- Những bài pháp tiêu
biểu của HT. Tuyên Hóa (I)
- Thích Hằng Đạt
tuyển chọn
Tu hành
Trì Giới và Nhẫn Nhục
Tham Thiền và Niệm Phật
Hạnh của Người Xuất Gia
Nhân Quả, Sám Hối, và Chuyển Hóa
Quy Y Tam Bảo
Giáo Dục
Đạo Phật và Phật Pháp
Trí Huệ
Gia Phong của chùa Vạn Phật Thành
Ba tông chỉ
Pháp Môn Tu Đạo
(Xem
thêm Phần II)
1.
Tu hành [^]
Tu đạo là cần phải Quay Trở Lại.
Nghĩa là gì ? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình
thì nhận phần hư xấu. Xả Tiểu Ngã để thành tựu Đại Ngã.
Đối với ma đừng khởi tâm thù
nghịch. Hãy xem chúng như các bậc Thiện Tri Thức trợ Đạo cho mình.
Từ vô lượng kiếp đến nay, hết
đời này sang đời khác, mỗi người tạo bao nghiệp khác nhau, nên vọng tưởng
cũng không đồng. Nghiệp nặng thì vọng tưởng nhiều, còn nghiệp nhẹ
thì vọng tưởng ít.
Người tu hành phải vì cắt đứt
dòng sanh tử luân hồi, vì hóa độ chúng sanh, chứ không vì cầu cảm ứng
mà tu Đạo.
Người tu Đạo phải luôn luôn hồi
quang phản chiếu, chứ không nên hướng ngoại truy cầu. Không thể chạy
tìm cầu chân tâm ở bên ngoài được, mà phải quay về tự tánh thì tự
nhiên đầy đủ cả.
Đối với người mới phát tâm tu
hành, điều chướng ngại trọng yếu nhất khi dụng công là tâm tham luyến
sắc dục giữa nam và nữ. Đây là vấn đề căn bản nhất.
Người tu Đạo nên chú ý ! Chớ
gieo duyên nhiễm ô với người khác. Sợi dây trói buộc bất tịnh này sẽ
làm chúng ta đọa lạc.
Hiện tại, chúng ta may mắn có được
thân người. Nếu không biết dùng thân người để tu hành thì đợi đến
khi nào mới chịu tu ? Chỉ e đến lúc mất thân này rồi, dẫu có muốn tu
hành thì đã quá muộn màng !
Khi tu học Phật pháp, điều thiết
yếu là phải chân thật. Nơi mỗi hành động, lời nói, cử chỉ đều phải
chân thật.
Sống trong tự viện, chúng ta phải
biết tiết kiệm mọi vật dụng. Có câu: Giữ gìn vật của chùa như bảo
vệ tròng con mắt.
Không thương cùng không ghét chính
là nghĩa Trung Đạo.
Tu đạo là gì ? Tức là tu theo
Trung Đạo. Khi đối xử với mọi người, phải lấy lòng bình đẳng và
lòng từ bi làm căn bản. Khi hành sự, phải cẩn thận, chớ đi lạc vào lưới
rọ tình ái.
Chưa bao giờ có việc Ngày nay tu Đạo
thì ngày mai thành Phật. Mới cuốc một nhát đâu có thể đào giếng nước
ngay được. Tu hành là đem khối sắt mài thành cây kim. Khi công phu đầy
đủ thì tự nhiên sẽ thành tựu.
Việc đầu tiên khi tu học Mật
chú là phải chánh tâm thành ý. Nếu tâm không chân chánh thì khi tu học, Mật
chú nào cũng thành tà. Tâm nếu chân chánh thì việc tu học Mật chú mới
được cảm ứng.
Vô minh có hai đồng bạn. Hai đồng
bạn đó chính là tham ăn và tham sắc dục. Cả hai việc này trợ giúp vô
minh tạo ra vô số nghiệp xấu.
Có câu:
- Khi muốn làm người tốt thì nghiệp báo hiện,
- Khi muốn thành Phật thì ma đến thử thách.
Nếu không muốn trở thành người
lành thì nghiệp báo không tìm đến. Càng quyết chí làm người lành bao
nhiêu thì nghiệp báo càng tìm đến tới tấp bấy nhiêu để đòi chúng ta
thanh toán nợ nần cho rõ ràng.
Phật và ma chỉ khác nhau nơi một
tâm niệm: Phật thì có tâm từ bi, còn ma thì có tâm tranh hơn thua.
Người thực sự biết cách tu hành
thì nhất cử nhất động đều là tu cả.
Người tu Đạo không nên đi khắp
nơi quảng cáo sự tu hành của mình. Ai thường làm việc đó thì nhất định
sẽ đọa lạc vào đường ma.
Khi ở bất cứ nơi nào, người tu
Đạo cũng đều phải che giấu và tẩy xóa tông tích; chớ nên để lộ diện.
Tâm của chúng ta thường trú tại
những nơi khác chứ không trú tại trong tâm mình. Trú tại những nơi khác
nghĩa là có thân mà tâm lại chạy tán loạn.
Giảng Kinh thuyết Pháp là tu Huệ.
Ngồi Thiền là tu Định. Không nói lời tạp nhạp là tu Giới.
Phiền não tức Bồ Đề. Nếu biết
cách tu hành thì phiền não tức là Bồ Đề, bằng ngược lại thì Bồ Đề
biến thành phiền não.
Tu Đạo cần phải tập dại khờ.
Càng dại khờ bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Dại khờ cho đến lúc
buông xả muôn việc thì vọng tưởng sẽ không còn.
Vô minh nghĩa là không hiểu rõ. Gốc
rễ của vô minh là ái dục.
Mục đích chủ yếu của sự tu
hành là cắt đứt dòng sanh tử, chứ không phải cầu cảm ứng.
Tu hành thì cần phải giữ mình cho
trong sạch, như giữ đôi mắt không để dính một hột cát.
Cờ bạc thì tạo nghiệp nặng. Bố
thí thì tích lũy công đức. Ngồi Thiền thì trừ ngu si, giúp sanh trí huệ.
Người tu hành nên cẩn thận lời
nói nơi chỗ đông người và phòng hộ tâm niệm khi ngồi một mình. Lúc
ở giữa đại chúng, đừng nên nói nhiều. Khi ở riêng một mình nên đề
phòng tâm ích kỶ và vọng tưởng. Nếu làm được như thế thì chẳng bao
lâu sự tu hành sẽ được chuyên nhất và thấy rõ chân tâm.
Thọ khổ thì dứt khổ. Hưởng
phước thì hết phước.
Người chân chánh tu Đạo phải quán
xét mọi hành vi, cử chỉ của chính mình. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, chớ
rời chánh niệm. Đừng giống như tấm gương, chỉ biết soi mặt người mà
không thể tự soi lại bộ mặt thật của mình.
Nếu còn chấp trước thì đó là
tâm người thế tục. Nếu xả chấp thì đó là tâm Đạo.
Nếu không muốn chết, phải sống
như người đã chết, tức là phải giữ tâm đừng để tham lam, sân hận,
si mê nổi lên.
Người học Đạo nhất định phải
phát nguyện. Nguyện lực có khả năng thôi thúc chúng ta tiến tu theo Chánh
Đạo mà không lạc vào đường tà. Tuy nhiên, phát nguyện mà không hành
thì giống như cây có hoa nhưng không đơm trái, thật vô ích !
Dùng lưỡi để thuyết pháp thì
tích lũy công đức. Ngược lại, nếu dùng lưỡi để nói chuyện thị phi
thì tạo nghiệp xấu. Thay vì thuyết Pháp mà lại nói những lời thị phi
vô nghĩa, chính là tạo 1.200 tội lỗi.
Đối với kẻ trong người ngoài,
già, trẻ, lớn, bé, sang giàu, hèn hạ, người tu Đạo phải nên dùng tâm
Từ, Bi, HỶ, Xả. Nhờ những tâm hạnh đó mới được cảm ứng.
Tu Đạo là tu chân thành và thiết
thật. Thế nên, có câu: Tâm thành thì được cảm ứng.
Sống trên cõi này, chúng ta phải
luôn luôn làm việc lành. Nơi mỗi hơi thở và sức lực, chúng ta đều phải
làm việc lành để tích lũy công đức. Trong hiện đời, chớ nên dựa
vào căn lành đã trồng trong những đời tiền kiếp mà tận hưởng hết
phước báo.
Phật có thể chuyển hóa tất cả
chúng sanh thành Pháp Khí, nên có câu: Mượn cái giả để tu việc chân.
Túi da hôi thối này chỉ là căn nhà tạm bợ. Chúng ta trú tại căn nhà
này để tu Đạo, nghĩa là mượn căn nhà sắc thân giả tạm để tu thành
Pháp Thân chân thật.
Nếu tâm tham lam tràn trề không biết
đủ thì tương lai sẽ bị đọa lạc vào địa ngục. Nếu từ sáng đến
tối luôn giận dữ với tâm sân hận nặng nề thì sẽ trở thành ngạ quỶ.
Nếu tâm ngu si nặng nề, chỉ làm những việc ngu xuẩn thì sẽ trở thành
thú vật.
Khuyết điểm lớn nhất của chúng
sanh là tình ái si mê; ngày đêm chúng sanh sống trong tình ái si mê, không
thể nào xả bỏ được. Nếu chuyển được tâm háo sắc thành tâm tu học
Phật pháp trong từng giây phút mà không lãng quên, thì sẽ mau chóng thành
Phật.
Người chân chánh khai ngộ thì
không bao giờ nói mình đã khai ngộ. Các bậc thánh nhân xuất hiện nơi thế
gian tuyệt đối không tiết lộ chân tướng. Phàm những kẻ tự xưng là
Phật hay Bồ Tát, đều là hạng tà ma.
Người có đức hạnh không phải
do nơi địa vị hay tuổi tác, mà trong những hành vi lại kín đáo và im lặng,
khiến tự nhiên hiển lộ phẩm cách đặc thù của họ, làm cho người khác
kính nể. Phẩm cách đặc thù này không khiến cho kẻ khác sợ sệt, vì nếu
như thế thì họ sẽ lánh xa.
Mọi người đều có ba tên giặc
phiền não trong nội tâm; chúng là tham lam, sân hận, si mê. Chúng ta không cần
diệt trừ chúng mà chỉ cần chuyển hóa chúng thành những hạt giống Bồ
Đề.
***
2.
Trì Giới và Nhẫn Nhục [^]
Người tu hành phải tu tướng vô
ngã; tu đến độ không còn cái Ta. Nếu được như thế thì có thể nhẫn
chịu tất cả; cảnh giới nào đến, tâm đều an nhiên bất động và tâm
thanh thản giống như hư không.
