Lời tựa
Kính bạch giác linh Thầy,
Viết về cuộc đời Thầy với những dữ kiện người thật việc thật, thì
chỉ cần dựa vào tài liệu sẵn có. Nhưng nói lên được đức độ và công
hạnh của một bậc Tòng lâm Tông tượng, với 79 năm mang thân ngũ uẩn
trong đó hơn 60 năm thừa hành Phật sự, thì ngôn từ đã không còn đủ
khả năng diễn đạt. Nhưng dù sao, bằng tấm lòng của một đệ tử trong
Tông môn, muốn báo đáp thâm ân tác thành giới thân huệ mạng, dù chỉ
trong muôn một, con mạn phép sử dụng ngọn bút vụng về, vẽ lại chân
dung người Thầy vô cùng quý kính của chúng con. Ngưỡng mong Thầy từ
bi tha thứ cho những sai sót con có thể mắc phải trong bài viết nầy.
Và cung kính lạy Thầy, vì sự nghiệp Thượng cầu hạ hóa, sớm hồi nhập
Ta-bà, để muôn loài chúng sinh đều thấm nhuần ơn pháp vũ.
Nam mô từ Lâm Tế Chánh tông, tứ thập nhị thế, Thiền Lâm đường thượng,
húy thượng Thị hạ Khai, tự Hạnh Huệ, hiệu Đỗng Minh Tôn sư giác
linh thùy từ chứng giám!
THIỀN THẤT VIÊN GIÁC
Tháng 5 năm Bính Tuất (2006)
THÍCH THÔNG HUỆ
NÉN TÂM HƯƠNG DÂNG THẦY
(Tưởng niệm nhân ngày chung thất cố Hòa thượng Tuyên Luật sư thượng
Đỗng hạ Minh)
Năm 1982, Bổn sư của con - HT thượng Đỗng hạ Hải, Trụ trì Sắc tứ
Thiền Lâm tự Phan Rang - Viên tịch, trụ thế 63 năm. Ngày ấy, con chỉ
là một sa di mới nhập môn tại Tổ đình Thiền Lâm. Hầu hạ Bổn sư vỏn
vẹn hai năm, con như chú chim non mất mẹ khi Bổn sư qua đời. Mang
tâm trạng một trẻ mồ côi, con đảnh lễ Thầy, vị Sư bá trong tông môn,
không hiểu rõ số phận mình sẽ ra sao trong tương lai sắp đến.
May mắn cho chúng con biết dường nào, chính Thầy đã dang rộng vòng
tay, để chúng con được nương nhờ sự bảo bọc của Thầy. Bốn huynh đệ
chúng con, từ giờ phút thiêng liêng quỳ dưới chân Thầy để được làm
đệ tử Y Chỉ Sư, đã có một tổ ấm bình an và vững chãi. Ánh mắt hiền
hòa, nụ cười đầm ấm thân thương của Thầy xoa dịu biết mấy nỗi đau
côi cút của chúng con. Thế là từ nay, huynh đệ chúng con đã được cội
tùng Thầy che chở, được tình thương Thầy ban bố, được ơn đức Thầy
thấm nhuần để có thể tiến bước trên đường tu.
Những lần thầy từ Nha Trang về Tổ đình Thiền Lâm, đối với con là
những ngày hạnh phúc, vì được hầu cận Thầy, nghe lời Thầy chỉ dạy
việc tu hành, về oai nghi tế hạnh mà người tu cần gìn giữ. Thầy ít
khi nói chuyện gì khác ngoài vấn đề tu học. Câu thường dạy của Thầy
là “Còn trẻ học chết bỏ, trưởng thành làm việc chết bỏ, lớn tuổi
tu chết bỏ”.
Có dịp gần gũi, hàng đệ tử chúng con cảm mộ nhiều đức tính quý báu
nơi Thầy. Thầy không nói nhiều, nhưng những gì Thầy dạy, Thầy đã
thực hiện trước tiên. Nổi bật là sự mộc mạc giản dị, từ tiện nghi
vật chất đến lối sống hàng ngày, từ lời lẽ nói năng đến cách giao
tiếp. Người đã từng là Giám đốc hãng Vị trai lá Bồ đề, lo sinh kế
cho biết bao Tăng Ni sinh, trong tay từng có rất nhiều tiền bạc, thế
mà trong phòng riêng chẳng có gì đáng giá: chiếc bàn gỗ thường, nơi
Thầy làm việc hàng ngày; cái tủ thờ chỉ đặt một chữ “Xả”;
chiếc võng bện bằng xơ dừa, trên tường nơi hai đầu võng có hai câu
“Thường tinh tấn” và “Hằng nhẫn nhục” như những lời
nhắc nhở thường xuyên. Sự giản dị biểu hiện cả trong di chúc, Thầy
dặn dò làm lễ tang đơn giản trong vòng 36 tiếng, không xây tháp,
dành tịnh tài để ấn tống kinh sách. Có thể nói rằng, đời Thầy lấy
việc đào tạo tăng tài làm Phật sự. Mọi hoạt động của Thầy, từ việc
giảng dạy đến dịch thuật, từ việc làm kinh tế đến giữ những chức vụ
quan trọng trong Giáo hội, Thầy đều nhằm mục đích bồi dưỡng cho lực
lượng kế thừa!
Thầy còn là người rất trọng tình trọng nghĩa. Những lần hầu thăm
Thầy, con hay được nghe Thầy nhắc đến Sư Ông Thiền Lâm với lòng hiếu
kính và biết ơn vô hạn. Xuất gia tại Tổ đình Thiên Hưng, thờ HT Trí
Thắng làm Bổn sư, sau đó Thầy được HT đưa về Tổ đình Thiền Lâm làm
Trưởng tử của Sư Ông Thiền Lâm. Thầy luôn tinh tấn tu hành, làm tròn
phận sự, nên được Sư Ông giao chức Tri khố và Thủ tọa. Trong thời
gian Sư Ông mang trọng bệnh, Thầy đã thay mặt Sư Ông điều hành mọi
việc chu toàn. Sau nầy, dù đang ở đâu, Thầy vẫn luôn để tâm đến sự
phát triển của tông môn, đến việc tu học của các môn đệ trong nước
và hải ngoại, cả đến sức khỏe và đời sống của những Phật tử ngày xưa
thường lui tới Tổ đình, khi Thầy còn là một tu sĩ trẻ. Những năm gần
đây, sức khỏe Thầy không được tốt, lại phải đảm trách nhiều Phật sự
lớn, nên Thầy ít về Phan Rang. Tuy vậy, thỉnh thoảng Thầy lại gọi
con lên, chỉ đạo những việc cần thiết trong tông môn, giao nhiệm vụ
Thủ quỹ khi trùng tu lại Tổ đình. Điều này làm con cảm nhận rõ rằng,
dù hiện tại Thầy là vị Cha lành của Tăng Ni Phật tử khắp nơi, nhưng
trong lòng Thầy vẫn dành một vị trí đầm ấm thân thương cho cội nguồn
Thiền lâm tự!
Sau đây, xin trích nguyên văn bài thơ do Thầy trước tác, nói lên tấm
lòng quý mến của Thầy đối với người pháp đệ đồng Sư:
CẢM NIỆM
Thầy Đỗng - Hải, người em tôi quý mến,
Kể từ khi Thầy đến chốn Thiền Lâm,
Thầy xuất gia với tất cả thiện tâm,
Tránh ngũ trược âm thầm cầu giải thoát.
Thầy không phải trong giới người mẫn đạt,
Thầy không ưa hoạt bát để hơn ai,
Thầy cần cù tu học suốt đêm ngày,
Thầy coi ngó từ củ khoai buồng chuối.
Sống giản dị với tương dưa rau muối,
Không đua đòi theo đuổi cảnh phồn hoa.
Gặp ăn ngon mặc đẹp Thầy tránh xa,
Mãi lủi thủi trong chùa với vườn rẫy.
Thầy ý thức ngũ trần là cạm bẫy,
Nên luôn luôn rún rẩy lúc đương đầu.
Tôi biết Thầy tính đó mãi từ lâu,
Tôi tin chắc trước sau Thầy như một.
