Thời Lý Nhân Tông
nhận thức về vai trò của Phật giáo có hai nhiệm vụ xây dựng đất nước.
Một là, các vị Thiền sư cố vấn chính trị cho triều đình. Hai là, tổ
chức những sinh hoạt cộng đồng. Lý Nhân Tông thực hiện chính sách
xây dựng đoàn kết toàn dân thông qua các lễ hội với sự tham gia của
nhiều thành phần.
Một trong những lễ
hội này là hội đèn Quảng Chiếu mà sử sách ghi lại khá nhiều. Căn cứ
vào văn bia Sùng Thiên Diên Linh:
... Nếu căn cứ vào
Đại Việt Sử lược 2 tờ 20b8 và 22a4-5 và Đại Việt sử ký toàn thư 3 tờ
20b5 và tờ 24a9-b1, ta thấy chỉ trong thời vua Lý Nhân Tông đã bốn
lần tổ chức hội đèn Quảng Chiếu này, lần thứ nhất Đại Việt sử lược
ghi vào năm Canh Dần Hội Tường Đại Khánh thứ nhất (1110):
'Mùa Xuân tháng
giêng tổ chức hội đền Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng'. Lần thứ hai
ghi vào năm Bính Thân Hội Tường Đại Khánh thứ 7 (1116): 'Mùa xuân
tháng giêng tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng, chế
tạo nhà sư bằng gỗ cột vào đánh chương.
Những năm kế tiếp
cũng được tổ chức: "Năm Canh Tý Thiên Phù Diên Vũ thứ nhất (1120):'
tháng hai tổ chức hội đèn Quảng Chiếu'. và năm Bính Ngọ Thiền Phù
Duệ Vũ thứ 7(1126): 'tháng 9 Chiêm Thành đến Cống, tổ chức hội đèn
Quảng Chiếu ở sân rồng, xuống chiếu cho sứ thần của Chiêm Thành đến
xem".
Như vậy, việc tổ chức không cố định về thời gian. Về mặt không gian,
tổ chức ba lần ngoài cửa Đại Hưng của thành Thăng Long để mọi tầng
lớp nhân dân tham gia, một lần tổ chức tại sân triều đình để chiêu
đãi sứ bộ của Chiêm Thành. Việc tổ chức hội đèn Quảng Chiếu là mở ra
ngày hội vui của thiên hạ, đúng như Ngô Sĩ Liên đã từng nhận xét: "đây
là một thời kỳ thái bình thịnh trị của đất nước".
Lễ hội đèn Quảng
Chiếu có phần nghi lễ mà ngày nay vẫn phổ biến trong dân gian là "
nghi lễ cúng quỷ đói" (cô hồn). Ý nghĩa nghi lễ này là giúp con
người sống lâu và thân tướng mạnh khỏe. Vì vậy, "Ta không ngạc nhiên
tại sao hội đèn Quảng Chiếu là một lễ hội vui, lại có tháp thờ bảy
đức Như Lai dùng trong nghi thức cúng quỷ đối của Mật tông. Bởi vì,
có nỗi niềm nào của con người hơn được nổi vui được sống lâu, mạnh
khoẻ và đẹp xinh"
.
Hiện nay các chùa Việt Nam vẫn giữ nghi lễ này là mỗi buổi chiều đều
có nghi thức "thí thực cô hồn".
Vua Lý Nhân Tông
không chỉ tổ chức hội đèn Quảng Chiếu mà còn cho xây dựng nhiều chùa
và tổ chức lễ hội mỗi khi chùa xây dựng hoàn tất. Trên 50 năm cầm
quyền, theo Hoàng Xuân Hãn, vua Lý Nhân Tông đã hơn 18 lần làm chùa
và tổ chức lễ hội liên hệ, như sử sách đã ghi lại
. Lý Nhân Tông nhận thức việc xây dựng chùa không chỉ để cầu phúc
thọ, theo Sùng thiện diên linh: "… Lễ cầu sống lâu, bày nghi thức
tắm Phật hằng năm làm lệ thường",
mà việc xây chùa có một ý nghĩa chính trị là để đất nước mãi mãi
được bảo vệ. Các tầng lớp lãnh đạo bộ máy cai trị đã ý thức về vai
trò của ngôi chùa như: "Chu Văn Thường khi viết An Hoạch Sơn Báo Ân
tự bi ký khoảng vào năm 1100 đã nói rõ: 'Nhóm người dựng chùa, là để
mãi mãi giữ lấy nước nhà '".
