏi tự do tín
ngưỡng và bình đẳng tôn giáo vào chiều 14 tháng 4 năm 1963 (Quý Mão).
Trong cuộc vận động và đấu tranh, Ngài đã không ngừng chung lưng đấu
cực, xẻ đắng chia cay cùng với phong trào cho đến ngày thành tựu mỹ
mãn.
Một công việc hoằng pháp trọng yếu hơn nữa, Ngài đã
nhiều lần làm Đàn đầu Hòa thượng truyền giới cho đồ chúng xuất
gia, tại gia qua các đại giới đàn: Giới đàn Hộ Quốc tại Phật học
viện Trung phần, chùa Hải Đức - Nha Trang (1956), giới đàn Vạn Hạnh tại
chùa Từ Hiếu - Huế (1965), Giới đàn Vĩnh Gia tại Phật học viện Phổ
Đà - Đà Nẵng (1970).
Môn đồ của Ngài không nhiều, người còn kẻ mất, đều
đã góp công làm nên lịch sử Phật giáo hiện đại, và hầu hết, là những
cấp lãnh đạo của Giáo hội từ trung ương đến các miền, tỉnh thuộc
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, như Thượng tọa Thiện Siêu, Thượng tọa
Thiện Minh, Thượng tọa Thiện Bình...
Trang trải đã quá nửa đời người, nghịch cảnh, chướng
ngại vẫn còn bủa vây Giáo hội cùng dân tộc. Tuy nhiên, nhất thâm nhật
hậu, với bản chất cố hữu "vô ngôn bất động" của Ngài qua
giới, định, tuệ đã tạo nên một sức mạnh nội tại phi thường như
thế tiếp sức cho những đứa con tinh thần, đang trên đường làm sứ mệnh
Phật giáo Việt Nam.
Rồi tin ngưng bắn được loan đi vào ngày 28-01-1973, đất
nước sẽ sang một giai đoạn mới, từ đó, Giáo hội cũng bắt đầu đối
mặt với một hoàn cảnh khá phức tạp... Không bao lâu, sau đức Tăng thống
của Giáo hội thị tịch (1973) - sinh hoạt của Giáo hội trở nên chông
chênh không người lèo lái. Trước hoàn cảnh đó, Ngài đã nhận chức vụ
Đệ nhị Tăng thống do Đại hội Phật giáo kỳ V suy tôn vào ngày 10
tháng mười hai nhập năm 1973, trong chí nguyện "thiệu long Tam bảo"
để kế tục lãnh đạo Giáo hội. Đây là chức vụ vừa tối cao và cũng
là cuối cùng của đời Ngài.
VẬN ĐỘNG HÒA BÌNH, CHẤM DỨT CHIẾN TRANH
Sau ngày tân nhiệm, chiến tranh vẫn tiếp diễn khốc liệt,
gieo rắc chết chóc tang thương trên khắp đất nước, nền hòa bình dân tộc
đang là bóng dang mù khơi. Ngài đã và đang chứng kiến những chứng tích
được dệt bằng máu và nước mắt của không ai khác hơn là dân tộc Việt
Nam nói chung và quần chúng Phật tử nói riêng. Ngài đã đau khổ nỗi khổ
đau của chúng sinh; cho nên, ngoài sứ mệnh lãnh đạo Giáo hội đúng con
đường Chánh pháp, Ngài vẫn hằng quan tâm đến vấn đề hòa bình đất
nước và sự an lạc của toàn dân. Niềm suy tư và ước vọng này của
Ngài đã được thể hiện qua các "Thông Điệp" kêu gọi ý thức
trách nhiệm của mỗi người để dập tắt chiến tranh, đem lại an lạc hòa
bình cho đất nước và sự an cư lạc nghiệp cho toàn dân.
Sau ngày nước nhà được hòa bình thống nhất, sự lãnh
đạo Giáo hội và và nhiếp hóa chúng sinh của Ngài lúc này là huấn dụ
Tăng Ni nghiêm trì giới luật, Ngài dạy: "Tỳ-ni tạng trụ, Phật
pháp diệc trụ". Ngài cũng khuyên Tăng Ni hãy sống nếp sống phạm
hạnh, theo tinh thần "Bách Trượng thanh quy". Ngài dạy: "Tôi
nay đã già rồi, hơn trăm năm qua, tôi đã sống và đã chứng kiến bao đổi
thay của đất nước thân yêu. Tôi thấy không có gì hơn là sống nếp sống
phạm hạnh. Cho nên, tôi chỉ mong hàng Phật tử xuất gia hãy sống hoan hỷ
trong nếp sống phạm hạnh; giữ gìn Giới - Định - Tuệ để hành đạo,
giúp đời... Với Phật tử tại gia, hãy tu tâm dưỡng đức, biết thương
yêu mọi người, làm tròn trách nhiệm của mình đối với đạo, đối với
đời để cùng nhau phát huy tinh thần từ bi, trí tuệ của đạo Phật và
xây dựng một nước Việt Nam vinh quang giàu mạnh". (Thông điệp Phật
đản 2522 - 1978)
NHIẾP HÓA ĐỒ CHÚNG
Mặc dầu công việc đối ngoại của Giáo hội đa đoan và
phức tạp, Ngài vẫn không xao lãng việc nhiếp hóa đồ chúng. Ngài từng
huấn dụ Tăng Ni: "Đạo Phật tồn tại, không chỉ ở những hình
thức chùa tháp, lễ nghi, kinh điển. Mặc dù kinh điển là chỉ nam, hướng
dẫn ta đến đạo quả Vô thượng Bồ-đề, nhưng sự tồn tại đích thực
chính là ở sự thể hiện đạo phong. Những nếp sống gương mẫu của các
bậc Tăng-già nghiêm trì giới luật và biết tận lực phục vụ chánh
pháp, để chánh pháp tồn tại mãi mãi với thế gian và làm lợi ích
chúng sinh..." (Thư gửi Tăng Ni nhân mùa An cư 1976).