Tôi đi học vào năm năm - mươi - mốt,
Công việc chùa giao hết nốt cho Thầy,
Thầy trông nom quán xuyến đến hôm nay,
Từ bếp núc, vườn soi tới bàn Phật.
Đâu vào đó thỉ chung đều tươm tất,
Công đức Thầy quả thật tôi phải khen.
Đối với tôi Thầy xứng đáng người em,
Với môn đệ là người anh đáng kính.
Một đức tính hiếm có của Thầy mà chúng con suốt đời phải noi theo,
là tinh thần hỷ xả. Chỉ nhìn vào khuôn mặt vui tươi và nụ cười mỉm
của Thầy, những người mới tiếp xúc lần đầu đã thấy Thầy gần gũi biết
bao. Lời Thầy dạy sinh động dí dỏm, lúc tiếp xúc nói chuyện thỉnh
thoảng thêm một tràng cười giòn giã sảng khoái, nên dù nội dung câu
chuyện có nghiêm túc khô khan đến mấy vẫn làm người nghe cảm thấy
mát lòng. Càng về già, Thầy càng bao dung tha thứ mọi lỗi lầm của
người, không hề giận ai, chê trách ai. Đặc biệt, Thầy không bao giờ
phân biệt đối xử theo tông phái hoặc xuất thân; ai có tâm cầu thị,
nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu hành đều được Thầy thương mến và
hết lòng dạy dỗ. Thầy thường nhắc nhở: “Pháp Phật là những phương
thuốc điều trị tâm bệnh cho chúng sanh. Tùy bệnh mà dùng thuốc cho
đúng. Thuốc Tây y hay Đông y đều dùng được, miễn nó lành bệnh là
thuốc hay rồi”. Bản thân Thầy tu theo Luật tông, nhưng khi con
xin Thầy được tùng học lớp tu Thiền tại Thiền viện Thường Chiếu
(1986-1991)(*), Thầy đã vô cùng hoan hỷ hứa khả. Do tình thân lâu
nay giữa Thầy và HT Thường Chiếu, Thầy viết thư giới thiệu cho con,
bảo trình lên HT. Nhờ thư ấy, HT Thường Chiếu liền cho con nhập
chúng tu học, và thâu nhận con làm đệ tử Y Chỉ Sư như sở nguyện, mở
ra một trang mới cho đời tu của con từ lúc ấy cho đến bây giờ.
Ngày từ Thường Chiếu về Nha Trang, con đến đảnh lễ Thầy. Thầy rất
hoan hỷ và lại ban cho con những lời khuyên quý giá về việc tu hành
và giảng dạy, đặc biệt chú trọng sự hài hòa giữa các tông phái. Đời
Thầy là cả một kho kinh nghiệm sống, Thầy đã sử dụng kinh nghiệm tự
thân để dắt dẫn chúng con trên bước đường hoằng pháp lợi sanh. Những
quyển sách con viết, trước khi ra mắt người đọc, con đều trình lên
Thầy xem qua. Bằng tấm lòng người đi trước hướng dẫn đàn hậu học,
Thầy đọc rất kỹ và đóng góp cho con nhiều ý kiến bổ ích, để con rút
ra những ưu khuyết điểm làm kinh nghiệm cho những lần viết sau. Lúc
nào đến thăm Thầy, con cũng cảm nhận ở Thầy một tình thương bao la,
luôn nâng đỡ sách tấn và sửa chữa lỗi lầm cho đàn hậu tấn. Nhiều
người mang tâm trạng chán nản nặng nề do những chướng duyên trên
đường đời và đường đạo, nhưng chỉ cần vài câu nói đơn giản của Thầy
người ấy đã thấy thanh thản, tự tin ở chính mình và lại vững tiến
trên bước đường tu học. Thầy thường nói, Thầy chịu ơn giáo dưỡng của
Sư Ông và của rất nhiều bậc tôn túc khác, nên Thầy phải đem hết sức
lực và khả năng của mình để phục vụ tất cả mọi người. Khánh Hòa là
nơi đất lành chim đậu, Thầy có duyên gắn bó sự nghiệp đào tạo của
mình ở đây. Nhiều vị Tôn túc Tăng Ni hiện đảm nhiệm những chức vụ
quan trọng trong các Tỉnh Thành Giáo hội đã từng qua những lớp đào
tạo của Thầy, được Thầy đối xử bằng một tình thương bình đẳng.
Từ lúc khoác y Nam tông, Thầy bắt đầu nghiên cứu, dịch thuật chuyên
sâu vào Luật tạng. Bản thânThầy là tấm gương sáng về nếp sống mẫu
mực, giờ giấc đúng đắn, giới luật nghiêm cẩn. Thầy thường dạy
“Giờ nào việc nấy, chỗ nào vật ấy”, “Căn bản của người xuất gia là
đừng để vướng nhiễm ngũ dục. Đối ngũ dục có thể làm thước đo đạo lực
của người tu”. Một câu nói của Thầy được xem là câu nói thời
danh: “Cảnh khổ là nấc thang của bậc anh tài, là kho tàng của
người hiểu biết, là hố thẳm của kẻ ươn hèn”. Chính vì nếp sống
mẫu mực ấy mà Thầy được tôn là Hòa thượng Luật sư, và được suy tôn
làm Tuyên Luật sư cho nhiều Đại giới đàn. Những năm gần đây, Thầy
lại giữ trọng trách Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt
Nam, phụ trách Ban phiên dịch Hán tạng. Với cương vị nầy, Thầy ra
sức đào tạo bồi dưỡng kinh nghiệm dịch thuật cho các thành viên
trong Ban, hết lòng thương yêu tiếp dẫn đàn hậu tấn khiến mọi người
đều được lợi lạc.
Thuận theo lẽ vô thường, có sinh ắt phải có già - bệnh - chết. Mười
lăm năm mắc bệnh mãn tính, nhưng không ai thấy căn bệnh đã ảnh hưởng
đến sức khỏe của Thầy thế nào, vì Thầy vẫn làm việc hăng say, nụ
cười vẫn tươi tắn, giờ giấc sinh hoạt vẫn đều đặn. Cho đến khi căn
bệnh ung thư quái ác xâm nhập lúc nào nay lộ diện, sức khỏe Thầy mới
suy sụp nhanh chóng.
Chỉ trong hai tháng, kể từ lúc phát hiện triệu chứng đến khi Thầy
viên tịch; nhưng đó là cả một quá trình dài đăng đẳng đối với người
phải đương đầu với chứng bệnh ngặt nghèo. Người bệnh, thông thường
phải chịu nhiều đau đớn về thể xác, căng thẳng về tinh thần, lo sợ
cho tương lai, tiếc nuối cho những công việc còn dang dỡ… Nhất là
những người đang mang trọng trách như Thầy - công trình dịch thuật
Luật tạng và Pháp tạng đồ sộ chưa hoàn thành, thì có phải nội tâm
Thầy là cả một trường tranh đấu? Nhưng thật sự không như thế! Chúng
con lúc nào cũng thấy rõ sự bình ổn trong thân tâm Thầy, nụ cười
Thầy vẫn nở trên môi khi nghe kể chuyện vui. Định lực nào giúp Thầy
khống chế được cơn đau của ung thư trong giai đoạn cuối? Trí tuệ nào
soi sáng tâm Thầy để chuẩn bị bước qua bờ sinh tử một cách an nhiên?
Chỉ có định huệ của một bậc chân tu hiện ra nơi đời tiếp Tăng độ
chúng mới có thể tự tại trước vô thường và cuối cùng, nằm trong tư
thế kiết tường viên tịch!
Sự ra đi nhanh chóng của Thầy làm chấn động hàng tứ chúng trong và
ngoài nước. Môn đồ pháp quyến chúng con mất một cội tùng già từ lâu
là chỗ nương tựa vững chắc. Tăng Ni Phật tử mất một tấm gương sáng
ngời về đức độ và tài năng. Giáo hội mất một cánh tay đắc lực trong
sự nghiệp đào tạo tăng tài. Ban phiên dịch Hán tạng mất một vị Thầy
nhiều kinh nghiệm và tâm huyết. Nỗi đau nào bằng nỗi mất mát không
gì thay thế hôm nay?…
… Mà thật ra, Thầy đã đi về đâu nhỉ?
Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ.
Pháp thân thường trụ không đến không đi, thì có gì là sinh diệt còn
mất? Cho nên, Thầy đang hiện diện ở mọi nơi. Thầy có mặt trong từng
chiếc lá cánh hoa, trong từng đám mây tia nắng. Thầy có mặt trong
mỗi chúng con, từng giòng máu hơi thở luân lưu trong cơ thể mỗi
người. Thân chúng con là sự tiếp nối, kế thừa của thân Thầy; và tâm
chúng con, khi tĩnh lặng mà thường biết, vẫn cùng tâm Thầy tương
ưng, có bao giờ vắng thiếu? Vì thế, Thầy ơi, mỗi ý nghĩ lời nói của
chúng con đều có Thầy chứng minh, mỗi Phật sự chúng con làm đều có
Thầy hỗ trợ, mỗi bước đi trên lộ trình tâm linh nhiều chông gai thử
thách, chúng con đều có Thầy động viên khích lệ và kịp thời uốn nắn
những sai lầm. Và dưới sự hiện diện chứng minh miên viễn của Thầy,
chúng con nguyện sẽ tự đứng lên và bước đi bằng đôi chân của chính
mình, luôn noi gương Thầy “Học, tu và làm việc chết bỏ” để
không phụ công ơn cao cả của Thầy. Về sau, bất cứ sự thành công nào
của chúng con dù nhỏ hay lớn, cũng đều có phần đóng góp tích cực từ
Thầy - phải thế không thưa Thầy, vị Thầy vô cùng quý kính của chúng
con?!
Thiền thất Viên Giác
Tháng 6 năm Ất dậu (2005)
TÒNG LÂM TÔNG TƯỢNG
(Tưởng niệm nhân ngày Tiểu Tường
cố HT Luật sư thượng Đỗng hạ Minh)
I- NHỮNG NGÀY THƠ ẤU.
Năm Đinh Mão (1927), nơi một làng quê nghèo của huyện An Nhơn tỉnh
Bình Định, có một cậu bé ra đời.
Cha mẹ đặt tên là Đỗ Châu Lân, nhưng ở nhà thường gọi là Cu Quất.
Cậu là người con thứ tư trong gia đình có năm người con (hai trai ba
gái), cũng được xem là con trai út. Nhà nghèo, cha mất sớm, mẹ chú
phải tảo tần nuôi mấy chị em. Cậu bé thông minh lại hiếu học, nên
người mẹ dù vất vả cũng cho con cắp sách đến trường. Không phụ lòng
thân mẫu, cậu đỗ bằng Yếu lược năm mới 11 tuổi. Đây là sự kiện trọng
đại, không chỉ đối với gia đình mà còn với cả làng xã thời ấy.
Truyền thống nhiều đời tin sâu Tam Bảo, trong dòng họ có nhiều vị
xuất gia, nên từ nhỏ cậu thường được theo mẹ đến chùa tụng kinh lạy
Phật. Cậu đặc biệt kính trọng Hòa thượng (HT) Trí Thắng, người chú
đã được phong chức Tăng Cang, đang tu tại chùa Khánh Vân - Bình
Định, do Đại sư Chơn Quang trụ trì.
Năm cậu 12 tuổi, anh Bốn của cậu (nay là HT Thích Đỗng Quán) xuất
gia tại chùa Khánh Vân. Chủng tử Phật pháp sâu dày, cậu bé Quất từ
lâu đã muốn vào ở chùa, thấy thân quen từ lọ tương đến cái chuông
cái mõ. Bây giờ người anh thương yêu của cậu đã làm tiểu điệu, cậu
càng mong được đi tu. Nhà sinh hai trai, lẽ ra phải ít nhất một
người lập gia đình để có con nối dõi. Bất hiếu hữu vi tam, vô hậu
vi đại, trong ba tội bất hiếu, không người nối dõi tông đường là
tội nặng nhất. Nhưng bà mẹ là một Phật tử thuần thành, thấy con còn
bé mà đã có ý chí xuất trần, nên hoan hỉ gửi đứa con trai còn lại
vào nương nhờ cửa Phật. Thế là từ tuổi 13, cậu bé Quất trở thành chú
tiểu, làm quen với muối dưa, tập sống đời thiểu dục tri túc, theo HT
Trí Thắng học oai nghi tế hạnh. Cuộc đời chú gắn bó với thiền môn từ
đó.
Một năm sau, HT Trí Thắng về Phan Rang, trụ trì tại chùa Thiên Hưng.
Chú tiểu 14 tuổi cũng quảy gói theo Thầy, sớm tối không rời, chuyên
cần công phu bái sám. HT biết chú là pháp khí nên đặc biệt giáo
dưỡng chú chu đáo, có phần nghiêm khắc, cốt đào luyện chú sớm nên
người. Ngọc bất trác bất thành khí, viên ngọc quý phải nhờ
tay người thợ tài hoa gọt dũa mới thành món trang sức hiếm có. Chú
tiểu như tờ giấy trắng, được bàn tay họa sư Trí Thắng vẽ những nét
đầu tiên điêu luyện, khởi đầu cho sự nghiệp vẻ vang sau nầy.
Năm 16 tuổi, chú thọ Sa-di tại Đại giới đàn Long Khánh. Một cơ duyên
lạ đến với chú: Đệ tử lớn của HT Trí Thắng là thầy Huyền Tân từ Huế
về trụ trì Sắc tứ Thiền Lâm tự Phan Rang. HT đưa chú Sa-di mới thọ
giới đến đảnh lễ thầy Huyền Tân, xin làm đệ tử. Từ hôm ấy, chú gắn
bó cùng Sư phụ Huyền Tân nơi Tổ đình Thiền Lâm, và tôn HT Trí Thắng
làm Sư ông.
II- THỌ ĐẠI GIỚI.
Bản tính chăm chỉ cẩn thận, luôn chu toàn mọi việc được phân công,
thêm cần cù chịu khó tu học, chú Sa-di trẻ được Sư phụ Huyền Tân
thương mến. Mới 19 tuổi, chú được Sư phụ trình lên Hội đồng Thập sư
Đại giới đàn chùa Thiên Đức, xin thêm 1 tuổi cho đủ tuổi thọ giới Cụ
túc. Thế là, dưới sự chứng minh của Quốc sư Phước Huệ chùa Thập
Tháp, HT Đàn đầu là Ngài Huệ Chiếu, tân Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh đầy
đủ giới thể, giới tướng trang nghiêm, nhận lãnh trách nhiệm tác
Như-Lai sứ hành Như-Lai sự. Thầy chính thức nối dòng Lâm-Tế
Chúc-Thánh, đời thứ 42, một dòng Thiền do Thiền sư Minh Hải khai
sáng, nối tiếp truyền thừa đã 400 năm với sự nghiệp rạng rỡ, trong
đó viên ngọc sáng nhất là HT Thích Quảng Đức cùng trái tim bất diệt.
Từ đó, thầy Đỗng là cánh tay đắc lực của Sư phụ Huyền Tân, lần lượt
được Sư phụ giao nhiệm vụ Thị giả rồi Thủ khố, Thủ tọa. Trong thôn
Đắc Nhơn, mọi người đều tôn xưng Thầy là “Anh Thủ”. Danh xưng nầy
theo Thầy mãi về sau; khi Thầy làm Thủ chúng ở Tỉnh hội Phật giáo
Phan Rang, Nha Trang và Phật học viện Trung phần, chỉ thay bằng
“Thầy Thủ” hay “Ông Thủ”.
Thời gian mười năm chịu ơn giáo dưỡng của Bổn sư tại Tổ đình Thiền
Lâm (1947-1957), Thầy đã trang bị đầy đủ tư lương cho bước đường
hành đạo về sau, theo tinh thần “Tu Bồ-tát đạo hành Bồ-tát hạnh”.