Việc thành Phật vốn không phải dễ
dàng ! Chưa chặt đứt tâm tham dục mà mong thành Phật thì không bao giờ
làm được. Người đời nay đa số đều thích cầu may, đi đường tắt,
nên dễ dàng bị những việc huyền ảo lạ kỳ lôi cuốn và bị mê hoặc
rồi lạc vào lưới ma.
Tại sao nói láo ? Vì sợ mình mất
quyền lợi và bị thua thiệt.
Nếu phạm giới dâm dục thì dễ
dàng phạm giới giết hại, ăn cắp, và nói láo. Vì vậy, giới dâm dục
bao gồm các giới giết hại, trộm cắp, và nói láo.
Giữ năm giới và làm mười điều
lành thì được sanh cõi trời và cõi người. Nếu còn tham lam, sân hận,
si mê thì sẽ bị đọa lạc vào ba đường ác.
Nếu hiểu rõ Giới Luật thì có thể
thâm nhập vào Phật pháp. Nếu không hiểu Giới Luật thì giống như mây
bay trên nền trời, lơ lửng không có một điểm tựa căn bản.
Căn bản của Giới Luật chỉ có một
điều, chính là giữ tâm không ích kỶ.
Đối với việc tinh tấn trì Giới,
điều chủ yếu là trì Giới ở những nơi không ai thấy. Không phải chỉ
tinh tấn trì Giới trước mặt người khác, mà khi ở một mình cũng phải
luôn luôn siêng năng tinh tấn nghiêm trì Giới Luật.
Tu học Phật pháp chính là tu học
việc không làm não hại người khác. Là Phật tử, phải nên ăn chay, vì nếu
ăn thịt tức là làm tổn hại sanh mạng của những chúng sanh khác.
Ăn chay phải chịu thiệt thòi vì
không thể hưởng được của ngon vật lạ trong cuộc đời. Tuy nhiên, nếu
ăn thịt loài vật thì sau khi chết phải tới địa phủ để thanh toán nợ
nần. Tôi thật tâm nói cho quý vị biết: Nếu mọi người không ham Khoái
khẩu, không tham hưởng thụ, thì sau khi chết sẽ không phải ra tòa !
Người tu học Phật pháp mà không
giữ Giới Luật thì cũng giống như chiếc bình không đáy: Đổ nước vào
bao nhiêu thì chảy ra bấy nhiêu. Thế nên, phải nghiêm trì Giới Luật để
từ từ đạt đến cảnh giới vô lậu.
Dẫu tu pháp môn nào, phải có tâm
nhẫn nhục thì việc tu hành mới mong thành tựu. Ngược lại, không thể
tu hành thành tựu bất cứ pháp môn gì.
Người xuất gia tu Đạo gì ? Chính
là tu Đạo nhẫn nhục.
Nhẫn là hạt châu vô giá mà người
người không biết đào tìm. Nếu biết cách dùng thì mọi việc đều tốt
lành.
Người tu Đạo cần phải nhẫn những
gì mà kẻ khác không thể nhẫn, nhường nhịn những gì mà kẻ khác không
thể nhường nhịn, ăn mặc những gì mà kẻ khác không thể ăn mặc. Nói
chung, phải thọ nhận những gì mà người khác không thể thọ nhận.
Khi chúng ta tu Đạo, việc quan trọng
nhất là không tranh; nghĩa là không cùng người khác tranh đua hơn thiệt,
hay tranh đua điểm tốt xấu, hoặc tranh luận về việc đúng sai của kẻ
khác.
Dẫu ở hoàn cảnh nào, chúng ta cũng
chớ tham lam quá độ. Phải thường biết đủ và nhẫn nhịn. Đó là pháp
vi diệu vô thượng mà mọi người lại quên đi ! Vì vậy, nếu không tranh
và không tham thì thọ hưởng phước báo vô biên. Nếu vẫn còn tranh chấp,
tham lam, nhiễu loạn, thì nghiệp xấu đến với chúng ta không ít. Dẫu có
muốn thoát ra ba cõi, nhưng cũng không có cách gì vượt thoát được.
***
3. Tham Thiền và Niệm Phật [^]
Tại sao chúng ta không nhận ra cội
gốc và khuôn mặt thật của chính mình ? Do vì chúng ta chưa xả bỏ tâm
chấp ngã và tâm ích kỶ của chính mình.
Tham Thiền tức là quán chiếu.
Quán chiếu những điều gì ? Quán chiếu trí huệ Bát Nhã. Trong từng tâm
niệm, chúng ta hãy quán chiếu lại chính mình; chớ nên quán chiếu người
khác. Phải quán chiếu xem coi tâm có trụ chăng ?
Người Tham Thiền phải thấu suốt
những vấn đề căn bản. Đó là những vấn đề gì ? Tức là thói quen tật
xấu của mình. Đả Thiền Thất tức là chúng ta cố gắng dẹp trừ hết
mọi tập khí xấu xa và lỗi lầm của chính mình.
Trong Thiền Đường, mọi người ngồi
Tham Thiền. Đó là lúc thử xem ai có thể trúng tuyển quả vị Phật. Làm
sao được trúng tuyển ? Cần phải Bên trong không chấp vào thân tâm, còn
bên ngoài thì không thấy thế giới'.
Nhiều người Tham Thiền thường
rơi vào hai lỗi: Trạo cử (tán loạn) và hôn trầm (ngủ gục). Nếu không
ngủ gục thì cũng khởi vọng tưởng trong Thiền Đường.
Khi Tham Thiền, việc quan trọng là
phải có tâm nhẫn nhục và tâm bền bỉ. Bí quyết của việc Tham Thiền
là nhẫn. Không nhẫn được cũng cứ cố gắng chịu nhẫn. Nhẫn cho đến
cực điểm thì tự nhiên tâm sẽ khai thông, sáng suốt, liễu ngộ.
Khi Tham Thiền đến lúc chín muồi
thì không những hết vọng tưởng mà còn bớt vọng tưởng và phiền não,
khiến phẩm cách cao thượng hơn cũng như khí phách được hùng dũng thêm.
Tại sao tâm chưa tương ưng với Đạo
? Vì tâm cuồng loạn chưa dừng.
Tham Thiền cần có lòng nhẫn nại,
vì đó là vốn liếng của sự khai ngộ.
Khi Tham Thiền, chúng ta có cơ hội
khai ngộ; lúc đó tự tánh sáng ngời sẽ hiện rõ như mùa xuân về trên
cõi đất và vạn vật đều sinh sôi nẩy nở.
Người chân chánh Tham Thiền là người
chân chánh niệm Phật. Ngược lại, người chân chánh niệm Phật cũng là
người Tham Thiền. Kẻ chân chánh trì Giới cũng là kẻ chân chánh Tham Thiền.
Chân Ngã là gì ? Tức là tự tánh,
cũng tức là quả vị Phật. Thành tựu quả vị Phật mới đạt được chân
ngã. Trước khi thành Phật thì tất cả đều là giả.
Thân tâm ai không nhiễm ô thì người
ấy là Phật. Ngược lại thì là chúng sanh. Nhiễm ô là gì ? Nói vắn tắt,
nhiễm ô tức là nhìn không thông, xả không được, khởi vọng tưởng
trong từng giây phút.
Dụng công cho đến lúc thành thục
rồi thì chúng ta sẽ ăn mà không chấp là mình đang ăn, mặc mà không chấp
vào y phục mình đang mặc, còn nói chi đến những vật ngoài thân. Tất cả
đều xả bỏ hết.
Tu hành không chỉ hạn cuộc trong
việc Tham Thiền, tụng Kinh mà thôi. Phải tùy thời tùy nơi mà tu hành. Đừng
móng tâm phân biệt nhiều. Chớ tranh đấu vì quyền lợi, giành chức lãnh
đạo để sai khiến người khác, và cũng chớ nên biểu diễn hay thi thố
tài năng trước mặt Thầy mình.
Tu Đạo quý tại chuyên nhất. Tướng
tài do mưu lược chứ không do hùng dũng. Binh lính cần tinh nhuệ chứ
không cần nhiều.
Chân thật niệm Phật là luôn luôn
niệm trong từng giây phút; vọng tưởng hay ý nghĩ gì về ăn uống cũng không
có cả; xả bỏ muôn sự chính là chân thật niệm Phật.
Khi chúng ta niệm Phật, Phật cũng
niệm chúng ta, giống như gởi điện tín đến Phật A Di Đà. Đó gọi là
cảm ứng đạo giao. Nếu chúng ta không niệm Phật thì Phật không có cách
gì tiếp độ chúng ta. Vì vậy, phải thường trì niệm danh hiệu Phật.
Khi niệm Mật chú, cần phải niệm
cho đến lúc Mật chú lưu xuất từ tâm ra và đồng nhập vào tâm. Mật
chú và tâm đồng hợp nhất vào một âm thanh mà không thể phân biệt được.
Niệm mà không niệm; không niệm mà niệm.
Khi chúng ta lễ Phật, Phật là vị
nhận lễ, còn phước huệ của chúng ta thì được tăng trưởng. Thế nên,
lễ Phật là cảm; Phật nhận lễ là ứng; đó là đạo giao.
***
4.
Hạnh của Người Xuất Gia [^]
Phải bốn người xuất gia trở lên
cùng hòa hợp sống chung thì mới gọi là Tăng Đoàn. Đó là hòa giai cộng
trụ (cùng sống hòa hợp với nhau), không tranh không chấp. Nơi một người
xuất gia sống đơn độc không thể gọi là Tăng đoàn.
Không thể muốn pháp xuất thế
gian cùng pháp thế gian đồng một lúc. Chân không thể đứng trên hai chiếc
thuyền: Một hướng ra Giang Bắc, còn một thì xuôi về Giang Nam.
Quý vị thường biết rằng chư Đại-đức,
Cao-tăng thuở xưa đều ngộ Đạo trong khi tu hành khổ hạnh. Không một vị
Tổ-sư nào khai ngộ trong khi hưởng thụ; tìm trong Đại Tạng Kinh không thấy
có một vị nào như thế cả.
Tiêu chuẩn tuyển chọn vị Trụ-trì
phải như thế nào ? Điều kiện tiên quyết là phải không có tâm nóng giận,
biết dùng tâm ôn hòa đối đãi với người khác, nơi nơi đều có duyên
lành với người, không dùng quyền uy mà bức bách kẻ khác, phải có tác
phong và tinh thần dân chủ, khiến người người đều cung kính tôn trọng.
Người xuất gia có thể nhận sự
cúng dường, nhưng không được tham cầu sự cúng dường. Có như thế mới
xứng đáng là đệ tử chân chánh của đức Phật.
Hai chúng đệ tử xuất gia, Tỳ-kheo
và Tỳ-kheo-ni, không nên tu hành chỉ vì danh vọng và địa vị, mà cần phải
có tinh thần thay thế chúng sanh chịu khổ với tâm bình đẳng cứu giúp họ.
