Để tưởng niệm ngày Viên tịch cố đại lão Hòa thượng Thích Phát Huệ
- Nguyên Trưởng
ban Trị sự Phật giáo VN tỉnh Vĩnh Long
–
Chứng minh Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo VN VĩnhLong
- Thành viên Hội đồng chứng minh Trung ương GHPGVN
Một cây đại thọ cuối thế kỷ 20, của Phật giáo tỉnh Vĩnh Long. Chúng ta
cùng nhau ôn lại hành trạng của Ngài để nêu gương sáng cho hàng hậu thế
noi theo tu học :
Tiểu sử Hòa thượng
Thích Phát Huệ
(1917 - 2008)
Hòa thượng thuộc dòng thiền Lâm Tế gia phổ đời thứ 40, pháp húy Chơn
Phát hiệu Phát Huệ, thế danh Nguyễn văn Tượng, sinh năm Đinh Tỵ (1917)
niên hiệu Khải Định năm thứ 2, tại xã An Đức, huyện Châu Thành (nay là
huyện Long Hồ), tỉnh Vĩnh Long.
Song thân của Ngài là cụ ông Nguyễn Văn Thể, pháp danh Thiện Từ, hiền
mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Rái, pháp danh Diệu Tánh. Cụ Ông và Cụ bà đã hạ
sinh được 07 người con, Ngài là anh cả trong gia đình.
Ngài vốn sinh ra trong một gia đình trung lưu, theo truyền thống Phật
giáo lâu đời, kính tin Tam Bảo.
Thuở nhỏ, thường theo thân mẫu đến chùa lễ Phật. Khi lên 10 tuổi, thiện
duyên khai phát, Ngài quy y với Sư bà Thiện Nhàn, trụ trì chùa Long
Thạnh, Vĩnh Long, được ban pháp danh là Nhựt Huệ. Cũng từ đó Ngài
thường xuyên tới chùa công quả, nghe kinh thấm nhuần suối nguồn Từ bi,
và thuộc làu những bài kinh ngắn thường tụng ở chùa.
Năm 13 tuổi được song thân phép, Ngài xuất gia với Hòa thượng Thiện Hòa
tại chùa Phước Long, Cái Tàu Hạ. Hằng ngày trong cuộc sống bản tánh hiền
hậu, thông minh, siêng năng, thích lao động, lại hiếu học nên trong
khoảng thời gian rất ngắn, hai thời khóa tụng đã làu thông, am tường
Pháp học và kiến thức Phật học trội hơn các bạn đồng tu.
Năm 15 tuổi, Ngài theo Hòa thượng Bổn sư về Cái Da lớn trùng tu chùa
Ông, xây cất lại khang trang và đổi hiệu là Long Hòa Tự. Trong thời gian
ngắn ôn cố tri tân lại bản tự, Hòa thượng Bổn sư cho tham vấn học hỏi
thêm với sư Bác Yết Ma Thiện Tính là Pháp sư, trình bày sự hiểu biết về
diễn giảng và hướng dẫn những bộ kinh Phật học cơ bản cho người học trò
cần cù tham vấn. Từ đó Ngài lướt sóng trên biển pháp mênh mông, dạo bước
phong ba trong rừng thiền kinh tạng, ban ngày lao động và ban đêm tu
học.
Năm Giáp Tý (1924), niên hiệu Khải Định năm thứ 9, Ngài được Hòa thượng
Bổn sư cho đăng đàn thọ giới Sa di tại chùa Long Thạnh, Vĩnh Long. Với
số vốn Phật học sẳn có, chỉ trong vòng thời gian ngắn bộ luật Sa di Ngài
đọc học rất am tường. Với sức khỏe của vị Tăng trẻ, Ngài không ngừng
nghiên cứu kinh văn giáo lý.
Nhận thấy chùa Vạn An là trường Gia giáo, Ngài ngõ ý cùng Hòa thượng Bổn
sư để được sánh bước cùng với huynh đệ tu học tại đây.:
Được chấp thuận, thế là Ngài cùng với các bậc đàn anh là Thầy Chơn Tịnh,
Thầy Pháp Tịnh, Thầy Thiện Nghiêm và các huynh đệ khác cùng tu học.
. Năm Đinh Sửu (1937), niên hiệu Bảo Đại năm thứ 13, Hòa thượng Bổn sư
xem cơ và phong cách của ông Tăng đã có và nói : “bát nước đã đầy”và
Hòa thượng Bổn sư cho Ngài được thọ Tỳ Kheo và Bồ tát giới tại giới đàn
chùa Long Thạnh, Vĩnh Long.