Ngoài hai thời khóa tụng và bộ kinh Tam Bảo, Thầy còn học thêm các
kinh Địa Tạng, Thủy Sám, Tứ Thập Nhị Chương, Lăng Nghiêm trực chỉ…
toàn bằng chữ Hán. Tùng học tại Tăng Học Đường Nam phần Trung Việt
(Nha Trang) trong 4 năm, Thầy lại được Ban Giám đốc Học đường (bấy
giờ là HT Trí Thắng và HT Huyền Tân) cử vào Sài Gòn học các ngành
nghề: Điều dưỡng, lái xe, tốc ký, bào chế dược phẩm và chế biến hóa
chất. Một lần nữa chứng tỏ trí thông minh hơn người, Thầy tốt nghiệp
cả 6 bằng với điểm số rất cao, đặc biệt đậu thủ khoa ở hai ngành
dược phẩm và hóa chất. Sau đó Thầy ra Huế tham học với các Ngài Đôn
Hậu, Thiện Siêu, Trí Quang để hoàn tất chương trình Đại học Phật
giáo. Như thế là, mười năm miệt mài đèn sách, vừa học tập vừa tu
hành, vừa nghiên tầm Phật học vừa rèn luyện nghề nghiệp thế gian,
chồi non xanh mượt ngày nào đã trở thành một cây cao tươi tốt, hứa
hẹn sẽ tặng cho đời những bông hoa thơm ngát và những quả chín ngọt
ngào. Cây được vun trồng tưới tẩm tại Tổ đình Thiền Lâm của Tông
môn, nhưng hương thơm của hoa và vị ngọt của quả xin bình đẳng dâng
hiến cho bốn phương tám hướng!
Năm 1957, bằng số vốn Phật học và thế học tương đối hoàn chỉnh, Thầy
trở về chùa Long Sơn - Nha Trang, bắt đầu công cuộc hành đạo dưới
nhiều hình thức: Vừa là nhà kinh tế tài hoa của Phật giáo, vừa là
nhà mô phạm mẫu mực của các Tăng Ni sinh, là trụ cột đắc lực của
Tỉnh hội Khánh Hòa, lại là dịch giả các kinh, luật Hán tạng. Ở lĩnh
vực nào, với tài trí xuất cách, với đạo hạnh tỏa sáng, với nhiệt
tình và ý chí kiên định, Thầy đều là đầu tàu gương mẫu. Lúc nầy,
thầy Đỗng vừa tròn 30 tuổi.
III- KINH TẾ TỰ TÚC.
Phật giáo phát xuất từ hiện thực sinh động của vũ trụ vạn loại, và
trở lại phục vụ cho cuộc sống sinh động ấy. Bằng tinh thần nhập thế
của Phật giáo Bắc truyền, tinh thần “Một ngày không làm một ngày
không ăn” của Tổ sư Thiền tông Bá Trượng, việc làm kinh tế tự
túc cũng được xem như một pháp môn hành trì. Mặt khác, trong công
cuộc đào tạo tăng tài - từ thuở nhỏ còn là tân Tỳ kheo đến lúc
trưởng thành trên đường đạo, chưa kể đến tâm sức trí lực của chư tôn
đức, chỉ nói về tài lực, cũng đã là vấn đề nan giải. Muốn thực hiện
tốt công tác trọng đại nầy, không thể chỉ nhờ sự hỷ cúng của đàn-na
tín thí vốn không đều đặn và kịp thời, mà cần có nguồn kinh phí
tương đối dồi dào và ổn định. Nhận thức rõ điều nầy, chư vị Tôn túc
trong Giáo hội đã cùng họp bàn, cân nhắc và cuối cùng mạnh dạn vạch
ra một hướng đi mới: Xây dựng một mô hình kinh tế tự túc chủ
động, quy mô và bền vững. Thật ra, mô hình nầy đã được thực hiện
khá thành công ở Nhật Bản, Hàn Quốc vào những thập niên cuối của thế
kỷ 20; nhưng trong giai đoạn giữa thế kỷ ấy tại Việt Nam, có ý tưởng
táo bạo như thế, quả không phải là chuyện thường.
Năm 1957, một cơ sở sản xuất nước tương (xì-dầu) ra đời tại Nha
Trang, mang tên “Hãng Vị Trai Lá Bồ Đề”. Giám đốc hãng kiêm Trưởng
ban Bào chế là “Thầy Thủ” Thích Đỗng Minh. Với tài trí và nhiệt tình
của tuổi trẻ, lại hết mực thanh cao, Thầy Thủ đã điều khiển guồng
máy kinh tế cho Giáo hội thành công ngoài mong đợi. Chỉ trong ba
năm, cơ sở đã lập thêm hai chi nhánh ở chùa Giác Sanh (Sài Gòn) và
Từ Đàm (Huế). Trong thời gian này, hãng xì-dầu Con Mèo của một người
Hoa cũng rất nổi tiếng. Chủ hãng nhận ra đối thủ cạnh tranh đáng gờm
của mình, đến tận nơi thương lượng cùng quý Thầy, đề nghị mua lại cơ
sở với giá thật hậu hĩnh. Nhiều vị tán đồng vì thấy lợi ích trước
mắt là quá lớn, chỉ riêng Thầy cùng HT Thiện Minh không chấp thuận,
vì tiên đoán rằng tương lai tốt đẹp của cơ sở mình. Thời gian sau
cho thấy quyết định của hai Thầy là đúng đắn.
Ngoài sản xuất nước tương, Thầy Thủ còn chỉ đạo việc chế biến
xà-phòng, thuốc tẩy, làm nhang và đèn cầy. Vừa làm vừa học vừa dạy
nghề cho Tăng ni sinh, nhiều lần thất bại trong thí nghiệm được xem
là tiền đề cho những thành công rực rỡ về sau, từng bước Thầy đã làm
cho thương hiệu “Lá Bồ Đề” có chỗ đứng vững chắc trong thị trường.
Cơ sở đã ký nhiều hợp đồng với cơ quan nhà nước, cung cấp hàng vạn
tấn xà-phòng, nước chấm, đậu khuôn…, sản xuất meo nấm và nấm rơm,
rượu 900 dùng trong công nghiệp. Tiếng lành đồn xa, nhiều phái đoàn
đã đến tham quan hoặc tìm đối tác, trong đó có Ngài Chủ tịch nước
Cộng Hòa Nhân Dân Lào và phái đoàn hóa chất Hà Nội - Hải Phòng. Tiến
sĩ Hoán, trưởng đoàn hóa chất, ngạc nhiên về kiến thức khoa học sâu
rộng của vị tu sĩ bề ngoài có vẻ chân chất giản dị. Ông muốn thử tài
Thầy nên đề nghị Thầy chế biến cát lồi tại chỗ. Không có ý khoe tài,
nhưng lúc cần cũng phải cho người biết khả năng, Thầy thực hiện thao
tác một cách thành thạo trước các nhà khoa học trong đoàn, và cuộc
thử nghiệm được hoàn thành tốt đẹp. Tiến sĩ Hoán vô cùng kính phục,
gợi ý cùng Thầy nên đưa cơ sở sản xuất lên Đại xí nghiệp, và hứa sẽ
làm cố vấn khoa học cho cơ sở tương lai. Rất tiếc là nhân duyên chưa
hội đủ, Tiến sĩ từ trần sau đó vài năm và hãng Vị trai cũng giải
thể, sau 20 năm hoạt động (1957-1977).
Trong thời kỳ kinh tế tự túc, nhờ HT Trí Thủ và HT Thiện Hòa tin
tưởng cho phép, Thầy được quyền sử dụng nguồn tài chánh để làm nhiều
việc lớn cho các Phật học viện (PHV). Hoạt động kinh tế là hoạt động
tích lũy để làm giàu, nhưng riêng Thầy, bằng chánh mạng, chánh
nghiệp, đã tích lũy tài sản một cách lương thiện và sử dụng tài sản
ấy cho tập thể Tăng già, chứ không một mảy may tơ hào cho cá nhân.
Trong tay có rất nhiều của cải tự do thu xuất, thế mà trong ngần ấy
năm, Thầy luôn giữ đúng phẩm chất đạo đức của một người tu chân
chính. Cuộc sống của Thầy lúc nào cũng đơn giản trong phong cách,
đạm bạc trong ăn uống, cần kiệm trong y phục. Đơn giản cần kiệm đến
độ trong phòng riêng không có vật gì đáng giá, dùng một đôi dép
trong suốt hơn 30 năm trường!
