Trần Kiêm Đoàn
Trước
thời kỳ Phật giáo Tranh đấu cho quyền Tự do và Bình đẳng Tôn giáo
năm 1963, tại Huế, có một danh xưng truyền thống phổ biến mà người
bình dân cũng như hàng quý tộc Phật tử xứ này luôn dùng xưng hô với
quý Thầy cao niên hàng danh tăng, đạo hạnh, đó là tiếng “Ôn”. Trong
ngữ âm tiếng Huế, từ “Ôn” được phát âm một cách khiêm cung, trìu mến,
trang trọng bằng âm hưởng “ôôn” nằm lưng chừng giữa ngữ âm cuối “ôn”
trong tiếng Bắc và “ông” trong tiếng Việt phổ thông.
Hầu hết Phật tử và khách viếng chùa, ít người biết đến thế danh,
pháp danh, đạo hiệu, pháp vị của Thầy Tổ mà vẫn thường quen dùng tên
riêng của ngôi chùa như là một “danh xưng quy ước” của “ôn”.
Người ta biết đến Ôn Từ Đàm, Ôn Vạn Phước, Ôn Châu Lâm, Ôn Từ Hiếu,
Ôn Trúc Lâm, Ôn Trà Am, Ôn Tường Vân, Ôn Linh Mụ, Ôn Tây Thiên…
nhưng rất hiếm người biết quý Thầy qua pháp danh, đạo hiệu hay pháp
vị như Thượng toạ… , Hòa thượng…
Đã bốn mươi lăm năm quy y với Ôn Châu Lâm mà tôi vẫn chưa biết hay
có ý khám phá pháp danh hay đạo hiệu của Ôn là chi. Mãi đến khi
viết những dòng nầy, tôi mới để tâm sưu khảo và biết tên đạo của Ôn
là Thích Viên Quang. Nhưng có pháp danh hay đạo hiệu nào cao sâu hơn
mà khi nhắc đến là cả một tiếng chuông vọng lên từ trong tâm nguyện
như “Ôn Châu Lâm.”
Thế nhưng, trong ký ức thâm sâu vẫn có những biệt lệ. Như dẫu đã xa
Huế, rời quê hương mấy chục năm qua, tôi vẫn luôn nhớ về Ôn Trúc Lâm
cùng một lần với tên đạo của Ôn là Thích Mật Hiển.
Xa Huế, được đến những kinh đô và những khu cư dân tụ hội Phật giáo
xứ người, tôi càng có cảm nhận sâu sắc hơn về một hình ảnh đậm màu
tâm lý, rằng: “Huế là một thủ đô Phật giáo của Việt Nam.” Khái niệm
“thủ đô” chẳng phải là một hiện thể của lâu đài, tự viện nguy nga
theo chiều rộng và chiều cao mà chính là để nói lên kích thước của
chiều sâu – một chiều sâu huyền nhiệm và thiêng liêng – đầy tính mặc
khải, không thể thu hình hay ghi số liệu được, mà người ta chợt xúc
động bắt gặp như một ngọn trào tình cảm đậm dấu tâm linh ẩn hiện
trên những chặng đường đời không định trước của mình.