Chiến tranh khắp đất nước, công việc nhà chùa thật cực nhọc và gian nan
mà Ngài không hề tỏ ra thoái chí nản lòng trong việc tu học.
Năm Mậu Tý (1948), chiến tranh bùng nổ ngày càng dữ dội, chùa Long Hòa
bị tàn phá nhiều. Đến khi thấy yên ổn đôi phần Ngài về chùa xây dựng lại
mặt tiền cho khang trong.
Năm Kỷ Sửu (1949), biến cố vô cùng đau thương trong cuộc đời Ngài, vị Ân
sư đã thu thần Tịch diệt. Với tâm trạng vô cùng đau đớn, biết nói gì
đây !
Ngài chỉ biết bây giờ vị Thầy khả kính đã tròn đạo hạnh – Niết bàn là
đây. Cũng từ đó trở đi Thầy kế thừa làm trụ trì chùa Long Hòa. Ngài đến
cầu pháp với Hòa thượng Chánh Quả chùa Kim Huê, Sa Đéc và được ban pháp
danh Chơn Phát hiệu là Phát Huệ (dòng thiền Lâm Tế gia phổ).
Vào năm Kỷ Hợi (1959), Ngài làm thư ký cho Liên đoàn Phật giáo Tăng già
Nam Việt huyện Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long. Sau đó Ngài được dự khóa đào
tạo Trụ trì tại chùa Pháp Hội, Sài Gòn. Ra khóa, Ngài đi dự khóa diễn
giảng từ 3 – 6 tháng với chức Ủy viên thường vụ trong nhóm. Mãn khóa
Ngài được Giáo thọ bổ nhiệm về Trụ trì chùa Long Phước, Vĩnh Long. Được
một năm, Ngài trở về Trụ trì chùa Long Hòa.
Năm Ất Tỵ (1965), với tinh thần chuyên tu và sức học uyên thâm, Ngài
được bầu làm Chánh đại diện Phật giáo Thống nhất tỉnh Vĩnh Long. Năm năm
sau, Ngài được bầu Ủy viên Tăng sự Tỉnh hội Phật giáo Thống nhất tỉnh
Vĩnh Long.
Sau lần đổi mới đất nước, đôi bờ Phật giáo được Thống nhất nên không còn
danh từ Phật giáo Thống nhất mà là Phật giáo Việt Nam.
Năm Ất Sửu (1985), Ngài được bầu làm Trưởng ban Trị sự Tỉnh hội Phật
giáo Việt Nam tỉnh Vĩnh Long, suốt nhiệm kỳ 1 và 2.
Dù tuổi già sức yếu, Ngài luôn cố gắng cùng với Tăng ni trong Ban Trị
sư thường hội họp để khơi lên ngọn đuốc Chánh pháp bằng cách mở trường
Cơ bản Phật học và các khóa An cư cho Tăng Ni trong tỉnh.
Năm Mậu Dần (1998) Ngài được Tỉnh hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Vĩnh Long
tôn vinh lên hàng Giáo phẩm Chứng minh Tỉnh hội, Ngài cũng là Thành viên
Hội đồng Chứng minh Trung ương GHPGVN cho đến khi Viên tịch.
Trong thời gian sống và làm Phật sự, Ngài luôn tích cực. Tuy già bệnh
nhưng Hòa thượng vẫn tham dự lễ lạc Chứng minh cho Tăng Ni, An cư
(2008), Ngài tuổi đã 90 mà vẫn ngồi ghế Chứng minh từ đầu cho đến cuối.
Mùng 9/7 giải Hạ Ngài cũng ngồi suốt cả buổi lễ. Việc này đã gây xúc cảm
cho hầu hết Tăng Ni có mặt. Ngài quả là một vị Đại Tăng đầy đức hạnh.
Ngài sống đoàn kết hòa hợp trong Tăng đoàn, đây là một tấm gương lớn cho
hàng tứ chúng noi theo.
Trong đời sống, Ngài rất bình dị, luôn thể hiện câu : “ Tri túc
thường lạc”. Ngài thực sự hiền hòa đáng là một vị chân Tăng
trưởng lão Hòa thượng.
Thuận thế vô thường, Ngài từ giã từ cõi tạm cát bụi phù du, xã huyễn
thân, thể nhập Chân thường vào lúc 07 giờ sáng ngày 23 tháng 07 năm Mậu
Tý (23-08-2008).
Trụ thế 91 Xuân, 70 Hạ lạp, Trụ trì 60 Đông với cao danh Hòa thượng
Trưởng lão.
(Thích Vân Phong kính biên tập)
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/nguoi/thichphathue.htm