Một lần nọ, đại diện một hãng mì ăn liền của người Hoa đến liên hệ
với Thầy, xin dùng nhãn hiệu “Lá Bồ Đề” và trả tiền bản quyền. Thầy
đã trả lời với vị Giám đốc hãng: “Chắc ông cũng là con nhà Phật.
Ông đem gieo rắc Bồ-đề là tốt rồi, vậy tôi không lấy tiền gì hết”.
Thầy chấp nhận cho sử dụng bản quyền, và thương hiệu “Mì ăn liền
Lá Bồ Đề” đã một thời rất nổi tiếng. Các vị làm kinh tế đều biết,
một thương hiệu có uy tín được chủ nhân của nó bảo vệ như thế nào.
Vậy mà, đối với người không quen biết lại khác quốc tịch, nhưng vì
là Phật tử, nên Thầy sẵn sàng biếu không một nhãn hiệu đã cầu chứng,
chỉ với mục đích duy nhất là để “gieo rắc Bồ-đề”!
Một vị Thượng tọa đã viết về Thầy: “Có ý tưởng thông thoáng về
kinh tế tự túc trong thiền môn đã là chuyện khó, thực hiện ý tưởng
ấy càng khó, và thành công trong việc thực hiện càng là việc khó
muôn phần. Vậy mà Thầy đã thực hiện thành công, lại thành công rực
rỡ. Một nhân tài kinh tế của Phật giáo như Thầy quả là ít có”.
Nhân tài kinh tế như thế đã ít có, sử dụng tài ấy để phục vụ lợi ích
chung, còn cuộc sống riêng mình thì luôn giản đơn đạm bạc, sự thanh
cao trong sáng ấy chẳng phải tầm thường!
IV- SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO.
Theo phương châm “Tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức”, suốt đời
Thầy xem việc giáo dục và đào tạo Tăng tài là bổn phận chính. Dù có
lúc do hoàn cảnh, tạm thời phải bôn ba nhiều nơi học hỏi và làm các
nghề thế gian, nhưng bản thân Thầy luôn là nhà giáo dục. Ngay khi
nhận trách nhiệm quản lý các cơ sở sản xuất, Thầy vẫn đồng thời dạy
dỗ Tăng Ni sinh; và những lợi tức trong kinh tế cũng chỉ dành trang
trải phí tổn cho việc giáo dục đào tạo.
Năm 1957, Tăng học đường Nha Trang và Phật học đường Báo Quốc Huế
sáp nhập thành PHV Trung Phần (còn gọi là PHV Hải Đức Nha Trang).
Đại Đức 30 tuổi Thích Đỗng Minh được công cử giữ trách nhiệm Giáo
thọ chính thức, bắt đầu sự nghiệp hoằng truyền chánh pháp. Một kỷ
niệm trong đời dạy học, Thầy không quên và chắc nhiều người chứng
kiến vẫn còn nhớ mãi: Đó là lần thuyết giảng của Thầy tại làng An
Truyền huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế. Phái đoàn được cung
nghinh từ bến đò Bến Ngự bởi hàng trăm đoàn sinh Gia đình Phật tử
cùng các cư sĩ quỳ mọp hai bên đường. Sự tiếp đón trang trọng nầy
làm vị Giáo thọ trẻ tuổi Đỗng Minh xúc động. Tự nhiên dòng nước mắt
lăn dài trên má. Thầy vội lau nhanh, nhưng nhiều Phật tử đoàn sinh
đã nhìn thấy. Ngay từ buổi đầu đã có sự đồng cảm giữa Thầy và trò,
nhất là sau khi Thầy lên pháp tòa sau lời giới thiệu của HT Thiện
Siêu, dùng ánh mắt từ hòa nhìn khắp lượt thính chúng. Buổi giảng hôm
ấy thành công không ngờ, và ghi mãi dấu ấn khó phai cho người trong
cuộc.
Thật ra từ năm 18 tuổi, Thầy đã có nhiều dịp làm quen với công tác
giảng dạy, vừa học tập kinh nghiệm của các vị tôn túc vừa tự mình
thực hiện. Thỉnh thoảng, các Ngài Đôn Hậu, Trí Thủ từ Huế vào Phang
Rang, đến Tổ đình Thiền Lâm thăm Ôn Huyền Tân. Thầy làm thị giả đứng
hầu Bổn sư, nghe các Ngài giới thiệu nhau: Đây là Ngài Giảng sư,
đây là Ngài Giám luật… Không hiểu sao Thầy lại thích danh xưng
“Giám Luật”, như có túc duyên với Luật học từ bao đời. Từ đó, Thầy
chú tâm nghiên cứu và giảng dạy về Luật học. Chủ trương dạy dỗ đồ
chúng bằng khẩu giáo và cả thân giáo, Thầy rất nghiêm cẩn giữ gìn
giới luật trong suốt cuộc đời.
Một điểm đặc biệt của Thầy từ lúc trẻ, là nghiêm khắc với chính
mình, nhưng từ bi độ lượng với người khác. Nhiều học tăng mới tiếp
xúc với Thầy lần đầu, thấy Thầy có vẻ xa cách lạnh lùng, xưng với
hỗn danh “Kỷ luật sắt”. Nhưng thật ra, đàng sau vẻ lạnh lùng
ấy là cả một biển tình thương mênh mông ấm áp. Nhiều Tăng Ni sinh ở
PHV Hải Đức và Ni viện Diệu Quang vẫn nhớ phẩm chất sư phạm của Thầy
là tinh thần khôi hài, cách triển khai bài giảng rất linh hoạt, cách
sử dụng từ ngữ thật giản dị có pha chút dí dỏm, khiến những bài Luật
học khô khan trở thành dễ thuộc khó quên, những giờ lên lớp bó buộc
trở nên hào hứng sinh động, đầy ắp tiếng cười sảng khoái. Hình ảnh
Thầy cặm cụi bao tập, viết nhãn vở cho học trò - chỉ thấy những thầy
giáo làng ngày xưa đối với lớp vỡ lòng, nay gặp lại nơi một vị tôn
túc - thật là hình ảnh thân thương hiếm có. Thầy san sẻ cho mọi học
trò của Thầy vị ngọt của giáo pháp và tình cảm Sư-Đệ thắm thiết, mà
không cần sự đền đáp của bất cứ ai.
Phật Đản năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm, ra lệnh triệt hạ cờ
Phật giáo. Mùa pháp nạn bắt đầu. Đại đức Thích Đỗng Minh, với tư
cách thành viên Ủy ban Bảo vệ Phật giáo tại Nha Trang, cùng Tăng Ni
Phật tử tranh đấu chống chính sách kỳ thị tôn giáo và đàn áp Phật
giáo đồ, theo phương châm bất bạo động. Ngọn đuốc thiêng Quảng Đức
dẫn đầu ngọn lửa vị pháp thiêu thân, thắp sáng cả năm châu, đánh
thức lương tri của toàn thế giới. Một triều đại tưởng chừng hùng
mạnh bền lâu, đã bị sụp đổ vì không hợp lòng dân, không thuận lý
đạo. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra đời. Viện Hóa Đạo chỉ
định Thầy làm Phó Trưởng miền Khuông Việt gồm các tỉnh Cao nguyên
Trung phần, sau đó làm Trưởng miền, khi Thượng tọa Trưởng miền Thích
Quang Phú từ chức. Một năm sau, Ngài Trí Quang đề bạt Thầy làm Vụ
trưởng PHV, điều hành 22 PHV gồm 996 Tăng Ni sinh, một chức vụ quan
trọng nhất trong đời tu của Thầy.
Trong thời kỳ nầy, nội bộ Phật giáo có sự phân hóa. Một số Tăng Ni
sinh có tâm hướng ngoại. Riêng Thầy vẫn giữ vững hoài bão giáo dục
đào tạo Tăng tài. Bài thơ Thầy đăng trên báo Hoằng pháp có tính dí
dỏm nhưng lại là lời thơ kêu gọi thống thiết:
Viện quý Tú lo tu
Viện cần Tú có tu
Viện thương tu thiếu Tú
Viện ngán Tú không tu.