Người xuất gia nếu không tinh tấn
tu Thiền tập Định, tụng Kinh, trì Chú, nghiêm thủ Giới Luật, mà chỉ nương
tựa vào Phật hầu có được miếng cơm manh áo thì chắc chắn sẽ bị đọa
lạc vào ba đường ác.
- Tinh lực dồi dào thì không cảm thấy lạnh.
- Khí lực sung túc thì không cảm thấy đói.
- Thần lực đầy đủ thì không cảm thấy mệt.
- Tinh, khí, thần là ba báu vật mà người xuất
gia phải cần tu trì.
Người xuất gia phải làm gương
cho những kẻ tại gia; nếu không nêu được gương tốt thì người tại
gia sẽ không khởi tâm tin tưởng thâm sâu, và không thể gieo ảnh hưởng
gì với họ cả. Thế nên, làm người xuất gia thì phải có hình tướng của
người xuất gia.
Người xuất gia phải có chánh tri
chánh kiến, bằng không thì nhất định sẽ đi lạc vào đường ma, rồi bị
năm mươi ấm ma lôi kéo đi. Người xuất gia phải cùng nhau làm việc;
không được tự mình làm việc khác lạ và muốn làm gì thì làm.
Chuyên nhất thì linh. Phân tán thì
chướng ngại. Chuyên nhất về việc gì ? Tức là chuyên nhất đoạn trừ
dục vọng và tham ái, bằng không thì dẫu có xuất gia tu Đạo đến tám mươi
bốn ngàn kiếp đi nữa cũng vẫn không đạt thành tựu. Vì vậy, đây là
điều rất trọng yếu.
Phải luôn luôn tu Đạo bồi Đức.
Khi đức tánh đã được tròn đầy và hạnh tu đã được viên mãn thì
chúng ta mới xứng đáng là người xuất gia.
Người xuất gia phải lấy việc hoằng
dương Chánh Pháp làm sự nghiệp vì đó là bổn phận và trách nhiệm. Thế
nên, trong từng tâm niệm, chúng ta phải luôn luôn hoằng dương Chánh Pháp.
Ngoài ra, nơi mọi hành động và cử chỉ đều thuyết Pháp cho chúng sanh.
Phật pháp được người Phật tử
xiển hưng và nhất là được truyền thừa dựa vào chư Tăng. Tuy nhiên, phải
lấy giới luật làm nền tảng căn bản. Nếu người Phật tử xuất gia
hay tại gia không trì giới thì Phật pháp sẽ bị suy vi.
Người xuất gia phải làm đúng
theo bổn phận của mình. Nếu đã xuất gia tu hành thì trên căn bản không
thể tham cầu sự cúng dường, danh lợi, hoặc dùng thủ đoạn để dụ dỗ
và lôi cuốn tín đồ. Dẫu họ là người hộ pháp hay không, vẫn phải đối
xử bình đẳng.
***
5. Nhân Quả, Sám Hối, và Chuyển Hóa [^]
Không thể cầm nắm được nghiệp.
Chúng ta bị nghiệp dẫn dắt nên sanh ra ở thế gian này để trả nghiệp
báo đời tiền kiếp của mình. Trong quá khứ, chúng ta tạo những nghiệp
khác nhau, nên hôm nay thọ nhận những quả báo khác biệt. Vì vậy có
câu: Lưới nghiệp vây bủa chằng chịt.
- Nhất thiết thị khảo nghiệm
- Khán nhi thậm ma biện
- Địch diện nhược bất thức
- Tu tái tùng đầu luyện.
Tạm dịch:
- Tất cả đều khảo nghiệm
- Xem coi ta làm gì
- Trước mặt chưa nhận ra
- Phải bắt đầu trở lại.
Chữ Nhục (Thịt) trong tiếng Tàu gồm
có một kẻ bị ăn và một kẻ đang ăn. Kẻ đang ăn thì ở phía ngoài và
vẫn còn làm người. Kẻ bị ăn thì đã biến thành loài vật. Kẻ đang
ăn và kẻ bị ăn có mối liên hệ oán thù với nhau mà không thể hóa giải
được; họ cứ giết hại lẫn nhau từ đời này sang đời nọ.
Nếu thực sự muốn giải độc cho
thế giới thì mọi người phải ăn chay, chớ nên ăn thịt.
Người xưa nói: Người quân tử tự
tạo mạng. Những người đạo đức, quân tử chân chánh có thể sửa đổi
vận mạng của họ vì họ vượt thoát được số mạng. Tại sao không có
những điềm lành ? Vì tâm niệm xấu xa. Trồng nhân xấu thì đương nhiên
phải gặt quả xấu. Nếu có thể sửa đổi tâm tánh, làm lành tránh ác,
thì điềm lành sẽ đến và xa lìa điềm xấu.
Tập khí xấu xa khó trừ bỏ được.
Tuy nhiên, nếu xả bỏ được thì thật là người có Định-lực.
Người thấy lỗi chúng ta là Thầy
của chúng ta. Người nói ra lỗi của chúng ta chính là bậc Thiện-tri-thức.
Vì thế, chúng ta phải nên cảm ơn, chớ sanh tâm oán thù.
Tâm cung kính có thể chuyển hóa
tâm chấp nê thành tâm dịu dàng, hiền từ.
Lễ Phật tức là lễ tự tánh Phật;
nghĩa là lễ vị Phật trong tự tánh của mình. Tương lai sẽ thành Phật tức
là tự tánh mình sẽ thành Phật.
Tại sao chúng ta có nghiệp ma ? Vì
trong đời quá khứ không chịu nghe lời dạy bảo và khuyên răn của các vị
Thiện-tri-thức, cứ mãi chạy theo vọng tưởng, tạo bao nghiệp xấu. Thế
nên, đời này thường bị nghiệp ma ràng buộc, khiến cho mọi việc đều
không được vừa ý và mãn nguyện.
Tâm tư và hành vi của con người
luôn luôn thay đổi theo ngày tháng. Làm thế nào chúng ta không biết rằng
chúng ta sẽ thay đổi tôn giáo ? Có thể tin theo tín ngưỡng này trong đời
hiện tại, nhưng không chắc chắn rằng chúng ta sẽ tin theo tín ngưỡng đó
trong đời vị lai. Nếu có ai chưa tin tưởng Phật pháp, chớ thất vọng.
Tất cả chỉ tùy thuộc vào thời gian và nhân duyên. Họ có thể chưa tin
tưởng Phật pháp hôm nay, nhưng có thể vào ngày mai sẽ tin tưởng. Quý vị
có thể nói: Nếu họ chưa tin tưởng Phật pháp đời này, tôi sẽ đợi họ
đến đời sau. Nếu đời sau họ vẫn chưa tin tưởng Phật pháp, tôi sẽ
đợi họ đến đời kế. Nếu họ chưa tin tưởng trong đại kiếp này,
tôi sẽ đợi họ sang đại kiếp sau. Nếu sau khi một đại kiếp đã trôi
qua mà họ chưa tin tưởng Phật pháp, tôi sẽ đợi thêm một đại kiếp kế.
Trong những lúc đó, sẽ có ngày họ tin tưởng Phật pháp.
Hiện tại là thời đại thông tin,
nên Phật giáo bước vào thiên niên kỶ mới. Chúng ta muốn hợp nhất tất
cả tôn giáo vào trong đạo Phật. Do đó, trước hết người Phật tử chúng
ta phải học cách cảm thông với nhau. Chúng ta chớ có chấp vào Đại Thừa
hay Tiểu Thừa mà phải học hỏi lẫn nhau. Những gì chưa từng biết đến,
chúng ta phải đi học hỏi nơi người khác. Dẫu người khác có học hỏi
gì nơi chúng ta hay không, chớ bận tâm.
***
6. Quy Y Tam Bảo [^]
Sau khi đã quy y Tam Bảo, chớ tạo
thêm nghiệp xấu mà phải làm tất cả điều lành. Tôi tuyệt đối chịu
trách nhiệm tất cả nghiệp xấu mà mọi người đã tạo trong quá khứ
vì tôi chưa có thể giáo hóa quý vị được. Lẽ ra quý vị phải bị đọa
địa ngục vì nghiệp xấu đã tạo trong quá khứ, nhưng tôi bảo đảm rằng
quý vị sẽ không bị đọa lạc. Lẽ ra quý vị sẽ bị tái sanh làm loài
ngạ quỶ vì nghiệp xấu đã tạo xưa kia, nhưng nhờ quý vị tự sám hối
sửa đổi lỗi lầm, nên tôi sẳn sàng thay thế quý vị đọa làm loài ngạ
quỶ để chịu hình phạt. Lẽ ra quý vị sẽ bị đọa làm súc sanh vì
nghiệp xấu xa xưa, nhưng hiện nay quý vị tránh làm việc xấu và thường
hành việc lành, nên tôi sẳn sàng thay thế quý vị làm loài súc sanh. Dẫu
nghiệp xấu gì quý vị đã tạo, tôi sẳn sàng gánh chịu hết cho quý vị.
Chớ nghe theo tôi. Hãy lắng nghe lại
trí huệ của chính mình. Hy vọng những người đệ tử của tôi có đầy
đủ trí huệ mà không bị mê tín.
Đối với những ai đã từng thọ
tam quy y và năm giới với tôi, tất cả đều là thịt thà máu huyết của
tôi. Dẫu thân phần nào của tôi bị cắt đứt, tôi đều đau nhức. Dẫu
máu huyết trên thân chảy ra nơi nào, nguồn khí lực của tôi đều bị tổn
thương. Do đó, quý vị phải đoàn kết với nhau. Để giúp cho Phật giáo
được phát triển mạnh mẽ, quý vị phải chịu đựng thua thiệt và những
lời mắng chửi mà những người khác không thể chịu nổi. Phải mở rộng
tâm lượng và hành vi phải chân chánh. Nếu không làm việc chân chánh thì
chư Phật và chư Bồ Tát sẽ biết rõ; quý vị không thể lừa dối được
các ngài. Mọi người phải tự kiểm nghiệm và tinh tấn sửa đổi lỗi lầm
đã tạo tác trong quá khứ. Chân thật nhìn nhận những việc làm điên đảo
và những hành vi bất chánh đáng của mình. Phải sống ngay thẳng chân thật.
Phải hoàn toàn quên mình để hy sinh làm việc cho Phật pháp và xã hội.
Trên thế gian, trong mỗi hội đoàn và cộng đồng đều có những sự phức
tạp cùng những điều gay cấn. Tại chùa Vạn Phật Thành, chùa Kim Sơn, chùa
Kim Luân và tất cả những chi nhánh khác thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp
Giới, chúng ta phải cải thiện những điều đó. Dĩ nhiên, chúng ta không
thể làm hoàn mãn ngay lập tức, nhưng phải thay đổi từng bước cho đến
khi đạt tới nơi hoàn mãn nhất, triệt để nhất, rốt ráo nhất. Từ đó,
chúng ta mới có thể duy trì được những hành vi lương thiện để giúp
cho Phật pháp được phát triển và xiển dương. Mọi người đệ tử của
tôi phải gánh vác lấy trách nhiệm đó và suy nghĩ: Nếu đạo Phật chưa
được xiển dương, đó do vì tôi chưa hoàn thành trọng trách của mình.