Thật vậy, mặc dầu đã 102 tuổi, nhưng nơi Ngài không hề
thấy có triệu chứng thông thuờng của những bậc luống tuổi. Pháp thể
tuy có gầy ốm, nhưng Ngài vẫn đi đứng bình thường. Dáng đi mạnh mẽ
khoan thai, oai nghiêm đĩnh đạc, không phiền người dìu dắt, không hề nắm
gậy, ngồi hàng giờ lưng không biết đau, gối không biết mỏi, mắt
không mờ, tai không lãng, nói năng rõ ràng không hề lẫn lộn và trí tuệ
minh mẫn một cách lạ thường.
Mắt mờ, tai lãng, gối mỏi, lưng đau, nói năng lẫn lộn,
trí nhớ mất đi và đi đâu phải chống gậy, đó là những triệu chứng
thường tình, có ở nơi các bậc luống tuổi. Nhưng ở Ngài thì không. Phải
chăng nhờ công hạnh tu trì của Ngài đã làm thay đổi những triệu chứng
thường tình của thế nhân. Ngừng ấy đức tính đặc hữu nơi Ngài, đủ
làm chúng ta kính phục và tăng trưởng đạo tâm.
NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG:
Trong dịp đầu xuân Kỷ Mùi, khi Hòa thượng Đôn Hậu,
Chánh thư ký Viện Tăng thống và quý Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức
trong Giáo hội Thừa Thiên đến Tổ đình Thuyền Tôn để đảnh lễ và
chúc thọ đầu năm (04-01-Kỷ Mùi). Hôm đó, trời trở lạnh, Ngài đang nghỉ,
Hòa thượng Đôn Hậu và Ban Đại diện Phật giáo vào tận chỗ nghỉ,
Ngài hỏi bằng một giọng nhẹ nhàng và vô cùng cảm mến: "Ai đó?".
Sau khi được trình lại, Ngài sửa soạn định ngồi dậy, Hòa thượng Đôn
Hậu: "Xin thỉnh Ôn cứ nằm, cho phép chúng con được đảnh lễ, chúc
thọ đầu năm". Ngài dạy: "Để tôi ngồi dạy một tí với các
Thầy, nằm ri e không phải lễ với các Thầy chừ". Đoạn Ngài ngồi
dạy, nhìn quanh rồi hỏi: "Thầy Đức Tâm mô? Răng không vào cho tôi
thăm với?". (Hôm đó Thầy Đức Tâm, Phó Đại diện Giáo hội tỉnh
Thừa Thiên Huế bị bệnh, không đi được). Ngừng ấy lời lẽ, đầy đủ
Ngài sáng suốt đến chừng nào.
Sau lễ Chúc thọ, như một vị Bồ-tát "dự tri thời
chí", linh cảm trước được sự ra về vĩnh viễn của mình, Ngài
ân cần dạy bảo những lời đầu năm vô cùng xúc động: "Tôi nay
tuổi đã già rồi, tôi thấy sức khỏe tôi kém nhiều. Chưa biết chừng sự
chết sẽ đến nay mai. Nay, nhân dịp đầu năm, Hòa thượng và các Thầy
đến thăm tôi, tôi xin cám ơn và xin cầu Phật gia hộ Hòa thượng và các
thầy nhiều sức khỏe, cố gắng kiên nhẫn trước mọi nghịch cảnh để
phục vụ Giáo hội, dìu dắt Tăng Ni tín đồ tu niệm. Tôi thật không có
gì vui mừng hơn".
Ngờ đâu, lời huấn thị đầu xuân và cũng là lời di
giáo tối hậu của đức TĂNG THỐNG. Chỉ vỏn vẹn một ngày sau, và cũng
chỉ sau vài giờ pháp thể khiếm an, Ngài dạy: "Vô thường thị
thường", rồi an nhiên xả báo thân vào hồi 06giờ 30 ngày mồng 6
tháng Giêng năm Kỷ Mùi, 01-02-1979. Ngài hưởng thọ 102 tuổi đời, 84 hạ
lạp. Bảo tháp của Ngài hiện tôn trí tại khuôn viên Tổ đình Thuyền
Tôn - Huế.
Ngài ra đi, để lại mối cảm hoài vô hạn trong lòng mọi
người con Phật...