Thời nhỏ, mỗi năm vào mùa Vu Lan tôi thường theo mẹ và các bác trong
khuôn hội Liễu Hạ đi chùa “bổn sư” là chùa Châu Lâm. Lần nào đoàn
hành hương cũng đến viếng chùa Trúc Lâm nằm trên đồi Dương Xuân
Thượng. Khi các bác sắp hàng đảnh lễ Thầy Trúc Lâm, tôi chỉ dám
dứng xớ rớ bên ngoài. Thuở ấy, tuy chỉ mới ngoài năm mươi tuổi
nhưng đối với tôi, Thầy trụ trì chùa Trúc Lâm trông có vẻ uy nghi và
đường bệ như một đại tăng cao niên. Nhất là khi mẹ tôi và các bác
thì thào nói với nhau rằng: “Uy Thầy lớn lắm. Thầy ‘cao tay ấn’
trừ tà bắt ma như người thường bắt chuột!” Nghe thế, tôi lại càng
kính cẩn đứng xa nhìn thầy vì tôi vốn ở nhà quê, vườn rộng và sợ ma
hơn cả sợ bị mẹ bắt ngủ trưa. Nhưng lần nào Thầy cũng ưu tiên ngoắc
thằng nhỏ tôi đang đứng im thin thít ngoài hiên vào cho trái cây. Vườn
nhà tôi ở quê cũng thuộc hàng đệ nhất cây trái, nhưng chưa bao giờ
có được những trái khế ngọt lịm, mọng nước như quả khế chùa Trúc Lâm
của Thầy cho. Ngày ấy, tôi cứ chăm chăm nhìn sâu vào đối mắt sáng
quắc của Thầy để tìm cho ra cái “thần lực trừ tà ma” trong mắt Thầy
như các bác khuôn hội rỉ tai cho nhau, nhưng tôi chẳng thấy gì trong
đôi mắt và khuôn mặt “diệt ma vương” của Thầy, ngoài ánh từ quang
trong đôi mắt và nét nhân hậu hiền hòa từ nụ cười tỏa sáng trên
khuôn mặt thanh tú của Thầy.
Ấn tượng tuổi hoa niên của tôi đối với Thầy Trúc Lâm cũng như Thầy
Châu Lâm là sự tôn kính đơn giản một chiều mà hầu như là do mẹ tôi
và người lớn truyền lại.
Nếu không có cuộc Phật giáo Tranh đấu 1963, có lẽ suốt đời tôi cũng
sẽ đến chùa đảnh lễ quý Ôn với lòng tôn kính một chiều như vào chùa
lạy Phật với tinh thần thụ động của một tín đồ tôn giáo mà thôi. Thế
nhưng giáo sử Phật giáo trong lòng lịch sử thăng trầm của dân tộc đã
đưa hình ảnh trầm mặc của quý danh tăng xứ Huế, phải ra tiếp cận với
thế quyền đang múa may trên vũ đài chính trị.
Phật Đản năm 1963!
Tôi là liên đoàn trưởng Gia Đình Phật Tử Liễu Hạ trực thuộc Ban
hướng dẫn Thừa Thiên Huế. Tôi làm trại phó kiêm trưởng ban Đời Sống
Trại của trại Tất Đạt Đa mừng Phật Đản. Đây là một liên Gia đình
Phật tử gồm có 7 đơn vị: Cổ Lão, Liễu Hạ, Hương Cần, Triều Sơn
Trung, An Thuận, Vân Cù, Nam Thanh.
Biến cố đã xảy ra trong đêm lửa trại mừng Phật Đản của chúng tôi.
Tôi xin trích một đoạn bài tôi đã viết về “đêm đó” đã đăng trong
sách Bốn Mươi Năm Nhìn Lại do Giao Điểm xuất bản năm 2003:
“Đêm rằm trên đồng lúa mênh mông vừa mới gặt chỉ
còn gốc rạ lô nhô, trăng đồng quê dịu mềm như sữa mẹ rót xuống lòng
đời biền biệt không bao giờ khô cạn. Đêm văn nghệ lửa trại còn để
lại âm vang trìu mến trên từng gốc rạ và đống lửa chưa tàn. Sơn Ca
và Ban quản trại là những người không được ngủ khi chưa nghe hết
tiếng ngáy thân thương của các em trong mỗi cụm lều. Tôi thổi còi
im lặng, báo giờ ngủ cho toàn trại nhưng tiếng cười rúc rích “mỗi
năm mới có một lần” của các em trại sinh vẫn lao xao đây đó. Đêm đã
khuya, tôi và các anh chị trong Ban quản trại cố đi quanh dập tắt
tiếng cười tíu tít của các em trong đêm chia tay, nhưng tiếng cười
đó lại chảy vào lòng mình thân thương và ấm quá! Đêm về sáng. Tôi
và anh Lũy, trại trưởng, vẫn còn thức. Trên đường quan lộ, hình như
có ai đang về. Tiếng xe đạp dừng lại và anh Đãi, chú Phẩm, chị Gái...