Chớ đổ gánh nặng lên vai những người khác. Nếu mọi người đều suy
nghĩ theo cách đó thì trong tương lai chắc chắn đạo Phật sẽ được phát
triển và lan tràn khắp nơi trên thế giới.
***
7. Giáo Dục [^]
Hiện tại mọi người đi học chỉ
vì danh lợi. Cách phát âm hai chữ Minh Lý và Danh Lợi trong tiếng Tàu gần
giống nhau, nhưng ý nghĩa thì lại khác xa đến tám mươi bốn ngàn dặm !
Trẻ em như mầm non đang lớn; cành
cây mọc ra um tùm cần phải được cắt tỉa thì tương lai mới trở thành
vật liệu hữu ích được.
Nầy các bạn trẻ ! Các bạn có biết
căn bản làm người là gì không ? Đó là tám đức tánh hiếu, đễ, trung,
tín, lễ, nghĩa, liêm, sĩ.
Tại sao hiện nay trên thế giới đầy
dẫy những tội lỗi do thanh thiếu niên gây ra ? Vì những bậc làm cha mẹ
chỉ lo sanh con chứ không lo chăm sóc, dạy dỗ.
Tâm tham của chúng ta là cái hố
không đáy; nó cao hơn trời, dày hơn đất, sâu hơn biển cả, nên mãi mãi
không thể lấp đầy.
Người không đạo đức mới thật
là kẻ nghèo cùng.
Nếu có người đến cầu Pháp,
tôi sẽ bảo người ấy nên ăn ít, mặc ít, ngủ ít một chút, vì lý do:
Mặc ít thì tăng phước. Ăn ít thì tăng thọ. Ngủ ít thì tăng lộc.
Con người sống không phải vì miếng
ăn mà sống để làm lợi ích cho xã hội, ban phước đức cho nhân dân,
và hỗ trợ cho thế gian. Người người phải: Thay Trời đem lòng từ bi
giáo hóa chúng sanh. Một lòng trung thành vì nước, cứu dân.
Suốt cuộc đời, tôi không bao giờ
bận rộn vì mình và cũng không bao giờ để ý đến bọc thịt thúi này.
Tại sao thế giới ngày càng băng
hoại ? Vì ai ai cũng tranh danh, tranh lợi, tranh quyền, tranh địa vị, và
nghiêm trọng nhất là tranh sắc dục.
Tôi muốn xin quý vị món quà lớn;
đó là tánh nóng giận, ngu si, phiền não, và những tâm sân hận của quý
vị.
Thiên tai không phải là thiên nhiên
gây tai nạn hay thiên nhiên gặp họa nạn, mà chính là tai họa nhân loại
chúng ta phải gánh chịu. Những tai họa đó chính do chúng ta tự tạo ra rồi
tự chuốc lấy.
Muốn phát triển Phật giáo, chúng
ta phải bắt đầu từ đâu ? Theo ý tôi, trước nhất phải bắt đầu từ
nền giáo dục. Nếu bắt đầu với giáo dục thì trẻ em sẽ hiểu rõ Phật
giáo. Đến khi khôn lớn, tự nhiên các em sẽ giúp cho Phật giáo được phát
triển rộng rãi.
Làm việc ma tức là ma. Làm việc
người tức là người. Làm việc Phật tức là Phật.
Hiện tại, tôi đang ở xứ MỸ. Tôi
hy vọng dân chúng xứ này đều y theo luật pháp và thay đổi những tập tục
xấu xa... Nếu hành theo luật pháp thì sẽ làm công dân tốt. Nếu dân
chúng trong một quốc gia đều là công dân tốt thì họ cũng là công dân tốt
của toàn thế giới.
Một trong những mục tiêu của nền
giáo dục là tuyển chọn nhân tài. Nhân tài là những ai ? Là những người
có trí huệ thông minh. Đối với những người chậm hiểu, chúng ta phải
cố gắng giúp họ khai mở trí huệ. Đó là mục đích chính.
Tôi muốn cống hiến một nền
giáo dục không những nối tiếp huệ mạng của chư Phật mà cũng nối tiếp
huệ mạng của chúng sanh.
Đã hàm thụ nền giáo dục lành mạnh,
sau khi ra trường, học sinh sẽ biết cách hành xử trong xã hội. Chúng sẽ
có khả năng tạo ảnh hưởng tốt để thay đổi tập quán trong xã hội.
Nhân loại gần đi đến chỗ diệt
vong ! Điều này không do thiên tai hoạn nạn mà do con người đã từ từ
quên dần nền luân lý đạo đức.
Tạo lỗi lầm trong sự giáo dục
nghiêm trọng hơn bịnh ung thư và nạn bom nguyên tử. Nền giáo dục bất
chánh sẽ vô hình chung giết chết thế hệ trẻ và khiến cho họ đánh mất
đi bản chất làm người, quên đi tâm linh, và không màng đến sanh mạng.
Con gái phải đợi đến hai mươi
tuổi mới được có bạn trai. Con trai phải đợi đến hai mươi lăm tuổi
mới có bạn gái. Bằng cách đó, thanh thiếu niên sẽ không bị hại. Nếu
có bạn trai hay bạn gái quá sớm, thì các em sẽ không thể trở thành người
học sinh giỏi và công dân gương mẫu. Các em phải làm người tốt và học
trò giỏi để có khả năng làm việc lành trong tương lai. Nếu gặt mạ sớm
trước khi chính mùi thì đó chỉ là đám mạ vô ích. Trong tương lai, nếu
con người phát triển tình dục sớm, thì thế hệ sau sẽ tệ hại hơn thế
hệ trước.
Trẻ em ở nước này xem tivi quá
nhiều. Kết quả, trước tuổi mười bảy mười tám, chúng đã biết hẹn
hò. Điều này thật tai hại vô cùng ! Chúng ta sẽ không có những nhân
tài trong tương lai, vì đa số những người đó sẽ là người đần độn.
Phải dạy trẻ em những nề nếp
giáo dục căn bản như không tranh, không tham, không tìm cầu, không ích kỶ,
không tự lợi, không nói láo, không uống rượu, không hút chích, không tà
dâm. Nếu làm được như thế thì vẫn còn hy vọng để thay đổi nền giáo
dục... Thật ra, nền quốc phòng căn bản nhất và triệt để nhất chính
là nền giáo dục. Nếu nền giáo dục không đúng đắn thì dẫu có vũ khí
quốc phòng gì cũng là vô ích... Nền giáo dục của đạo Phật là sự
giáo dục cứu vớt con người bảo tồn chân tánh, tâm linh, và sanh mạng.
Chúng ta đi khắp nơi đánh thức con người và thúc giục họ cải tiến nền
giáo dục, kéo thế hệ trẻ tránh khỏi bờ vực tiêu vong, và xoay chuyển
mối nguy hiểm diệt vong của nhân loại ở các quốc gia và trên toàn thế
giới.
Tất cả sự giáo dục không thể
tách rời từ chữ hiếu. Tách rời hiếu hạnh ra thì không còn nền giáo dục.
Trong trời đất có vô số bài học, nhưng thực sự chỉ có một bài học
Hiếu hạnh. Bài học này bao trùm tất cả sự học hỏi. Học hoàn mãn
bài học này thì những bài học khác cũng sẽ được hoàn tất.
Tất cả thầy cô giáo phải làm gương
cho học sinh qua hành động của mình. Phải ngay thẳng, chân thực, tự trọng,
và truyền đạt trí huệ cùng niềm hy vọng đến cho thế hệ sau. Chớ nên
tranh đấu hay biểu tình để thêm lương.
Tất cả mọi người đều là thầy
của tôi và tôi đều là thầy của tất cả mọi người. Tôi luôn luôn tự
dạy mình, và mình tự làm thầy cho chính mình.
Học hỏi không có bắt đầu hay chấm
dứt. Không có lễ tựu trường đầu niên học, ngày nghỉ lễ, ngày ra trường.
Dẫu ở nơi nào, tất cả đều là
trường học. Không có nơi nào mà không phải là nơi học hỏi. Không có
phút giây nào là lúc mà không học hỏi.
***
8. Đạo Phật và Phật Pháp [^]
Tông chỉ của Phật giáo là mọi
người ai ai cũng có thể thành Phật.
Chúng sanh trong hiện tại là cha mẹ
của chúng ta thuở quá khứ và là chư Phật trong tương lai. Nếu đối với
chúng sanh mà khởi tâm sân hận tức là sân hận với cha mẹ và chư Phật,
nghĩa là trở thành đứa con bất hiếu, ngỗ nghịch.
Tôi gọi đạo Phật là đạo của
chúng sanh, vì ai ai cũng là chúng sanh và không thể chạy ra khỏi hư không
hay Pháp giới. Thế nên, đạo Phật là đạo học của tất cả chúng sanh.
Tôi cũng gọi đạo Phật là đạo
của con người, vì tất cả mọi người đều có tư cách thành Phật. Chỉ
cần tu hành chuyên nhất thì cuối cùng chắc chắn ai ai cũng sẽ thành Phật.
Tôi lại gọi đạo Phật là đạo
của tâm, vì mọi người đều có tâm. Tu hành tức là dẹp trừ vọng tâm
và giữ chân tâm; có vọng tâm thì làm phàm phu; có chân tâm thì làm Phật.
Dâm dục là nguồn gốc của sanh tử.
Nếu không đoạn trừ dâm dục thì muốn sanh lên cõi trời cũng không được,
huống hồ là muốn chứng đạo Bồ Đề vô thượng ? Vì vậy, nếu muốn
tu pháp Thiền-định Tam Ma Đề, trước hết phải vượt qua cửa ải này.
Muốn phát tâm Bồ Đề, nhất định
phải nghe và học Phật pháp cho nhiều. Khi hiểu rõ Phật pháp rồi thì tự
nhiên sẽ phát tâm Bồ Đề.
Đạo Phật bao trùm khắp hư không,
Pháp giới. Tất cả chúng sanh đều có đủ Phật tánh và đều có thể
thành Phật. Hiện tại, nếu quý vị chưa tin tưởng Phật pháp thì tương
lai sẽ tin tưởng. Nếu trong tương lai quý vị vẫn chưa tin tưởng Phật
pháp thì trong kiếp sau sẽ tin tưởng. Không những nhất định quý vị sẽ
tin tưởng Phật pháp mà chắc chắn cũng sẽ thành Phật !