Ngôi chùa trong tâm thức của người lãnh đạo là nhằm làm vững kinh đô
của vua, nghĩa là làm cho chủ quyền của đất nước được vững bền. Vai
trò của ngôi chùa theo "Phạm Sư Mạnh đã viết về tháp Báo Thiên ở
Kinh đô Thăng Long:
Trấn áp đông tây
giữ đế đô Ngang nhiên ngọn tháp vút lên nhô Non nước vững chãi tay
trời chống Nay xửa khôn tiêu đất cắm vồ".
Ngôi chùa có ảnh
hưởng đến chính trị xã hội nên các vị vua triều Lý cũng xem chùa như
là chỗ để xây dựng về tư tưởng chính trị của nhân dân.
Khi Lý Thánh Tông
lập Văn Miếu năm 1070 thì ngôi chùa giữ vai trò trung tâm của nền
giáo dục, cung cấp cho dân tộc những người con ưu tú, làm rạng rỡ
non sông. Bởi vì, ngôi chùa là thể hiện sự đoàn kết toàn dân, nơi
quy tụ các thành phần xã hội, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn,
già trẻ, trai gái. Họ cùng nhau góp sức trong sự nghiệp chung, không
chỉ phục vụ cho xã hội mà còn thoả mãn nhu cầu văn hóa của cộng đồng
thông qua các lễ hội.
Ngoài ra, ngôi chùa
khẳng định biểu tượng về nền văn hóa mang bản sắc riêng của dân tộc
Việt Nam. Như chùa Một Cột, chùa có tên chữ là Diên Hựu. Sự tích
ngôi chùa, năm 1049, một hôm vua Lý Thái Tông nằm mộng thấy Phật Bà
Quan Âm hiện ra, đưa nhà vua lên ngồi trên một toà sen ánh sáng toả
ra muôn khắp nơi. Sau khi thức dậy, vua thuật lại việc này cho các
triều thần, có người cho là điềm chẳng lành. Khi đó có nhà sư tên
Thiền Tuệ "khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa đất, làm tòa sen
của Phật Quan Âm đặt tên cột đá như đã thấy trong mộng... Vì thế gọi
là chùa Diên Hựu".
Về kiến trúc, chùa xây giữa hồ Linh Chiếu trong vườn Tây - Cấm, gần
kinh đô Thăng Long, trụ bằng đá, đỉnh cột trụ là một bông sen nghìn
cánh, trên bông sen đặt một tòa nhà đỏ tía và trong nhà có tượng
Phật mình vàng. Kiến trúc ngôi chùa mang tính đặc thù về nghệ thuật
Đại La thời Lý. Bông sen nghìn cánh tượng trương cho trí tuệ viên
mãn. Chùa Một Cột xét theo tượng hình của Kinh dịch là quẻ Sơn Thiên
Đại súc: "Trời ở trong núi (hình tượng của quẻ), đó là sức chứa lớn
vậy. Kẻ quân tử phải lo ghi chép nhiều về lời nói và nét na thời xưa
để nuôi cái đức của mình".
Hình ảnh ngôi chùa
diễn đạt theo ký hiệu Kinh dịch là: Theo quẻ Đại súc:
*
* *
* *
*
*
*
Tượng sơn - Thiên
Đại súc, diễn theo Việt dịch là "Núi ở trên trời", có ý nghĩa khuyên
giặc phương Bắc, "Các ngươi không thể tiêu diệt được dân tộc ta đâu,
trời đã định vậy, trời đã nâng đỡ chúng ta". Như Lý Thường Kiệt nói
"Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư".