vừa chạy lúp xúp, vừa thở hổn hển báo tin dữ: “Phật tử bị giết ở đài
phát thanh nhiều lắm! Nguy rồi! Chắc chuyến ni chết hết!” Rồi các
anh chị kể lại, không đầu không đuôi, rằng là các anh chị từ chùa Từ
Đàm về, qua đài phát thanh Huế, nhưng chỉ thấy xe tăng, lính tráng,
cảnh sát đang giành giựt, xô xát nhau với đám đông; rồi vòi rồng xịt
nước, súng bắn, lựu đạn nổ, máu đổ, người chết... mới xảy ra hồi 9,
10 giờ tối. Tôi chưa biết ai giết ai nhưng một cảm giác rúng động
chạy dài trong dòng suy nghĩ. Tôi liên tưởng đến mội chuổi mắc xích
nối kết giữa việc cấm treo cờ Phật giáo và cuộc bạo động đổ máu vừa
xảy ra. Tôi chong mắt chờ sáng để nghe những tin tức mới. Sáu giờ
sáng 9 tháng 5 năm 1963, đài BBC Luân Đôn và tiếp đó, đài VOA loan
tin về cuộc biến động xảy ra trước đài phát thanh Huế như sau:
“Theo thông lệ hàng năm, chương trình phát thanh đặc biệt dành cho
lễ Phật Đản được phát thanh vào lúc 8 giờ tối trên làn sóng điện của
đài phát thanh Huế. Nhưng năm nay, chương trình này không được phát
sóng. Quần chúng chờ đợi ở nhà không được nghe nên đã tìm đến đài
phát thanh Huế để biết sự việc. Vì số lượng người khá đông đảo nên
thiếu tá Đặng Sĩ, phó tỉnh trưởng nội an kiêm tiểu khu trưởng tiểu
khu Thừa Thiên đã gọi đó là ‘đám biểu tình’ và huy động lực lượng
thiết giáp Bảo an, vũ trang quân cảnh và cảnh sát thành phố Huế tới
vây quanh. Mở đầu là xe vòi rồng cứu hỏa đến xịt nước giải tán.
Tiếp theo là bắn đạn mã tử, lựu đạn khói, lựu đạn cay được tung vào.
Sau cùng là súng trường, lựu đạn nổ và xe thiết giáp được sử dụng
vào lúc 9 giờ 30 tối. Hậu quả của cuộc xung đột nầy là máu đã đổ:
Tám người thiệt mạng và bốn người bị thương. Xe thiết giáp cán vỡ
đầu một thiếu nhi, một em nhỏ khác bị cán mất nửa đầu và một em nữa
mất hẳn đầu.”
Sự phản kháng trước một hoàn cảnh bi thiết như thế là điều tất yếu.
Cùng với hàng hàng lớp lớp những người Phật tử yêu Đạo Pháp và Dân
Tộc, tôi dấn thân vào cuộc tranh đấu cho quyền tự do và bình đẳng
tôn giáo. Cung cách nghiêm cẩn mà trẻ trung, uy vũ mà phóng khoáng
của Thầy Thích Mật Hiển thể hiện từ đầu trong quá trình đấu tranh đã
làm cho tuổi trẻ Phật tử và đoàn sinh GĐPT chúng tôi hướng về Thầy
như một biểu tượng của tấm lòng, trí tuệ và sức mạnh của tinh thần
Bi-Trí-Dũng.
