Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông bằng đá - Ảnh: tư liệu
* Anh hùng dân tộc, nhà văn hóa lớn,
ông tổ Thiền tông VN
Hôm nay 16.12.2009 (nhằm 1.11 Kỷ Sửu), đại lễ tưởng niệm 701 năm
ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn (1308 - 2009) sẽ cử hành
trọng thể tại nhiều nơi trong nước. Vì sao Phật hoàng Trần Nhân Tông
được cả người trong đạo lẫn ngoài đời tôn vinh?
Trong vòng mấy thập niên qua, Phật giáo đời
Trần với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do ngài làm sơ tổ (vị tổ đầu tiên),
lại có vận hội mới để khôi phục mạnh mẽ. Bằng chứng là rất nhiều ấn phẩm
liên quan đến thiền phái, cũng như một số thiền viện mang tên Trúc Lâm
như Trúc Lâm Lâm Đồng, Trúc Lâm Yên Tử, Trúc Lâm Tây Thiên, Trúc Lâm
Bạch Mã... đã và đang xây dựng trang nghiêm từ Nam chí Bắc để làm đạo
tràng thực hành tu học theo chủ trương của thiền phái Việt Nam.
Các vua Trần có phạm tội sát sanh?
Điều làm nhiều người thắc mắc là, Phật giáo
đời Trần với các vị vua như Trần Thái Tông (Trần Cảnh) và nhất là Trần
Nhân Tông (Trần Khâm) đã trực tiếp lãnh đạo tướng sĩ, quân dân thời đó
đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông, máu giặc nhiều trận nhuộm đỏ nước
sông Bạch Đằng, xác giặc trôi ngổn ngang trong dòng, phơi đầy ngoài biên
ải, như thế xét về mặt giáo lý của nhà Phật, thì các vị vua ấy có phạm
tội sát sanh hay không?
Để trả lời, hòa thượng Thích Thanh Từ - người
khởi xướng và chủ trương khôi phục Phật giáo đời Trần hiện nay - đã thử
so sánh hành động của vua Lương Võ Đế bên Trung Hoa (thế kỷ 5 - 6) với
vua Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông ở Việt Nam (thế kỷ 13). Rằng
khi vua Lương Võ Đế bị quân của Hầu Cảnh kéo đến vây chặt thành Kiến
Khương (kinh đô nhà Lương), bấy giờ quần thần xin xuất quân chống giặc
nhưng vua không cho, lại ra lệnh đóng chặt cửa thành, tụng kinh cầu
nguyện cho giặc lui. Nhưng: “kết quả giặc chẳng lui, mà ông (vua Lương
Võ Đế) bị mất nước (về sau nhịn đói chết). Trái lại vua Trần Thái Tông (và
Trần Nhân Tông) là người ngộ được Thiền tông, khi giặc Nguyên - Mông xâm
lăng vua chỉ huy cầm quân đánh giặc, giặc thua rút lui về, đất nước thái
bình, vua mới ngồi yên tu thiền. Hai thái độ của hai ông vua đồng kính
mộ đạo Phật, mà xử sự mỗi bên mỗi khác”. Rồi kết luận, khi bị giặc vây
khốn, vua Lương Võ Đế không dụng binh mở vòng vây, mà chỉ ngồi trong
thành tụng kinh cầu cho giặc lui, như thế là vọng tưởng, vì “đây là
đem tôn giáo áp đặt lên chính trị nên phải mắc họa. Vua Thái Tông tách
bạch phân minh phần nào thuộc tôn giáo, phần nào thuộc chính trị, nên
cứu được đất nước khỏi lâm nguy. Tu theo Phật giáo là trau dồi đạo đức
rèn luyện tâm linh là việc riêng của mỗi người phật tử, tức là lĩnh vực
của tôn giáo. Giặc ngoại bang xâm lăng Tổ quốc, toàn dân đứng lên chống
giặc, người lãnh đạo cổ động lòng yêu nước của dân và đứng ra chỉ huy
đánh giặc là lĩnh vực chính trị. Phân rành lĩnh vực tôn giáo, lĩnh vực
chính trị là vấn đề rất thiết yếu. Người phật tử thọ tam quy trì ngũ
giới, nếu phạm giới sát sinh là có tội, đó là phần tu hành riêng của
phật tử, thuộc lĩnh vực tôn giáo. Đất nước bị xâm lăng, toàn dân đứng
lên chống giặc là trách nhiệm của mỗi công dân, thuộc lĩnh vực chính trị.