Chú Thủ Lăng Nghiêm là vua trong
các bài Chú và cũng là bài Chú dài nhất. Bài Chú này rất quan trọng đối
với sự thạnh suy của Phật giáo. Trên thế giới, nếu còn người trì tụng
chú Thủ Lăng Nghiêm thì Chánh Pháp sẽ còn tồn tại, bằng ngược lại thì
là Mạt Pháp. Chú Thủ Lăng Nghiêm là thần chú do hóa thân của đức Như
Lai từ ánh sáng trên đảnh đức Phật tuyên thuyết. Thế nên, diệu dụng
không thể nghĩ bàn; mỗi chữ đều hàm chứa biết bao diệu dụng thâm
sâu.
Thời Mạt Pháp, tất cả Thiên ma
ngoại đạo, ly, mỴ, vọng, lượng, yêu quái núi sông, v.v... sợ nhất là
thần chú Thủ Lăng Nghiêm, vì đây là thần chú phá tà hiển chánh.
Thời Chánh Pháp, người người đều
muốn tu hành. Ngược lại, vào thời Mạt Pháp, ai ai cũng không muốn tu
hành. Nếu mọi người đều tu hành thì đời Mạt Pháp chuyển thành đời
Chánh Pháp.
Phật pháp là gì ? Nói vắn tắt,
Phật pháp nghĩa là chìa khóa. Hiện tại tôi đang giảng Kinh, tức là giảng
về chiếc chìa khóa này. Hôm nay thuyết Pháp, nghĩa là thuyết về chiếc
chìa khóa này. Đây là chìa khóa trí huệ mở tung ống khóa vô minh.
Phật pháp vẫn còn tại thế gian.
Nếu chúng ta có thể dũng mãnh vượt ra khỏi dòng thác điên đảo, phát
tâm Bồ Đề rộng lớn, chí thành khẩn thiết mà tu trì Phật pháp, thì vẫn
còn có cơ hội thoát khỏi thế giới Ta Bà. Bằng ngược lại, chúng ta cứ
mãi xoay chuyển trong sáu đường không ngừng nghỉ, và vĩnh viễn không thể
thoát khỏi bao nạn khổ trong cõi này.
- Phật pháp vị tằng tự diệt
- Đạo đức ưng tu nhân bất tu
- Lão thật chân thành triệu vật cơ
- Hư ngụy giảo hoạt thọ bao ưu
- Cử thế ngũ trược thanh thậm tiên
- Chúng sanh tam túy tỉnh vô thu
- Bàn cần ký ngữ tăng thanh bối
- Triển hưng ngô giáo tại tỳ kheo.
Tạm dịch:
- Phật pháp chưa từng tự diệt mất
- Đạo đức nên tu, người chẳng tu
- Thành tâm chân thật bị người cười
- Hư ngụy gian trá được khen ngợi
- Đời năm trược người thanh tịnh hiếm
- Chúng sanh say tỉnh chưa hề chán
- Đôi lời khuyên nhủ Tăng hậu bối
- Triển hưng Chánh Giáo nơi Tỳ Kheo.
Hiện nay Phật giáo tại Tây Phương
mới vừa phát triển. Chớ khiến Chánh Pháp của Phật giáo ở nơi đây trở
thành thời Mạt Pháp. Nhất định phải hỗ trợ Chánh Pháp thường trụ lại
thế gian; nghĩa là gì ? Nếu chân thật tu hành, không háo danh lợi hư giả
và tham sự cúng dường thì Chánh pháp sẽ được trụ lại thế gian mãi
mãi. Nếu mỗi người xuất gia đều trì giới không giữ tiền, thường ngồi
tọa thiền, mỗi ngày dùng một buổi, luôn luôn đắp y ca sa, và nghiêm thủ
giới luật thì Chánh Pháp sẽ trụ lại thế gian mãi mãi. Điều này cũng
có nghĩa là thực tiễn hành trì theo lời Phật dạy. Nếu muốn hỗ trợ
Phật giáo, chính mình phải hoằng dương Phật pháp; dùng thân làm gương mẫu
cho người; chú ý vào bốn oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi; nghiêm trì năm
giới; dùng bốn tâm vô lượng như từ, bi, hỶ, xả để cứu độ chúng
sanh. Lại nữa, phải dùng sáu tông chỉ chính như không tranh, không tham,
không cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo để làm tiêu chuẩn
mực thước cho ngôn hạnh. Nếu y theo những pháp tắc đó mà tu hành thì dẫu
ở nơi nào quý vị cũng đều hoằng dương Phật pháp, và không để đời
mạt pháp xuất hiện.
***
9. Trí Huệ [^]
Chí công vô tư là Chánh Pháp. Ích
kỶ, tự lợi là tà pháp.
Làm thế nào để diệt trừ tâm
sân hận do vô minh sai khiến ? Phải tu pháp môn Nhẫn Nhục Ba La Mật; nghĩa
là tuyệt đối không nên khởi tâm nóng giận, vì đây là điều rất quan
trọng. Nếu không khởi tâm nóng giận thì sẽ phát sinh trí huệ.
Đời Mạt Pháp, người người đều
phạm một lỗi lầm chung là quá cao ngạo; nghĩa là lấy tai thay mắt; nghe
có điều gì hay thì liền chạy đuổi theo.
Chúng ta, những người tin Phật pháp,
chớ nên lạc vào lưới mê tín. Mê tín là gì ? Là tin bậy, tin cuồng, tin
một cách mê muội, như tin tưởng ngay những lời người khác vừa nói.
Tại sao chúng sanh lại mê lầm điên
đảo ? Vì nhận lầm vô minh là ông chủ và tống khứ trí huệ đi mất. Vô
minh đưa ra mệnh lệnh: Cho việc đúng là sai; cho việc trái là phải.
Từ trong Thiền định, hãy gạn lọc
tâm tư, trừ bớt tham dục, để giúp trí huệ nảy sanh.
Những ai thường thích khởi tâm
nóng giận đa số là những kẻ ngu si, vô minh nặng nề, không trưỡng dưỡng
chút công phu nào.
Vọng niệm là tâm niệm hư dối không
chân thật. Kẻ thường khởi vọng tưởng điên đảo chính là kẻ tuy biết
rõ việc đó không đúng, nhưng vẫn cố làm, rồi xảo quyệt biện luận
cho là đúng.
Nếu quý vị thường hồi quang phản
chiếu (xoay lại ánh sáng tự tâm), thấy rõ tự tánh, khiến phát sanh trí
huệ Bát Nhã, thì đó là tạo công. Ứng dụng trí huệ Bát Nhã mọi nơi mọi
chốn, xoay chuyển biến hóa không cùng tận, nhưng không nhiễm trước, không
tạo những việc bất tịnh, thì đó là lập đức.
Thật ra, trí huệ Bát Nhã của kẻ
ngu và người trí vốn không khác biệt. Có sai khác là kẻ ngu thì không biết
dùng trí huệ, còn người trí thì biết vận dụng nó.
Nếu không chấp trước trong ngoài
thì đến và đi đều được thong dong tự tại, cũng như biết được mình
từ đâu đến và sẽ đi về đâu. Đến có thể nói là trở về; nghĩa là
trở về lại chân tâm. Đi tức là đi đến Pháp giới.
Nếu quý vị chấp trước vào việc
có đến, có đi thì sẽ bị chướng ngại, mất tự do.
Nếu có trí thì tâm của quý vị sẽ
giống như ánh mặt trời; nếu có huệ thì tâm sẽ tựa như vầng trăng.
Hy vọng được khai ngộ hoặc hy vọng
được thành Phật đều là những vọng tưởng điên rồ. Mọi người phải
nhớ: Chỉ cầu tu hành mà không cầu những hy vọng hão huyền.
Nếu Bồ Tát có thần thông mà
không thị hiện thì có thần thông để làm gì ? Bồ Tát dùng thần thông
để giáo hóa chúng sanh như dựng cây để thấy hình, khiến họ sanh lòng
tín ngưỡng. Thế nên, được lợi ích hai chiều. Đó là pháp môn phương
tiện thiện xảo.
Quý vị hãy chú ý ! Ma cũng hiện
thần thông, khiến những kẻ tham cầu thần thông và không có Định lực
sa vào cạm bẫy, bỏ mất Đạo nghiệp, để trở thành quyến thuộc của
ma. Thế nên, ai ai cũng phải đặc biệt chú ý cẩn thận.
Người nào muốn có thần thông
thì trước hết phải xả bỏ muôn sự, chuyên tâm tham Thiền tĩnh tọa. Đến
khi công phu chín muồi thì tự nhiên có thần thông. Thần thông không phải
là việc có thể tìm cầu ở bên ngoài, mà chỉ có được khi nội tâm
chúng ta đã chứng đắc.
Nhìn thấu suốt, xả bỏ, tự tại.
Nhìn thấu suốt tức là hiểu vấn đề một cách rõ ràng. Xả bỏ tức
là giải thoát. Chỉ khi đạt được giải thoát rồi mới có được sự tự
tại chân chánh.
Học Phật pháp thì cần phải dùng
trí huệ chứ không thể dùng tình cảm. Dùng trí huệ để tu học Phật pháp
thì đó là sống trong đời Chánh Pháp. Dùng tình cảm tu học Phật pháp
thì đó là sống trong thời Mạt Pháp.
Nhiều người nghĩ rằng đời người
là sung sướng. Thật ra, những sự vui sướng ấy đều là giả dối. Niềm
vui chân thật phải được tìm từ tự tánh, chứ không phải đến từ bên
ngoài.
***
10. Gia Phong của chùa Vạn Phật Thành [^]
Chùa Vạn Phật Thành có 6 tông chỉ
chính để làm mục đích tu hành, bao gồm: Không tranh, không tham, không cầu,
không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo. Nếu hiểu rõ được chân nghĩa
của sáu tông chỉ chính đó thì việc quý vị đến chùa Vạn Phật Thành
không uổng công.
Sáu tông chỉ chính đó vốn là
sáu con đường sáng ngời, sáu loại trí huệ, sáu chày hàng phục ma quân,
và sáu tấm kính chiếu yêu quái.
Không tranh, không tham, không cầu,
không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo là đạo lý căn bản làm người,
là nền tảng của sự tu hành, và là tiêu chuẩn cho chánh trị.
Bước đầu tu học Phật pháp
chính là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi,
không nói láo. Nếu nhớ rõ sáu tông chỉ chính đó, thì có thừa khả năng
thành Phật.
Tôi giảng về sáu tông chỉ chính
cho những ai muốn thành Phật, muốn thành Bồ Tát, muốn thành Thanh Văn, A
La Hán. Đó là những tông chỉ rất quan trọng. Nếu thực sự hành theo
thì dẫu có dùng suốt đời cũng không hết!
Nếu muốn làm người Phật tử chân
chánh, nhất định phải không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ,
không tự lợi, không nói láo. Ngay từ thuở nhỏ, tôi đã từng y theo sáu
con đường sáng: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự
lợi, không nói láo. Dẫu là việc gì, nếu người khác thích thì tôi
không thích. Nếu người khác không thích thì tôi lại thích. Đó là cách của
tôi. Quý vị có thể hành được không ? Nếu hành được thì tôi chúc mừng
quý vị đã làm một Phật tử tốt.