Bản tuyên ngôn ngày 10-5-1963 đòi hỏi chính quyền Ngô Đình Diệm
thực thi 5 nguyện vọng của Phật giáo đồ về quyền tự do và bình đẳng
tôn giáo đã làm nức lòng người Phật tử. Bản văn mang chữ ký của Hoà
thượng Thích Tịnh Khiết, hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam; Thượng
tọa Thích Mật Nguyện, đại diện Giáo hội Tăng già Trung phần; Thượng
tọa Thích Trí Quang, đại diện hội Phật giáo Việt Nam tại Trung phần;
Thượng tọa Thích Mật Hiển, đại diện Phật giáo Thừa thiên và Thượng
toạ Thích Thiện Siêu, đại diện Tỉnh hội Phật giáo Thừa thiên. Có
thể nói rằng, sau biến cố Đài Phát Thanh Huế, bản Tuyên Ngôn của quý
Thầy đã đánh thức sức mạnh tâm linh của người Phật tử tuổi trẻ như
chúng tôi thời đó biết đối diện và kết hợp giữa niềm tin chơn chất
từ bi và sự công bằng xã hội. Chúng tôi không những chỉ biết đến
chùa tu học theo tinh thần từ bi hỷ xã của đạo Phật mà còn biết phản
kháng trước những phi lý và bất công xã hội. Các danh tăng xứ Huế
một thời là biểu tượng cho tuổi trẻ Phật tử chúng tôi noi theo trong
quá trình tu học và phản kháng khi cần thiết đó.
Vào thời điểm những năm sáu mươi, tuy Thượng Tọa Thích Mật Hiển ở
vào niên kỷ 56 vào thời điểm 1963 nhưng danh xưng “Ôn Trúc Lâm” đầy
tôn kính đã bắt đầu phổ biến trong quần chúng Phật tử Huế đương thời.
Tôi không có cơ hội gần gũi Ôn Trúc Lâm trong thời kỳ Phật giáo đấu
tranh nhưng lại được thường xuyên nghe đến tên Ôn trong hàng giáo
phẩm cao cấp của chư tôn đức Phật giáo lãnh đạo cuộc đấu tranh. Thế
nhưng tôi lại được duyên lành gần Ôn sau ngày lực lượng “Trâu Điên”
dẹp bàn thờ năm 1966.
Tôi vẫn chưa quên những ngày “lánh nạn” nay xin tá túc chùa nầy, mai
xin tá túc chùa khác để khỏi bị phiền lụy với những thế lực đang a
dua với đợt tấn công dẹp bàn thờ. Giữa chuỗi ngày long đong ấy, lần
đầu tôi được viếng trực tiếp Thầy Thích Mật Hiển tại chùa Trúc Lâm
trong một cơ hội thật tình cờ. Chú Thành chở tôi bằng xe đạp giàn
từ Châu Lâm qua Trúc Lâm. Đến chùa, gặp lúc Thầy Trúc Lâm đang ghi
văn sớ cho một trai đàn giải oan. Thầy hỏi chú Thành:
- Nì, rứa chơ bộ áo lính “trellis” với đôi giày lính
bốt-đờ-sô viết cách răng đây hè?
Trong khi chú Thành đang còn trù trừ suy nghĩ thì tôi đã
nhanh nhẩu xen vào:
- Bạch ôn, thử ghi là “hành quân y nhất bộ” và “hành
quân hài nhất lõa” coi có được không ạ!
Thầy gật đầu cười hoan hỷ:
- Ừ, coi bộ viết rứa được đa!
Rồi Ôn nhướng mắt ngạc nhiên hỏi tôi:
- Con học chữ Nho khi mô rứa?
Tôi thưa:
- Dạ, con học với thầy Giáo Cương ở dưới làng và
mấy thấy ở Di Luân đường…
Thầy khen:
- Sáng dạ, giỏi hỉ!
Từ đó, thỉnh thoảng tôi lên thăm Thầy một mình. Tôi thích nhất là
được Thầy cho uống trà ướp hoa mộc trồng ở chùa. Trà mộc làm cho
người ta cảm thấy gần gũi với cuộc sống hiện thực xung quanh hơn là
hương ngát nhưng xa vời của trà sen. Tôi học ở Ôn Trúc Lâm thân
giáo nhiều hơn là ngôn giáo. Ôn không thuyết giảng dài dòng, nhưng
lời của Ôn thường ngắn mà rất rõ ràng minh bạch, đi thẳng ngay vào
sự việc chứ không minh họa quanh co.