Dù trong cuộc chiến có nhiều phật tử giết nhiều sinh mạng kẻ thù, song
không thể mang tội sát sanh đặt vào chỗ này được”.
Từ so sánh ấy, có thể rút ra trường hợp Phật
hoàng (khi còn là Hoàng đế Trần Nhân Tông) vì lợi ích của toàn dân động
binh chống giặc, là hoàn toàn đúng. Nên Phật hoàng được ca ngợi vì phước
báu cứu người cứu nước từ xưa.
Trường tồn qua 7 thế kỷ
Tháp Huệ Quang thờ Phật hoàng ở chùa Hoa Yên, núi Yên Tử (Quảng Ninh) -
Ảnh: tư liệu
Mới đây, theo tinh thần thông tư của Hội đồng
trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và nội dung thư mời dự
tưởng niệm 701 năm ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập diệt đã ghi rõ
đại lễ này nhằm “tưởng nhớ công lao và sự nghiệp vĩ đại của Phật
hoàng Trần Nhân Tông, người anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại của non
sông đất nước ta, là người đã sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Việt
Nam - thiền phái duy nhất trong lịch sử Việt Nam có sơ tổ là một thiền
sư người Việt”. Theo đó, có ba điều trong cuộc đời Phật hoàng được
mãi mãi tôn vinh:
Thứ nhất,
Phật hoàng Trần Nhân Tông là một hoàng đế anh hùng của dân tộc, lên ngôi
năm 1279, lúc 21 tuổi. Dưới triều đại của ngài, hai hội nghị vang dội
lịch sử là Hội nghị Diên Hồng và Hội nghị Bình Than đã được mở ra vì mục
đích cứu nước. Ngài lãnh đạo quân dân tướng sĩ thời đó đánh tan giặc
Nguyên - Mông hai lần. Lần đầu vào năm 1285 khi đánh bại đại binh của
nhà Nguyên, rượt đuổi thái tử Thoát Hoan chui vào ống đồng trốn về nước,
chém đầu nguyên soái Toa Đô, giết Lý Hằng và tùy tướng Lý Quán tại trận...
Lần thứ hai vào năm 1288 ở sông Bạch Đằng, quân ta đóng cọc nhọn phủ cỏ
lên trên, dụ thuyền giặc đến theo nước thủy triều, rồi vua tung quân
đánh lớn, khiến quân xâm lược Nguyên bị “chết đuối nhiều không kể xiết”,
thu 400 thuyền, bắt sống nguyên soái Ô Mã Nhi, Tích Lê Cơ, tham chính
Sầm Đoàn, Phàn Tiếp, nguyên soái Điền, cùng các Vạn hộ, Thiên hộ đem về
làm lễ báo cáo đại thắng ở Chiêu lăng. Vua nhân từ, sau thắng giặc, ra
lệnh đại xá thiên hạ, tha thuế toàn phần cho những nơi bị giặc đốt phá.
Giặc rút về, quân ta thu được cái hòm biểu đựng nhiều giấy xin hàng quân
Nguyên của một số quan lại lúc đó. Thay vì trị tội, Phật hoàng ra lệnh
đem hòm kia đốt đi, không truy tội, để làm yên lòng những kẻ trót tâm
phản trắc.