Sự tu hành chân chánh là không
tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo. Nếu
giữ chắc được sáu tông chỉ chính đó thì quý vị mới là người Phật
tử chân chánh. Nếu không muốn bước đi trên sáu con đường lớn đó, e
rằng quý vị khó làm những điều lợi ích cho Phật pháp.
Sao gọi là Giới Luật ? Giới Luật
chính là: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi,
không nói láo. Chớ tìm kiếm Giới Luật trong Luật Tạng. Những giới luật
này ai ai cũng có khả năng hành được.
Điểm trọng yếu của Phật pháp
là gì ? Chính là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự
lợi, không nói láo. Ngày ngày, hãy dùng sáu tông chỉ chính để đo lường
hành vi của mình. Nếu chưa đúng tiêu chuẩn, phải lập tức sửa đổi.
Khi không còn lỗi lầm và chỉ có công đức thì mới được xem là người
Phật tử. Đó là những tông chỉ chính của chùa Vạn Phật Thành mà tôi
hy vọng mọi người nên tuân thủ, để được khai ngộ và thành Phật.
Nếu muốn tu học trí huệ chân
chánh, việc đầu tiên là phải đoạn trừ ái dục. Làm thế nào để đoạn
trừ ái dục ? Phải đoạn trừ bằng cách: Không tranh, không tham, không cầu,
không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo. Sáu tông chỉ chính là pháp bảo
đoạn trừ ái dục và khiến đạt được trí huệ chân chánh.
Sao gọi là tà kiến ? Nếu tranh
đua, tham lam, mong cầu, ích kỶ, tự lợi, và thường nói láo thì là tà kiến.
Đã từng tu học Phật pháp qua bao
thập niên mà vẫn còn tâm tham tiền của, cầu danh cầu lợi ! Không ngừng
tham lam và tranh đua. Đó chỉ vì không hiểu cách tu học Phật pháp, bằng
không thì đâu có thích chúng.
Trong việc tu Đạo, nhất định phải:
Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói
láo. Chỉ khi đó mới có chánh tri chánh kiến và có khả năng tu đạo. Nếu
không tu sáu tông chỉ chính đó mà lại bảo rằng là người tu hành, thì
là điều càn gỡ.
Nếu có tâm tranh đua, tham lam, cầu
danh lợi, ích kỶ tự lợi, không nói lời chân thật, tuyên truyền quảng
cáo để người khác sùng bái, thì nên biết người đó bị lạc vào cảnh
ma.
Nếu không tranh, không tham, không cầu,
không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo, thì Chánh Pháp trụ lại thế
gian.
Mục tiêu chính của chúng ta là dừng
mọi hoạt động của tâm tranh đua, tham lam, mong cầu, ích kỶ, tự lợi,
và nói láo. Lúc đó, trí huệ hiện trước mặt, phóng ánh hào quang chiếu
tan màng vô minh tăm tối, và khả dĩ thấy tâm rõ tánh, cũng như đạt đến
mục đích tu hành.
Không tranh, không tham, không cầu,
không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo được xem là chân tâm. Khi dụng
tâm chân thật thì sẽ dẹp trừ được mọi nghiệp chướng. Nếu tâm
không chân chánh thì nghiệp chướng luôn bén theo gót.
Nếu cẩn thận tôn thủ giới
không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói
láo thì mười phương chư Phật thường đến gia trì, hộ niệm, và ban phước
lành cho quý vị.
Làm thế nào để tránh phiền não
? Phương thức thật đơn giản là không tranh, không tham, không cầu, không
ích kỶ, không tự lợi, không nói láo. Nếu làm được như thế thì sẽ
ngăn hết mọi hữu lậu và hàng phục được phiền não.
Tại sao vẫn chưa được tự tại
vô ngại ? Chỉ vì vẫn còn tâm tranh đua, tham lam, mong cầu, ích kỶ, tự lợi,
nói láo, nên chưa được tự tại.
Nền khoa học chân chánh là gì ?
Không tranh đua là khoa học. Không tham lam là khoa học. Không mong cầu là
khoa học. Không ích kỶ là khoa học. Không tự lợi là khoa học. Không nói
là khoa học.
Những ai làm công tác phiên dịch
kinh điển nhất định phải hành phù hợp với sáu con đường sáng lớn:
Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói
láo.
Nếu muốn quốc gia thái bình an lạc,
nhất định phải dùng sáu tông chỉ chính, hay sáu tiêu chuẩn chính. Đó
là những phương pháp tốt nhất để chuyển dòng vận mạng.
Nếu muốn hỗ trợ thế gian, việc
trước nhất phải: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỶ, không
tự lợi, không nói láo. Phải tự làm gương tốt cho người khác noi theo.
Nhờ cách đó mà thế giới sẽ ngày một được hòa bình an lạc.
Dẫu là ngành nghề nào, tông nào,
phái nào, tôn giáo nào, nếu tận lực mang lại lợi ích cho người khác
mà không tự lợi, thì đó là chân chánh. Nói rõ hơn, nếu người nào biểu
diễn giúp kẻ khác trên bề mặt, nhưng lại hy vọng đạt được vài điều
như dẫu không tham tiền tài mà lại tham sắc dục, dẫu không tham sắc dục
mà lại tham danh vọng lợi lạc, thì đó là người giả dối.
Tôi đã giải thích cho quý vị bằng
cách này và cách nọ, nhưng chỉ là việc cũ thôi. Đạo lý tuy bình thường
nhưng quý vị khó lòng thực hành được. Nếu đã hành được thì đã
thành Phật từ lâu rồi. Nếu quý vị thật sự hành theo sáu tông chỉ
chính đó và nếu không thành Phật thì tôi nguyện sẽ ở mãi trong địa
ngục không bao giờ ra. Tôi bảo đảm chắc thật với quý vị rằng những
ai tu hành theo sáu tông chỉ chính đó, trong tương lai nhất định sẽ thành
Phật.
1/ Không
Tranh
Nếu không tranh hơn thua, quý vị sẽ
không giết hại. Gây nghiệp giết hại chỉ vì tâm tranh đua tác quái. Khi
bắt đầu tranh hơn thua, quý vị có thái độ tránh ra khỏi chỗ này, bằng
không thì sẽ chết. Con người giết hại lẫn nhau nhiều vô kể cũng chỉ
vì tâm niệm đó.
Đối với người tu hành, phải cẩn
trọng mà không tranh đua với người. Chớ nên tranh hùng tranh bá. Chớ nên
có tâm nóng giận, Nếu được như thế thì sẽ chặt đứt đường A Tu
La.
Tại sao con người không sống hòa
bình với nhau trên thế giới ? Bởi vì họ tranh đua và cướp đoạt lẫn
nhau, chứ không bao giờ biết nhường nhịn lẫn nhau. Do đó, chiến tranh bộc
phát, tạo thành bi kịch nước mất nhà tan.
Lý do ma trở thành ma là vì chúng
có tâm ganh đua giành hạng nhất. Có câu: Do có tâm thắng bại nên mới
tranh hơn thua. Điều này trái ngược với đạo lý; nếu khởi bốn tướng
(nhân, ngã, chúng sanh, thọ giả), thì làm sao đắc thiền định tam muội ?
Khi không tranh được làm bậc nhất, ma liền khởi tâm sân hận, ganh ghét,
đố kỴ, chướng ngại. Bất cứ ai có những tâm niệm hay hành vi đó
chính là ma và không bao giờ có thể thành Phật.
Người tu hành không tranh hơn thua với
thế nhân. Mọi người đều cùng nhau dụng công tu đạo. Nếu có ai dụng
công tu đạo thì người đó cũng giống như mình đang hành vậy. Suy nghĩ
như thế thì sẽ không có tâm niệm tranh làm người giỏi nhất.
Nếu không tồn giữ tâm niệm tranh
đua thì sẽ đoạn tuyệt sự qua lại với loài A Tu La. Nếu không tham lam
thì sẽ đoạn tuyệt việc qua lại với loài súc sanh.
Chúng ta không nên tranh hơn thua với
người. Dẫu quý vị có tranh hơn thua, tôi vẫn không tranh. Dẫu có bị
quý vị chửi mắng, tôi vẫn không chửi lại. Dẫu bị quý vị đánh đập,
tôi vẫn không đánh lại. Dẫu bị quý vị bức hiếp bắt nạt, tôi vẫn
không bức hiếp bắt nạt lại quý vị. Đây là tông chỉ nhất quán ở Vạn
Phật Thành.
2/ Không Tham
Lam
Nếu không tham lam thì sẽ không ăn
cắp. Tại sao muốn đi ăn cắp vật của người ? Chỉ vì tham lam. Nếu
không tham lam, dẫu người khác có cho vật gì, quý vị cũng không màng đến.
Thế nên, để tránh gieo nghiệp trộm cắp quý vị phải dẹp trừ tâm
tham.
Người Phật tử phải chịu đựng
đói khát, nóng lạnh. Nếu được như thế thì sẽ tương ưng với Phật
pháp. Chớ tham ăn ngon, mặc đồ đẹp, hay sống nơi sang trọng. Chớ tham
hưởng thụ. Thọ khổ thì hết khổ. Hưởng phước thì hết phước.
Chớ nên tham cầu danh vọng hão huyền.
Trong từng hành động cử chỉ, phải luôn luôn tiến bước đến chân lý.
Đó mới là đặc tánh của người Phật tử chân chánh.
Người Phật tử chúng ta phải có
trạch pháp nhãn. Chớ nên tham mặc cả hay cầu cảm ứng. Chớ dùng tâm
tham lam mà cầu học Phật pháp. Hôm nay nghe người này nói Hiển-tông hay
thì muốn học Hiển giáo. Ngày mai nghe người khác nói Mật-tông tốt, lại
đi đến đó học. Tu học suốt cuộc đời mà không giữ vững lập trường,
chuyên tâm nhất ý, thủ trì chữ Nhất (một), nên cuối cùng lãng phí cả
cuộc đời.
Phải xem sự tu hành như bổn phận
mà không tham cầu. Chẳng bao lâu, công đức tự nhiên tròn đầy và quả Bồ
Đề cũng tự nhiên thành tựu.
Phải dụng công tu hành tự nhiên.
Chớ tham lam và cầu hỏi có được công xảo hay hiệu quả gì chăng. Chớ
khởi tưởng gì cả. Chỉ việc tiến bước dụng công và sửa đổi tập
khí mỗi ngày.