Chư tôn đức trong Giáo hội bấy giờ hết lòng ủng hộ chương trình
chuyên khoa của PHV do Thầy khởi xướng. Ba lớp chuyên khoa đầu tiên
ở Hải Đức (Nha Trang), Huệ Nghiêm (Sài Gòn) và Thập Tháp (Bình Định)
ra đời. Thầy lần lượt giữ chức Giám học, Phó Viện trưởng Điều hành
Viện Cao đẳng PHV Hải Đức, là một trong hai trợ lý đắc lực cho HT
Giám viện Thích Trí Thủ. Dù công việc bận bịu đến mấy, Thầy không
bao giờ xao lãng những giờ lên lớp, những thời công phu, những buổi
quá đường. Thói quen đúng giờ từng phút một của Thầy là một trong
những đức tính mà ai cũng nể phục nhưng không phải ai cũng làm theo
được. Câu nói thời danh của Thầy: “Cảnh khổ là nấc thang của bậc
anh tài, là kho tàng của người hiểu biết, là hố thẳm của kẻ ươn hèn”
cũng là câu châm ngôn hướng dẫn Thầy và môn đệ vượt qua mọi biến
động của hoàn cảnh. Đối với các học Tăng, Thầy vừa là thầy là cha,
vừa là bạn là đồng sự, luôn có mặt luôn sát cánh trước những thuận
nghịch của dòng đời và đổi thay của lòng người. Nhiều vị dù đã
trưởng thành thỉnh thoảng gặp chuyện không vui, vẫn về ngồi dưới
chân Thầy để được Thầy khuyên bảo sách tấn. Nhìn gương mặt tươi tắn,
ánh mắt độ lượng, nụ cười vừa chúm chím vừa bí ẩn vừa đầy ý nghĩa,
vị ấy thấy vơi đi bao ưu tư khúc mắc. Và khi lạy Thầy từ giã, vị ấy
ra về với một sức mạnh mới, một niềm tin mới, để có thể gánh vác
trọng trách tưởng chừng quá sức kham nhẫn của mình!
Sau khi các cơ sở sản xuất ngừng hoạt động (1977), Thầy có thời gian
toàn tâm toàn ý cho công tác giảng dạy và dịch thuật. Các Tự viện ở
Nha Trang và một số nơi ở thành phố Hồ Chí Minh như Quảng Hương Già
Lam, Vạn Hạnh… thường có bóng Thầy trong lớp học. Thầy cũng được tôn
cử làm Tuyên Luật sư cho các Đại giới đàn Trí Thủ, Thiện Hòa, từ đó
nhiều giới tử trở thành những cây xanh lá, tương lai của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam sau nầy.
Năm Thầy 70 tuổi (1997), Giáo hội PGVN tấn phong Thầy lên Hòa Thượng
và suy tôn vào Hội đồng Chứng minh Trung ương. Sau đó, Thầy lại được
suy cử làm Chứng minh và Cố vấn cho Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo
Khánh Hòa, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
Trải qua nhiều chức danh lớn trong Đạo pháp, trở thành Bậc cao Tăng
thạc đức của Giáo hội, nhưng đối với Thầy, tất cả chỉ là hoa đốm
giữa hư không. Người tu chân chính không màng danh lợi, biết thân
tâm cảnh là duyên hợp tạm có, không bất biến, không thường hằng.
Thầy làm mọi Phật sự với tinh thần vô ngã vị tha, chỉ với mục đích
duy nhất: Giác ngộ và Giải thoát khỏi ba cõi trầm
luân. Bài thơ khai bút Xuân Bính Tý (1997) Thầy viết khi đến tuổi
“cổ lai hy” cho thấy ý chí của Thầy:
Tuổi Đinh Mão năm nay bảy chục,
Trải thời gian gạn đục lóng trong.
Quyết tâm rửa sạch cõi lòng,
Mới mau ra khỏi cái vòng tử sinh.
V- SỰ NGHIỆP DỊCH THUẬT.
Cuộc đời Thầy có duyên gắn bó với Luật học từ thuở theo hầu Bổn sư.
Trong công phu tu hành, trong công tác giảng dạy và trong sự nghiệp
dịch thuật, Thầy đều lấy Luật làm căn bản, như từng tâm niệm:
“Thề sống chết với Luật học”.
Bộ luật đầu tiên Thầy được tiếp xúc là bộ Trùng Trị của Trí Húc Đại
Sư viết bằng chữ Hán, Thầy học với Ngài Đôn Hậu từ năm 1953. Sau đó,
lại được nhiều lần học với Ngài Trí Thủ, nên lúc nào rỗi rảnh, Thầy
lại giở ra xem. Đây là một trong những dịch phẩm Thầy tâm đắc nhất
khi phiên dịch.
Năm 1972, Thầy vào chùa Già Lam chủ trì an cư cho chúng phổ thông,
để HT Trí Thủ về Nha Trang phụ trách chúng chuyên khoa. Suốt ba
tháng tạm trú tại phòng của HT, có máy điều hòa xua hết cái nóng bức
mùa hạ, Thầy ngồi nghiên cứu tạng Luật đều đặn 12 giờ mỗi ngày. Đọc
đến đâu, Thầy thông suốt đến đó, không biết mỏi mệt mà thấy thích
thú vô cùng. Khi được giải nhiệm chức vụ Trưởng phòng Bào chế của
các Hợp tác xã Bồ Đề tại Nha Trang, Huế, thành phố HCM (1988), Thầy
có nhiều thời giờ rảnh, càng chú tâm vào việc phiên dịch.
Phương pháp làm việc của Thầy chia làm nhiều bước một cách khoa học:
Trước tiên, Thầy đọc qua tác phẩm một lần để hiểu toàn bộ nội dung.
Kế đến, Thầy đọc lại lần thứ hai thật kỹ, chữ nào không hiểu là Thầy
tra cứu và ghi chép cẩn thận. Bước thứ ba Thầy bắt đầu dịch. Sau khi
dịch xong tác phẩm, Thầy đọc lại bản dịch mà không nhìn vào nguyên
tác, để sửa chữa và bổ sung về văn phạm, ngữ pháp. Tiếp theo, Thầy
đối chiếu bản dịch với nguyên tác, xem trong lúc thêm bớt câu chữ,
có đi lệch với nguyên văn chữ Hán không. Khi đã chép lại bản thảo
sạch sẽ, Thầy lại nhờ huynh đệ dò lại từng câu, đối chiếu với bản
chữ Hán để chắc chắn không có sự sai sót. Bản dịch hoàn chỉnh được
đánh vi tính thành sáu bản, gửi đến sau nơi nhờ lưu giữ.
Khi Viện Nghiên cứu Phật học Thành phố Hồ Chí Minh thành lập, Thầy
đã dịch xong 3 bộ: Bộ luật Tiểu 4 quyển (dịch thuộc lòng ra văn
vần), Bộ Trùng Trị Tỳ Ni 18 quyển và Tỳ kheo Giới bổn Sớ nghĩa. Tất
cả các bản dịch, Thầy dâng cúng cho Viện Nghiên cứu tùy nghi sử
dụng. Năm 1991, Phân viện Nghiên cứu Hà Nội ra đời tại chùa Quán Sứ,
Thầy được mời vào Ban Phiên dịch. Thầy đã tích cực làm việc, góp
công lớn trong việc dịch thuật và xuất bản tập I Bộ luật Tứ phần
(gồm 15 trong số 60 quyển).
Những năm cuối đời, dù cơ thể mang nhiều bệnh tật, Thầy vẫn hăng say
đóng góp tài trí của mình cho Giáo hội. Ngoài trách nhiệm Trưởng ban
Phiên dịch Pháp tạng PGVN, Thầy còn làm Cố vấn chỉ đạo Ban phiên
dịch Đại tạng kinh và Trưởng ban Bảo trợ Phiên dịch Pháp tạng. Ở
cương vị nào, Thầy cũng chu toàn hết mực. Nhờ có Thầy với kinh
nghiệm phong phú, với uy tín lớn lao đối với Tăng ni Phật tử trong
và ngoài nước, Ban Phiên dịch đã hoạt động hiệu quả. Cụ thể là 17
tập trong Đại chính Tân tu Đại tạng Kinh đã được dịch và chứng
nghĩa, chỉ trong vòng 3 năm.