Thứ hai,
Phật hoàng là nhà văn hóa lớn của Việt Nam. Ngài cải tiến chế độ thi cử,
phát triển thơ văn chữ Nôm, chỉ đạo biên soạn các bộ sách quan trọng,
cùng những hoạt động trí thức khác đã thực sự góp phần đẩy mạnh đà phát
triển của nền văn hóa Đại Việt. Những thành công ấy, chẳng hạn về lĩnh
vực văn học, đến thế kỷ 20 vẫn được các tác gia có uy tín ghi chép. Như
Trần Trọng Kim qua Việt Nam sử lược nêu rõ “đời vua Nhân Tông có
nhiều giặc giã, tuy vậy việc văn học cũng hưng thịnh lắm. Xem bài hịch
của Hưng Đạo vương, thơ của ông Trần Quang Khải và của ông Phạm Ngũ Lão
thì biết là văn chương đời bấy giờ có khí lực mạnh mẽ lắm. Lại có quan
Hình bộ thượng thư là ông Nguyễn Thuyên khởi đầu dùng chữ Nôm mà làm thơ
phú (Văn tế cá sấu)”. Chính Phật hoàng cũng sáng tác các tác phẩm
như: Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Đại hương hải ấn thi tập, Tăng
già toái sự, Thạch thất mị ngữ (do ngài Pháp Loa soạn lại).
Thứ ba,
Phật hoàng là ông tổ Thiền tông đầu tiên người Việt Nam. Trước ngài, một
số hệ phái Thiền tông xuất phát từ Trung Hoa truyền sang như thiền phái
Tỳ-ni-đa-lưu-chi, thiền phái Vô Ngôn Thông, thiền phái Thảo Đường với
các vị đứng đầu gốc gác người Trung Quốc hoặc Ấn Độ. Đến thời Phật hoàng
Trần Nhân Tông thì ngài mới lập phái thiền Trúc Lâm Yên Tử và là phái
thiền đầu tiên - duy nhất đến nay có sơ tổ là Hoàng đế Việt Nam. Đến
nay, những vị chủ trương khôi phục Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần
do xuất phát từ nhận định “giá trị Phật giáo ở Ấn Độ thật siêu xuất, giá
trị Phật giáo Việt Nam cũng phi thường, mới đủ sức thuyết phục một ông
hoàng, một ông vua đi tu. Ở Việt Nam đời Trần ông vua đi tu Phật (Trần
Nhân Tông), ông trạng nguyên đi tu Phật (Huyền Quang), chúng ta thử xét
giá trị đời ấy cao siêu đến ngần nào. Phật pháp đã cao siêu, người tu
cũng đáng kính, cho nên Phật giáo rất thịnh hành trong thời Trần. Chúng
tôi nhằm khôi phục Phật giáo đời Trần cốt nâng cao Phật giáo Việt Nam
hiện nay là như thế”.
Những điều nêu trên về Phật hoàng Trần Nhân
Tông là những giá trị vĩnh cửu, cho dù Phật hoàng đã nhập Niết bàn từ
hơn bảy thế kỷ qua...
Sơn Phòng Mạn Hứng
Thùy phược cánh
tương cầu giải thoát
Bất phàm hà tất mích thần tiên
Viên nhàn mã quyện nhân ứng lão
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Thị phi niêm trục
triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn
Thơ
Trần Nhân Tông |
Phòng núi khởi hứng
Ai trói mà mong cầu
giải thoát
Chẳng phàm, nào phải kiếm thần tiên?
Vượn nhàn, ngựa mỏi, người đã lão
Như cũ vân trang một chõng thiền.
Phải quấy niệm rơi
hoa buổi sớm
Lợi danh tâm lạnh với mưa đêm
Mưa tạnh, hoa trơ, non vắng lặng
Chim kêu một tiếng lại xuân tàn.
(Hòa thượng
Thích Thanh Từ
dịch) |
Nguồn:
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/200951/20091216001210.aspx
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/nguoi/phathoang.htm