Dẫu tu hành pháp môn gì: Niệm Phật,
trì chú, học giáo lý, trì giới luật, tham Thiền, v.v..., đều không nên
tham cầu mau chứng đắc. Nếu muốn như thế, thì đó là một dạng của
tâm tham. Một khi có tâm tham thì sẽ làm chướng ngại cho trí huệ linh cảm,
tự tánh sáng suốt, vì chúng không có tâm tham. Có tâm tham cũng giống như
bụi dính tấm gương. Người tu hành nhất định phải hiểu rõ điều này.
Chớ tham lam nhiều; chớ tham mặc cả.
Kẻ có tâm tham không bao giờ được
an lạc. Ngược lại sẽ có niềm vui. Do đó, phải ngừng tâm tham.
Có bao nhiêu người chỉ vì khởi
tâm tham mà thân bại danh liệt ! Có bao nhiêu người vì tâm tham đó mà khiến
cho nước mất nhà tan ! Tâm tham này hại biết bao người, nên phải cẩn
trọng đề phòng.
Tại sao bị cảnh chuyển ? Chỉ vì
có tâm háo kỳ. Tâm háo kỳ là một dạng của tâm tham.
Một khi tâm tham nổi lên rồi thì
tham lam không chán. Dẫu là tiền tài hay vật chất, lúc đó quý vị luôn cảm
thấy không đủ. Càng tham nhiều chừng nào thì càng cảm thấy không thỏa
mãn chừng ấy. Càng chưa thỏa mãn thì lại càng tham nhiều thêm. Tham lam
cho đến già mà vẫn chưa thức tỉnh, để rồi bị lòng tham đó hại cả
cuộc đời. Đến lúc chết, quý vị vẫn cảm thấy là chưa đạt được
điều gì và vẫn còn hối tiếc. Thật đáng thương thay ! Tông chỉ chính
thứ hai ở Vạn Phật Thành là không tham lam tiền tài, lợi lộc, hoặc
danh vọng. Nói chung, không nên tham lam bất cứ điều gì. Mỗi cá nhân chỉ
nên giữ bổn phận hoằng dương Phật pháp, nối tiếp huệ mạng của chư
Phật.
Tôi có tập tánh kỳ quái. Những
gì người khác muốn thì tôi lại không muốn. Những gì người khác tham cầu,
tôi lại không tham cầu. Những gì người khác thích, tôi lại không thích.
3/ Không Mong
Cầu
Nếu không mong cầu, thì không có
tâm niệm tà dâm. Tâm niệm tà dâm nổi lên chỉ vì còn mong cầu. Con gái
tìm bạn trai. Con trai tìm bạn gái. Không những đi tìm, họ còn truy cầu
như thể không có việc gì quan trọng hơn. Nếu không có tâm mong cầu thì
làm sao có tâm tà dâm ? Thanh nam tú nữ có gì là tốt ? Tất cả chỉ là bọc
da hôi chứa thịt thúi. Chúng có đáng để tham đắm không ? Nếu không
mong cầu thì không phạm giới tà dâm.
Dẫu dụng công gì, chúng ta vẫn chưa
cùng đạo tương ưng; tựu chung, chúng ta chưa bước lên đường lộ được.
Tại sao ? Bởi vì chúng ta vẫn còn vọng tâm hư vọng giả dối. Chúng ta
nhắm đến mục đích quá cao xa và thường cầu danh trục lợi; đó là những
vọng tâm.
Ra ngoài tìm cầu niềm vui từ sáng
đến tối. Nếu tầm cầu được thì chỉ là niềm vui tạm bợ. Nếu
không tầm cầu được thì sẽ có bao phiền não. Lòng tham không chán. Hy vọng
đạt được, rồi lại lo lắng sợ mất khi đã đạt được. Đó là niềm
vui giả dối. Niềm vui chân thật không đến từ sự tìm cầu. Đạt đến
nơi không mong cầu thì không còn ưu phiền. Nếu không còn mong cầu thì
chính là niềm vui chân thật và niềm an lạc chân thật của tự tánh.
Mong cầu gần giống như tham lam.
Tham lam thì trừu tượng và vô hình. Mong cầu có nghĩa là thật sự ra
ngoài phan duyên cầu cạnh bằng cách dùng mưu mô thủ đoạn. Mong cầu những
gì ? Mong cầu tiền tài vật chất. Nói chung, mong cầu tất cả sự lợi lộc.
Ở Vạn Phật Thành, chúng ta hướng vào trong tâm mà tìm cầu, chứ không hướng
ngoại. Chúng ta tìm bên trong tâm để quét sạch mọi vọng tưởng, tánh
hoang, tâm cuồng, đố kỴ, chướng ngại, tham, sân, si, v.v... Chúng ta không
đánh phấn thoa son bên ngoài mà chỉ trang nghiêm và thanh tịnh hóa bên
trong tâm niệm. Có câu: Người tu hành đạt đến nơi không còn tâm mong cầu
thì phẩm cách tự nhiên cao thượng. Khi không mong cầu bất cứ việc gì từ
người khác, phẩm cách của chúng ta tự nhiên cao quý thanh tịnh, không
còn những vọng niệm cấu bẩn.
4/ Không Ích
KỶ
Nếu không ích kỶ thì không nói
láo. Vì sợ mất lợi nên con người thường nói láo. Do lòng ích kỶ tràn
ngập, họ lường gạt và nói láo với hy vọng che dấu bộ mặt thật.
Trên căn bản, chỉ có một điều
giới: Không ích kỶ. Nếu ai ích kỶ, chính họ đã phạm giới, bằng ngược
lại thì không phạm. Cũng như thế, nếu ai ích kỶ, họ sẽ phạm luật
pháp, và ngược lại thì không phạm.
Tâm chân chánh chính là tâm không
ích kỶ, bằng ngược lại thì là tâm tà vạy.
Tại sao chúng ta không nhận ra bộ
mặt thật xưa nay của mình (bản lai diện mục) ? Bởi vì chúng ta chưa trừ
được ngã tướng và tâm ích kỶ. Nếu không có ngã tướng và tâm ích kỶ
thì chúng ta sẽ nhận diện bộ mặt thật của mình xưa nay.
Người thế gian luôn luôn bận rộn,
chạy đôn chạy đáo. Động cơ của họ xuất phát từ tâm ích kỶ. Họ
chỉ muốn bảo vệ tánh mạng và tài sản riêng tư. Ngược lại, Phật pháp
là giáo pháp chí công vô tư, với mục đích mang lại sự lợi ích cho mọi
người.
Lúc tu đạo, phải xoay chuyển trở
lại; nghĩa là gì ? Tức là ban cho người điều tốt và giữ điều xấu
cho mình. Chúng ta xả bỏ tiểu ngã để hoàn thành đại ngã.
Kẻ xấu xa là hạng người gì ? Đó
là hạng người ích kỶ, tự lợi, và quên nghĩa khi thấy lợi lạc.
Tại sao con người trên thế giới
thối đọa đến mức độ này ? Vì ai ai cũng quá ích kỶ. Đối với những
việc mang lại lợi ích cá nhân, họ sẽ tranh làm trước nhất. Ngược lại,
nếu những việc gì không mang lại lợi ích cá nhân, họ sẽ khoanh tay đứng
một bên mà nhìn, hoặc nói những lời chế nhạo mỉa mai với thái độ
đứng nơi an toàn mà nhìn đám lửa cháy rực ngập trời. Có rất nhiều
loại ích kỶ như ích kỶ về địa vị, ích kỶ về danh dự, ích kỶ về
quyền lợi, ích kỶ về tiền bạc. Nói rõ hơn, nếu ai chỉ lo cho chính
mình mà không màng đến người khác, chỉ vì tâm ích kỶ của họ hiện
hành. Có câu: Đại Bồ Tát không lo cho người. Phật Di Đà chỉ lo cho
mình. Đó là cách suy nghĩ của những người Tiểu Thừa. Nhà Nho cũng có
câu: Mỗi người tự quét tuyết trước cửa nhà, chớ màng băng đóng
trên ngói nhà của người khác. Đó là thái độ chẳng màng gì đến việc
của người khác. Sống trên thế gian, con người phải giúp đỡ lẫn nhau.
Đó là lý do tại sao chúng ta phải đề xướng tư tưởng Đại Thừa và học
theo tinh thần Bồ Tát như nghe có chúng sanh khổ nơi nào thì đến nơi đó
để cứu độ họ. Chúng ta chớ nên vui sướng hả hê về những vận xấu
của người khác. Nếu người thế gian không ích kỶ, thì ai ai cũng sống
hòa thuận với nhau như một đại gia đình. Tuy nhiên, do tâm ích kỶ,
chúng ta tạo biết bao vấn đề với nhau. Do đó, không ích kỶ là tông chỉ
chính thứ tư ở Vạn Phật Thành.
5/ Không Tự
Lợi
Nếu không tự lợi thì không phạm
giới uống rượu. Tại sao con người thích uống rượu. Vì họ muốn phá
thân và làm rối loạn tâm tánh của mình, tự tạo mê muội đến độ tưởng
mình như ông trời hay tiên thánh đang hưởng thú vui trên cõi trời. Một
khi say sưa, họ tùy tiện chửi mắng người và tăng trưởng lửa dâm dục.
Có vài người uống rượu vì muốn kích thích khí huyết. Sau khi uống
xong, họ quên đi tất cả. Uống rượu say sưa cũng giống như nghiện thuốc
phiện. Tất cả chỉ vì muốn tự lợi nên họ mới uống rượu.
Tông chỉ này còn quan trọng hơn tông
chỉ thứ tư Không Ích KỶ. Chẳng có ai mà không muốn tự lợi. Tuy nhiên,
con người phải tự kiềm chế việc mong cầu tự lợi để thế giới được
tốt hơn. Không tự lợi nghĩa là quên mình mà làm việc lợi ích cho người
khác. Đó là quên mình vì người. Đó cũng là tinh thần của chư Bồ Tát.
Bồ Tát tự làm lợi cho mình và cũng mang lại lợi ích cho người; tự độ
mình và cũng độ người; tự giác ngộ và cũng giúp người giác ngộ như
mình. Chúng ta không nên tự lợi, mà chỉ làm lợi ích cho người, cứu độ
người, và giúp người giác ngộ.
Khi có khả năng, chúng ta nên mau
chóng làm lợi ích cho người. Có câu: Trao dồi đất tâm và trưỡng dưỡng
đức tánh trong trời đất. Nếu thường làm lợi ích cho người, thì chẳng
bao lâu chính mình sẽ có đức hạnh. Nếu luôn luôn cầu mong người khác
làm lợi cho mình mà tự không làm lợi cho người, hoặc nếu luôn tìm
cách mặc cả và nuôi dưỡng tâm Ỷ lại, thì chúng ta thật là nhu nhược.
Nếu có khả năng làm lợi ích cho
người và khiến họ vui vẻ, dẫu đi đến đâu, ai ai cũng cảm mến
gương tốt của mình.