Từ sau năm 1975, tôi không còn cơ hội gặp lại Thầy Thích Mật Hiển
nữa. Nhưng tâm ảnh của Thầy trong tôi vừa… chơn chất hiển hiện; vừa
ẩn mật xa xăm.
Cách đây 5 năm, khi tôi bắt đầu viết truyện dài
Tu Bụi (Tu Giữa Bụi Trần) thì hình ảnh “chơn chất hiển hiện
mà ấn mật xa xăm” ấy của Thầy Thích Mật Hiển đã giúp tôi nương tựa
vào ký ức của mình về Thầy mà xây dựng nên nhân vật Thiền Sư Trúc
Lâm. Dàn trãi trên 600 trang sách của tác phẩm, nhân vật nhà sư
Trúc Lâm thường xuất hiện bằng hình tượng cao viễn – có… không – như
huyền thoại. Nhưng định lực thâm diệu của nhà sư đã giúp hóa giải
cho người đời trong những cơn nguy khốn nhất.
Hôm nay, hương Vu Lan năm 2007 vẫn còn lãng đãng
trong nắng gió mùa Thu nơi xứ Cali nầy, tôi lắng lòng nhớ về 100 năm
kỷ niệm ngày sinh và cũng là húy nhật lần thứ 15 của Ôn Trúc Lâm –
Hoà Thượng Thích Mật Hiển. Từ phương xa, con xin đảnh lễ Thầy và
xin được nhớ lại ánh mắt ngày xưa của Thầy khi con viết về ánh mắt
của Thiền Sư Trúc Lâm trong truyện dài Tu Bụi: “Ánh mắt của nhà
sư trong như pha lê, sắc sảo như bảo kiếm và tràn đầy ánh sáng của
một buổi bình minh. Vẫn im lặng! Nhưng Trí Hải cảm thấy như người
đối diện đang nhìn xuyên suốt quá khứ và vị lai của mình qua ánh mắt…”
(Trang 22; bản in tại Mỹ. Trang 20; bản in tại Việt Nam.)
Nhớ thân giáo qua cách hành xử thân thương mà đầy
pháp uy của Ôn Trúc Lâm; nhớ ánh mắt trí tuệ của Thầy Mật Hiển là để
nhớ về một chặng đường gập ghềnh gần nửa thế kỷ của Dân tộc và Đạo
pháp còn ghi dấu ấn của Thầy cùng chư Tôn Đức để lại. Nếu 1963 là
một cuộc “pháp chiến chống ma vương” thì hơn 30 năm qua là một cuộc
“pháp chiến để tự tồn.” Quý Thầy đã xả bỏ báo thân về với chư Phật,
chư Bồ Tát như các Ngài Thích Đôn Hậu, Thích Trí Thủ, Thích Thiện
Siêu, Thích Mật Nguyện, Thích Mật Hiển… là những danh tăng. Danh
tăng không phải chỉ vì đạo cao đức trọng mà chính là vì sự dấn thân
hành đạo giúp đời. Các Ngài đã đem chính hùng lực và thân tâm của
mình ra làm bình phong ngăn những luồng gió chướng của cuộc thế đảo
điên. Đã có vô số lời ca ngợi, phê phán, bình phẩm, khen chê… từ
phía quần chúng chân tâm lẫn vọng tâm bày tỏ. Nhưng có một lời chưa
ai bày tỏ, đấy là Hoàn Cảnh Giả Định Rất Thực Tế (Hypothetical Truly
Scenarios) rằng, nếu tất cả quý Thầy không chọn đường Trung Đạo –
lối đi cốt tủy của đạo Phật – để đi theo biên kiến, dính mắc bên nầy
hay bên kia, thì đạo Phật Việt Nam có được hoằng hóa tương đối rộng
khắp và sống thực giữa cuộc thế đại chúng như ngày nay chăng? Hay
nếu quý Thầy khép kín theo kiểu “bế quan tỏa cảng” nguồn suối tâm
linh thì e rằng, Đạo Phật Việt Nam ngày nay cũng chỉ còn là dư vang
của những vị “thánh tăng” và những ngôi chùa cổ phong sương rêu phủ
dưới những cánh rừng ít có dấu chân người thường lai vãng. Và, nếu
quý Thầy không giữ tâm bồ đề kiên cố, thực hành hạnh nguyện Bồ tát
để thỏng tay vào chợ, “tu giữa bụi trần” mà độ thế thì đạo Phật Việt
Nam sẽ về đâu? Trong lúc suối nguồn Phật giáo thế giới vẫn
thường hằng trôi chảy thì riêng dòng Phật giáo Việt Nam với hàng
chục triệu tín đồ đang dốc tâm hành thiện và tu học trong từng
khoảnh khắc của thời gian giữa cuộc sống vô thường không có lý do và
không thể đứng lại chờ đợi ảo ảnh “một thắng lợi sau cùng” nào đó do
tha lực mang tới?