Sự nghiệp tu học và hành đạo của Thầy đồ sộ như thế, thật khó có
người sánh kịp. Nhưng khi có ai ngỏ lời ca tụng, Thầy chỉ một nụ
cười mỉm bảo rằng, đó chỉ là nhờ nhân duyên lớn được gần gũi học tập
nhiều vị chân tu thạc đức, từ khi đồng chơn nhập đạo đến lúc trưởng
thành. Thật vậy, từ năm 13 tuổi, Thầy đã vào chùa Khánh Vân của Đại
sư Chơn Quang, được HT Trí Thắng và sau đó HT Huyền Tân giáo dưỡng.
19 tuổi, Thầy được Bổn sư cho thêm 1 tuổi để thọ giới Cụ túc, dưới
sự chủ trì của HT Phước Huệ và HT Huệ Chiếu là hai vị Đại lão HT đạo
cao đức trọng. Khi ra Huế, Thầy lại được học với các bậc thạch trụ
tòng lâm chấn hưng Phật giáo Việt Nam như các Ngài Thiện Siêu, Trí
Quang, Đôn Hậu. Lúc làm việc, Thầy thân cận với HT Trí Nghiêm, Minh
Châu là những vị chân tu nổi tiếng của PGVN ngày nay. Như thế, được
sự thân cận, giáo dưỡng, thương yêu của trên mười bậc cao tăng thạc
đức, phước báo nầy của Thầy thật rộng lớn ít ai bằng. Có lẽ nhờ noi
gương các Ngài nên cuộc đời Thầy cũng tỏa sáng giới đức, để đến lượt
Thầy, trở thành một cây cao bóng cả của Giáo hội PGVN.
VI- BỆNH TẬT VÀ VIÊN TỊCH.
Năm 61 tuổi, Thầy tình cờ phát hiện mình bị cao huyết áp và đục thủy
tinh thể (cườm mắt). Năm năm sau, Thầy mắc thêm bệnh Tiểu đường.
Theo lời khuyên của bác sĩ điều trị, Thầy kiên trì dùng thuốc hàng
ngày, cử kiên đúng cách. Thời gian làm việc giảm bớt, từ 8 giờ còn 4
giờ mỗi ngày.
Khi Thầy dịch vừa xong bộ Ngũ phần luật thì bệnh Tiểu đường tạm ổn.
Lượng đường huyết còn cao nhưng không ở mức độ nguy hiểm, thần sắc
vẫn tươi nhuận. Thường ngày, ngoài giờ làm việc, Thầy thích ngồi
trên xích đu, một tay cầm quạt phe phẩy, tay kia luôn có chuỗi hạt
đen tuyền.
Ngày 9/4/2005, sau khi vào Thành phố Hồ Chí Minh dự lễ húy kỵ Ôn
Già-Lam, Thầy tự nhiên thấy trong người khó chịu, ăn uống kém hẳn.
Bệnh viện tỉnh Khánh Hòa khám và chẩn đoán “nghi K gan đa ổ/ Tiểu
đường type 2 + Cao huyết áp” và chuyển Bệnh viện Chợ Rẫy. Tại
đây sau khi xét nghiệm cần thiết, chẩn đoán K gan được xác
định. Thầy biết được, điềm nhiên bảo rằng: “Mười lăm năm tôi bị
bệnh Tiểu đường, chữa trị chừng ấy là vừa, mọi việc không cần thiết
nữa”. Ý Thầy muốn nói, với Thầy thì 79 tuổi là đủ, không nên
sống đến 80, tuổi ngang bằng Đức Phật.
“Ung thư gan”,
câu phán quyết của Bác sĩ như một lệnh tử hình! Cái chết được báo
trước, không phải tính bằng năm mà bằng ngày bằng tháng. Sức khỏe
Thầy suy sụp nhanh chóng, chỉ mới chín ngày nằm viện mà da đã vàng
đậm, không tự đi được phải có người dìu. Mọi người đều bàng hoàng lo
lắng, chỉ có Thầy vẫn bình tĩnh lạc quan. Nụ cười mỉm đặc biệt vẫn
thoáng hiện khi có người đến thăm kể chuyện vui. Khi hơi khỏe lên
chút ít, Thầy vẫn có những câu khuyên bảo khi nghe trò tâm sự. Trước
khi về lại Nha Trang, Thầy còn đến Già-Lam xin gặp Ôn Trí Quang lần
cuối. Hai vị tôn túc nói chuyện với nhau rất lâu, và khi chia tay Ôn
bảo Thầy: “Đỗng Minh về chào bổn đạo đi là vừa, còn vật gì quý
đem cho tôi”. Đại sư biết rằng, lần chia tay này là vĩnh viễn!
Trở về chùa Tỉnh hội Long Sơn (Nha Trang), nơi gắn bó cùng Tăng
chúng trên 50 năm, Thầy được quý thầy và các Y Bác sĩ tận tình thuốc
thang chăm sóc. Thầy biết bệnh tình không qua khỏi, nên sắp đặt mọi
việc chu đáo, dặn dò nhắc nhở không sót môt ai, kể cả những đệ tử từ
lâu ở xa không gặp. Về hậu sự, Thầy nhờ HT Thích Chí Tín, trụ trì
chùa Long Sơn, viết theo lời ủy thác của Thầy: “Lễ tang đơn giản,
thời gian trong vòng 36 tiếng đồng hồ. Không xây tháp, dùng tịnh tài
này để ấn tống kinh sách”. Chữ ký của Thầy bên trái tờ di chúc,
lập ngày 17/6/2005, ngoằn ngoèo run rẩy nhưng vẫn toát lên sự rắn
rỏi của một ý chí vững vàng trước ngọn cuồng phong bên lề cửa tử.
Đến phút cuối, Thầy vẫn chỉ một lòng nghĩ đến việc chung, mà không
hề muốn thọ nhận điều gì cho riêng mình!
10 giờ sáng ngày hôm ấy, Thầy tiếp thầy Thích Nguyên Giác, trụ trì
Quảng Hương - Già Lam. Nằm trên chiếc võng quen thuộc, Thầy dặn dò
nhiều điều và nhận tịnh tài cúng dường. Sau đó, Thầy nằm yên, chánh
niệm tỉnh giác trong tiếng niệm hồng danh Đức Phật của Tăng Ni Phật
tử.
14 giờ 30, Thầy bảo đưa từ võng lên giường, nghiêng về bên phải theo
tư thế kiết tường, tư thế nằm thường ngày của Thầy khi ngủ. Sau câu
nói khẽ với thị giả: “Tôi không uống nước và uống thuốc nữa”,
Thầy im lặng, không cử động, hơi thở đều đặn nhẹ nhàng nhập Kiết
tường tam muội!
Có thể nói, giờ phút xả báo thân là giờ phút được tôn vinh của một
Bậc xuất trần Thượng sĩ. Giữ nguyên tư thế kiết tường, Thầy làm chủ
thân tâm, tự tại trước bờ sinh tử. Cái đau thể xác do bệnh tật
nghiệt ngã không làm ảnh hưởng định lực, Thầy nhẹ nhàng trút hơi thở
cuối cùng, thể nhập Pháp thân thường trụ. Bấy giờ là 18 giờ 45 phút,
ngày 17/6/2005 (11/5 Ất Dậu), trụ thế 79 năm, 60 hạ lạp.
Sự ra đi của Thầy là một sự mất mát không gì bù đắp nổi. Đất nước
mất đi một nhân tài, dân tộc Việt Nam mất đi một người con ưu tú.
Phật giáo Việt Nam mất đi một thạch trụ vững chắc, Giáo hội mất đi
một cánh tay đắc lực. Tăng Ni Phật tử mất một người Thầy - người Cha
- người Anh hết lòng vì đàn hậu lai. Ban Phiên dịch Pháp tạng mất
đầu tàu gương mẫu trong công tác dịch thuật đầy khó khăn trở ngại.