Chữ Đại súc có
nghĩa là "chất chứa đại thể cao cả". Từ đó, chúng ta thấy các vị
Thiền sư đạo cao đức trọng tinh thông Phật và Dịch, luôn có tấm lòng
đại bi, lo cho sự tồn - vong của dân tộc, một nền độc lập và cường
thịnh cho dân nước qua những biểu tượng:
Một Cột là biểu
tượng của độc lập.
Diên Hựu chỉ sự tồn
tại hiện hữu lâu dài.
Đại súc chứa đựng
sự thái bình - thịnh vượng.
Đại hạnh là như hoa
sen trong đầm lầy, như nhà trên trời, không ô trược, cao cả, đầy đủ
Chân - Thiện - Mỹ.
Chùa Một Cột (Diên
Hựu) qua lăng kính Việt dịch là thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc.
Hình ảnh ngôi chùa hàm chứa và tích tụ những hoài vọng, là hiện thân
của trí tuệ Đại Việt với nguồn linh khí vĩnh cửu của đất trời. Nguồn
linh khí này chảy qua trụ đá, truyền xuống đất và nước để khơi dậy
hào khí muôn đời tổ tông. Vị trí của chùa Một Cột mang ý nghĩa trấn
giữ sơn hà và đẩy lùi sự đồng hoá văn hoá phương Bắc và còn là sự
khẳng định thời kỳ đầu độc lập.
Chính vì những đặc
điểm như thế nên dù đã trãi qua hơn ngàn năm nhưng chùa Một Cột vẫn
là một biểu tượng không thể thiếu của Phật giáo nói riêng và cả dân
tộc Việt Nam nói chung. Vượt thời gian và không gian, chùa vẫn mãi
mãi là hình ảnh hào hùng thể hiện khát vọng vươn lên của dân tộc
Việt Nam.
Tóm lại, Phật giáo
đóng vai trò phát huy nội sinh của dân tộc, vừa phát triển lý luận
vừa thực nghiệm tâm linh, đưa con người đến giải thoát. Nhận thức
luận của đạo Phật không chỉ thiết lập các định chế chính trị, mà còn
góp phần xây dựng nhân tâm của cộng đồng xã hội . Bản chất của thế
gian là khổ, vô thường và vô ngã nên người chứng ngộ có vai trò đưa
con người đến tự do, hạnh phúc.
Phật giáo tìm giải
pháp cho các vấn đề trong xã hội bằng cách giáo hoá mỗi cá nhân điều
chỉnh, cải thiện đời sống theo tinh thần nhân bản, công bằng.
- Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tập III, từ Lý Thánh Tông (1054) đến Trần
Thánh Tông (1278), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. Tr. 318
- Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tập III, từ Lý Thánh Tông (1054) đến Trần
Thánh Tông (1278), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. Tr. 319.
- Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tập III, từ Lý Thánh Tông (1054) đến Trần
Thánh Tông (1278), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. Tr..321
- Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tập III, từ Lý Thánh Tông (1054) đến Trần
Thánh Tông (1278), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. Tr. 326
- Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tập III, từ Lý Thánh Tông (1054) đến Trần
Thánh Tông (1278), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. Tr.329
- Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tập III, từ Lý Thánh Tông (1054) đến Trần
Thánh Tông (1278), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. Tr.330
- Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật
giáo Việt Nam, tập III, từ Lý Thánh Tông (1054) đến Trần
Thánh Tông (1278), Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. Tr.301
- VKHXHVN (1993), Đại Việt sử ký toàn
thư, tập I, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Tr. 268
- Bùi Văn Nguyên (1997), Kinh Dịch
Phục Hy đạo người trung chính thức thời, Nxb. KHXH, Hà Nội.
Tr. 420
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/vaitrophatgiaothoily.htm