Như phương danh trong tên đạo của Ngài, Thầy
Thích Mật Hiển đã từng chuyên tu cả Mật tông, Thiền tông và Tịnh Độ
tông. Thầy đã đem cả cuộc đời Thầy để trừ tà hiển chánh với tất cả
nghĩa bóng và nghĩa đen để đẩy lùi vô minh của phường ác nhân và ma
quỷ. Trước cũng như sau cột mốc lịch sử 1975, Thầy đã coi quyền thế
như phấn thổ, tiếng tăm như phù vân để xua đi những danh từ hão
huyền bám vào cái tâm vọng động làm cho lòng người điên đảo. Thầy
dùng pháp lực để hóa giải những xung đột của cuộc sống; không phí
phạm tâm sức để dính mắc vào danh từ. Con đường hóa giải của Thầy
vẫn còn mang tinh thần chánh đạo của Pháp Thí và Vô Úy Thí Ba La Mật
cho những người Phật tử tiếp nối về sau.
Nhớ 100 năm ngày sinh của Ôn Trúc Lâm, tôi giữ
cho mình tâm ảnh một Rừng Trúc. Rừng Trúc với những cây trúc thường
xuyên chấp nhận thế nghiêng ngữa vật vờ để đương đầu với gió – kể cả
gió lành và gió chướng – nhưng không bao giờ nghiêng đổ sau khi cơn
gió đi qua. Rừng Trúc vẫn thường được ví von với Rừng Thiền. Căn
nhà Phật giáo Việt Nam nhất định không thể xây dựng và sơn son thếp
vàng bằng “kỳ nam danh mộc” hay bằng những phương tiện lệch đường
Trung Đạo phi Phật giáo do ai từ ngoài mang tới hiến tặng hay gán ép
cho ai cả. Xuất phát điểm và đồng thời cũng là tụ điểm cốt lõi nhất
của Phật giáo vẫn chỉ có thể là cái Tâm Chánh Định ngay trong lòng
mỗi người Phật tử và ở ngay trong khoảnh khắc hiện tại nầy. Đơn
giản thế thôi, nhưng đức Phật, chư Bồ Tát và chư Tổ đã liên tục mang
đi trong suốt hơn 2.500 năm qua để trao truyền lại cho chúng ta
trong thực tế hiện sinh, mà có khi vô tình, ta không thấy vì mãi mê
dõi mắt tìm kiếm tầm xa từ phía bên kia hay bên nọ; rồi quên bên
trong của chính nơi nầy. Vườn Đạo, ngày xưa khi đức Thế Tôn còn tại
thế là Vườn Nai (Lộc Uyển); sao hôm nay lại không thể là vườn Trúc
vốn thường hằng ẩn giữa tâm động và hiện trong tâm rỗng lặng của mỗi
con người?
Arizona, Mùa Vu Lan 2007
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/tamanhtruclam.htm