Tông môn không còn nữa cội tùng già từ bao lâu tỏa mát nơi Tổ đình
Thiền Lâm Tự. Tuy vậy, tấm gương công phu đạo hạnh của Thầy vẫn mãi
chói sáng cho muôn đời sau noi theo. Thầy sinh ra từ vùng địa linh
nhân kiệt, nơi vua Quang Trung dấy nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, viết
nên trang sử vẻ vang hào hùng của đất nước. Thầy được giáo dưỡng tại
Tổ đình Sắc tứ Thiền Lâm Tự Phan Rang, nơi nắng gió khô hanh, nơi
ngọn lửa nóng bức, biến vàng trong quặng thành khối vàng ròng tinh
khôi quý giá. Thắp sáng ngọn đuốc Thiền Lâm-Tế, Thầy về nhập chúng
Long Sơn Nha Trang, nơi hội tụ nhiều bậc cao tăng thạc đức. Mối đạo
tình keo sơn Trí Nghiêm - Chí Tín - Đỗng Minh - Thiện Bình
trên đồi Trại Thủy kết dệt từ bao đời kiếp, chung vai chung sức
trong sự nghiệp hoằng hóa lợi sanh, mãi mãi là một bản đạo ca làm
rung động lòng người! Suốt cuộc đời, Thầy không mong cầu điều gì cho
bản thân, mà chỉ lấy trọng trách đào tạo Tăng tài làm sự nghiệp lợi
tha, lấy việc nghiêm trì giới luật làm công phu tự lợi. Không quản
thành bại, không ngại khen chê, phấn đấu không mệt mỏi vượt qua mọi
khó khăn bên ngoài và mọi trở ngại bên trong thân tâm, để đến lúc
cuối, Thầy thanh thản ra đi trong tư thế kiết tường!
Suốt 79 năm trên sân khấu cuộc đời, tuy Thầy đóng khá nhiều vai
diễn, nhưng lúc nào cũng sáng ngời một hình ảnh của bậc chân tu.
Theo đạo đức Khổng Mạnh, mẫu người quân tử là “Phú quý bất năng
dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ bất năng khuất”. Những đức tính
ấy, nơi Thầy có đủ: Đối với tiền tài danh lợi, Thầy không ham muốn
dù tự tay làm ra thật nhiều của cải; cả đời sống thiểu dục tri túc,
thậm chí trước khi nhắm mắt còn dặn dò làm lễ tang đơn giản để dành
tiền in kinh sách. Đối với nghèo hèn hoặc trước hoàn cảnh khó khăn,
Thầy không động tâm, chỉ một đức hy sinh kham nhẫn. Đối với uy vũ,
chỉ một nụ cười mỉm cũng đủ hóa giải mọi điều. Nhưng hơn thế nữa, là
một người tu Phật thực hành công hạnh Sa-môn, Thầy luôn tinh tấn
trong công phu, nhiệt tình trong các Phật sự và dốc hết sức mình
trong công cuộc đào tạo đội ngũ kế thừa. Bàn thờ của Thầy chỉ đặt
một chữ XẢ, như nhắc nhở Thầy buông xả mọi phân biệt
chấp trước, buông xả mọi ham muốn trần gian và cuối cùng, buông xả
báo thân một cách an nhiên tự tại. Cuộc đời Thầy thật vô cùng trong
sáng đẹp đẽ như viên ngọc quý không tỳ vết; bản thân viên ngọc dù
trải qua bao lần bị dũa mài đau đớn, vẫn hoan hỉ vì đã góp phần làm
đẹp cho đời!
Trong buổi lễ phúng điếu, nhiều người xúc động khi nghe bài điếu văn
của Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Khánh Hòa:
… Không thần thông phép lạ
Chẳng mật ngữ linh phù
Chỉ nhất tâm khổ hạnh công phu
Bốn chúng thảy trang nghiêm khể thủ.
Thân tứ đại ba y là đủ
Ngày hai thời tịnh chỉ công phu.
Tiền rừng bạc biển cho dù,
Trên tay Thầy một chuỗi xâu Bồ-đề!
Đại sư Trí Quang thường rất ít khen ai, cũng ít khi viết kệ phúng
điếu, nhưng Ngài đã phá lệ tặng Thầy những lời trân trọng:
Phụng cúng chúng trung tôn
Thiện thuận giải thoát giới
Bệnh tử bất khổ thân
Thị thắng dị thục tướng.
Khen cho vị Tăng khéo thuận giới giải thoát, bệnh chết không làm khổ
thân, đó là tướng thù thắng của quả dị thục. Lời khen thật quý giá
và nói lên đầy đủ công hạnh trong sự nghiệp giáo dục cùng những điều
vượt thường của Thầy trong giờ phút lâm chung.
Ngày tiễn đưa Kim Quan Thầy, cả một rừng người tham dự và bao nhiêu
nước mắt tiếc thương. Mọi người đều khóc, chỉ riêng Thầy mỉm cười.
Có phải người chân chính nào cũng đều thể hiện tinh thần “Khi
sinh ra, ta khóc trong khi mọi người cười. Phải sống thế nào để khi
mất đi, ta cười trong khi mọi người khóc”? Di thể Thầy được
thanh nghiêm nhập tháp gần bảo tháp cố Đại lão HT Thích Trí Nghiêm.
Lúc còn sinh tiền, hai vị tôn túc đã làm việc cùng nhau, sát vai
nhau vượt qua bao khó khổ. Ngày nay, nhục thân hai vị lại cùng nằm
bên nhau trong lòng đất đồi Trại Thủy - Nha Trang, như một sự nghỉ
ngơi bình yên sau bao năm phụng sự chúng sanh báo đền ơn Phật.
Thầy giờ thượng phẩm đăng lâm,
Nụ an nhiên ấy trong ngần như như.
(Đạo-Quang)
Cố Hòa thượng Luật Sư Thích Đỗng Minh đã “thượng phẩm đăng lâm”,
nhưng hình ảnh Thầy vẫn luôn sống mãi trong lòng tứ chúng, vẫn sáng
ngời trong tâm tưởng của hàng môn đệ. Đặc biệt là những người con
xuất thân từ Tổ đình Thiên Hưng và Tổ đình Thiền Lâm - Phan Rang, dù
đang còn làm Phật sự tại quê hương hay như những cánh chim trưởng
thành bay đi tám hướng, vẫn luôn nhớ ơn Thầy đã làm rạng danh Tông
phái. Để thể hiện lòng thành kính tri ân ấy, chúng ta nguyện làm như
Thầy đã làm, nói như Thầy đã nói, nghĩ như Thầy đã nghĩ; nguyện noi
theo chí hướng của Thầy suốt đời rèn luyện thân tâm, hết lòng phụng
sự cho dân tộc và đạo pháp, góp phần thanh tịnh quốc độ. Những di
ngôn của Thầy sẽ luôn như những lời sách tấn, những viên diệu dược
chữa trị tâm bệnh cho chúng ta trên bước đường hành đạo nhiều cạm
bẫy chông gai. Và trước khi chia tay với Thầy, chúng ta hãy đọc lại
trang Hồi ký có bài thơ Thầy viết lúc 8 giờ 30 ngày mùng một Tết
Bính Tý (1997):
Khai thần bút, minh niên Bính Tý,
Từ Thị Ngài hoan hỷ càng thêm.
Con nguyền suốt cả ngày đêm,
Tinh tấn tịnh lự trang nghiêm đời mình.
Sống tri túc an bình thiểu dục,
Của người cho, đúng lúc mới tiêu.
Việc cần không kể bao nhiêu,
Lợi đời lợi đạo dẫu nhiều vẫn vui.
Nay tự nhủ đôi điều nên nhớ,
Đừng bội lòng, đừng chớ nói suông.
Luôn luôn nghĩ đến vô thường,
Mạng sống nào khác như sương đầu cành.
Bệnh, lão, tử đến nhanh như chớp,
Mới đây mà lớp lớp ra đi.
Xoay qua xoay lại đã già,
Nay đà bảy chục thật là quá mau!
Vòng lẩn quẩn trước sau đều thế,
Có chi đâu mà để nói năng?
Chơn như Phật tánh vĩnh hằng,
Qui nguyên là đích, tuệ đăng dẫn đầu.
Viết nhân ngày Tiểu tường
Cố HT Luật sư thượng Đỗng hạ Minh.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/tonglamtongtuong.htm