Khi học sinh bắt đầu học cách
làm người, chúng ta phải dạy chúng rằng chớ huân tập tâm ích kỶ và
chớ chú trọng về tiền tài. Người xưa học tập chỉ vì muốn hiểu đạo
lý. Người đời nay học tập chỉ vì danh lợi do muốn danh thơm lợi nhiều.
Tại sao ? Vì trường học dạy học sinh theo những phương pháp sai lầm. Do
đó, thế giới ngày một suy đồi.
Người thường nghĩ cách làm lợi
ích chúng sanh chính là Bồ Tát. Kẻ thường nghĩ tư lợi chính là quỶ ma.
Bồ Tát chỉ biết có người khác mà không biết đến mình. QuỶ ma chỉ
biết có mình mà không màng đến người khác. Bồ Tát và quỶ ma đối
ngược với nhau.
6/ Không Nói
Láo
Nghĩa là không có chủ tâm lường
gạt người khác. Tại sao con người lại nói láo ? Vì họ sợ mất đi sự
lợi lạc cá nhân, nên mới nói láo. Nếu thường dùng chân tâm để đối
đãi với người, chúng ta tự nhiên sẽ giữ được giới không nói láo.
Một khi không nói năng thì thôi, chứ
đã nói rồi thì phải luôn nói những lời chân thật. Chớ bao giờ nói những
lời lường gạt người khác. Dẫu trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng
phải nói những lời chân thật và giữ miệng tránh nói láo từng giờ từng
khắc.
Mọi người phải nên nói những lời
chân thật. Dù bị đánh đập, mắng chửi, cũng cứ nói những điều chân
thật mà không sợ sệt. Xin thưa với quý vị rằng tôi là người ngay thẳng.
Tôi là người lập mạng ngay thẳng trung trực và không mong cầu những điều
xiểm khúc quanh co. Có ai muốn phạt tôi thì cứ phạt, chẳng sao đâu. Nếu
bị hành hạ, tôi vẫn nói những lời chân thật và cũng không oán trách
ai, vì nghĩ điều đó rất đáng để nói. Trong sự tu hành, tôi không bắt
người khác nhất định phải tin những gì tôi nói ra. Tôi chỉ tận tâm cố
gắng nói lời chân thật cho dù họ có tin tưởng hay không.
Tại sao người tu hành không tiến
bộ trên bước đường tu đạo ? Vì họ nói láo quá nhiều. Khi nói láo một
lời, hàng trăm vọng tưởng nói láo khởi lên.
Nếu nói láo, thì tụng chú gì hay
đọc kinh gì cũng vẫn không linh nghiệm. Nếu muốn tụng kinh, niệm được
cảm ứng hay thành tựu, điều tiên quyết là chớ nên nói láo. Phải luôn
nói lời chân thật ngay thẳng mà không nói láo hay nói những lời thêu dệt.
Tại sao giới Không nói láo được
đặt trong sáu tông chỉ chính ? Vì để nhấn mạnh thêm. Nếu phạm một
trong năm tông chỉ bên trên, quý vị sẽ nói láo, còn ngược lại thì
không phạm. Do đó, không nói láo là giới điều căn bản cho người tu học
Phật pháp.
Tôi không bao giờ nói láo dù ở nơi
nào. Tôi cố gắng làm người chân thật; nói và làm những điều chân thật,
chứ không dùng thủ đoạn để đối xử với người và giải quyết sự
việc. Nếu muốn nói điều gì, tôi vẫn cứ nói cho dầu ở đâu mà không
sợ người khác phiền lòng. Nếu có việc mà tôi không muốn nói, thì ở
nơi đâu, tuyệt đối tôi sẽ không nói láo hay lường gạt người khác.
Sáu tông chỉ chính đó vốn là biệt
danh của năm giới. Thật ra, ai ai cũng đã từng nghe qua và hiểu rõ, nhưng
ít ai chịu hành trì thực tiễn. Đó là lý do tại sao tôi lại nhắc nhở
mọi người rằng: Không tranh nghĩa là không giết hại; không tham nghĩa là
không ăn cắp; không tìm cầu nghĩa là không tà dâm; không ích kỶ nghĩa là
không nói láo; không tự lợi nghĩa là không uống rượu.
11.
Ba Đại Tông Chỉ [^]
Tông chỉ nhất quán của Tổng Hội
Phật Giáo Pháp Giới là:
- Dù rét chết, không phan duyên.
- Dù đói chết, không xin xỏ.
- Dù nghèo chết, không cầu cạnh.
- Tùy duyên không đổi, không đổi tùy duyên.
- Chúng ta phải giữ gìn ba đại tông chỉ ấy.
- Xả mạng vì Phật sự.
- Tạo mạng vì bổn sự.
- Chánh mạng vì Tăng sự.
- Hiểu sự rõ lý, hiểu lý rõ sự.
- Tấn hành nhất phái tâm truyền của Tổ Sư.
Bàn về sự tu hành, tôi cảm thấy
rằng người xuất gia không nên: 1/ Đi vòng vòng mà phan duyên với những
người giàu sang quyền quý; 2/ thường thường ra ngoài hóa duyên xin xỏ;
3/ việc gì cũng cầu cạnh người khác giúp đỡ.
Dù rét chết, không phan duyên: Câu
này miêu tả suốt cuộc đời tu hành của tôi. Khi còn ở vùng Đông Bắc
(Mãn Châu, Trung Quốc), dẫu là mùa đông hay mùa hè, tôi luôn mặc ba lớp
áo; một lớp ở bên trong, cộng với lớp trên là một tấm y rách nát với
nhiều miếng vải vá chồng lên nhau. Lúc đó tôi có cảm thấy lạnh không
? Dĩ nhiên là có. Tuy nhiên, tại sao tôi lại cương quyết hành trì như thế
? Vì tôi muốn hành theo phương châm: Dù rét chết, không phan duyên.
Dù đói chết, không xin xỏ. Lúc
còn tu hành ở động Quán Âm trên núi Phù Dung tại Hồng Kông, có lần
trong suốt hai tuần lễ tôi nhịn đói vì không có thức ăn gì cả. Lúc đó,
tôi ngồi thiền trong động và chuẩn bị nhịn ăn mà chết. Đương thời,
dưới núi có ông cư sĩ Lao Khoan Thánh với biệt danh là Bổn Địa Pháp Sư
(Thầy pháp địa phương). Bồ Tát Vi Đà ba lần báo mộng cho ông ta: Ở động
Quán Âm có một vị pháp sư hiệu là An Từ. Ông nên đến đó để cúng dường.
Do đó, ngày hôm sau, vị cư sĩ này mang hơn ba mươi cân gạo và bảy mươi
đồng để cúng dường tôi. Ba bốn tháng trước đó, ông bị chó cắn
chân. Các thầy thuốc và bác sĩ Đông-y lẫn Tây-y tuy chữa trị cho ông ta
nhưng vết thương đó vẫn chưa lành trong suốt mấy tháng trường, khiến
họ đều bó tay. Bồ Tát Vi Đà thích xen vào chuyện của người khác, nên
báo mộng, bảo ông ta: Hãy đem đồ đến cúng dường cho vị Pháp Sư ở
động Quán Âm thì bịnh chân sẽ được lành. Do tin tưởng điềm báo mộng
đó, nên ông ta đem gạo và tiền đến cúng dường. Bấy giờ, ở trong động,
tôi đang chuẩn bị chết mà chưa từng nói với người nào: Xin hãy thương
hại tôi. Đã qua bao ngày mà tôi chưa ăn miếng cơm nào. Đó là phương châm:
Dù đói chết, không xin xỏ.
Dù nghèo chết, không cầu cạnh:
Lúc đến chùa Nam Hoa ở Quảng Đông để thân cận đại lão hòa thượng
Hư Vân, trong mình tôi không có một đồng xu dính túi; ngay cả tiền gởi
thơ cũng không có. Tuy nhiên, tôi chưa từng cầu cạnh với người cư sĩ nào
cả.
Do đó, ba đại tông chỉ này của
tôi đều có lai lịch, chứ chẳng phải là lời nguyện trống rỗng. Khi
mua nhà thương để làm chùa Vạn Phật Thành, ai ai cũng thấy đó là nơi
quá lớn và sợ rằng tôi sẽ cầu cạnh, nên họ bỏ chạy lánh xa. Dù thế,
tôi không bao giờ than vãn sự khó khăn đó cho bất cứ một ai. Khi làm việc,
tôi không cầu mong được đền bù và tuyệt đối không cầu mong người
khác giúp đỡ, mà chỉ để mũi kim trên đá mài và tự làm lụng cực nhọc.
Xả mạng vì Phật sự: Nghĩa là
không màng gì đến sanh mạng của mình; không ngừng xả bỏ thân mạng, mồ
hôi, nước mắt để làm việc Phật sự. Là người Phật tử và đã xuất
gia, chúng ta không thể ngồi nhìn Phật giáo suy tàn và chịu sự khinh khi của
người khác. Vì muốn Phật giáo được phát triển mạnh mẽ, nếu có hy
sinh tánh mạng, chúng ta cũng không màng. Chúng ta dùng Chánh Pháp để cứu
độ con người sống trong thế giới áp bức xấu xa này, cũng như giúp
chúng sanh sống trong cảnh hòa bình an lạc.
Tạo mạng vì bổn sự: Người xưa
có câu: Người quân tử học cách tạo mạng. Mạng do Ta tạo lập; phước
do Ta tự tìm cầu. Họa và phước bất định và tự mình chiêu cảm lấy.
Tuy là phàm phu, nhưng chúng ta cũng có thể chuyển mình thành Thánh nhân.
Chánh mạng vì Tăng sự: Đây là
bàn về việc người xuất gia phải nghiêm thủ giới luật của Phật chế
định. Điển hình, đắp y ca sa là tiêu chuẩn đặc thù của người xuất
gia. Nếu không đắp y ca sa thì không có đức tướng tỳ kheo. Lại nữa,
thọ trai mỗi ngày một buổi chính do đức Phật chế định. Tiết chế vấn
đề ăn uống khiến cho tâm tham dục được giảm bớt. Có bớt tham dục
thì mới dễ dàng tu đạo. Thế nên, chớ ăn những thức ăn có quá nhiều
chất bổ. Đó là quy chế ở Vạn Phật Thành. Tuy chưa được hoàn bị cho
lắm, nhưng hy vọng mọi người sẽ cố gắng hết sức để tự trao dồi
đức hạnh.
Hiểu sự rõ lý, hiểu lý rõ sự
là nguyên tắc hành sự của chúng ta.
Tấn hành nhất mạch tâm truyền của
Tổ Sư: Mọi người đều phải tu hành chân thật và thành tâm. Chúng ta chớ
có nói quá nhiều. Hành vi của chúng ta chớ có vượt quá lời nói. Nếu
có lòng tự tín, thì người khác nhất định sẽ theo bước của chúng ta.
Đó là cách mà chúng ta hoàn thành bổn phận của người xuất gia. Phật
giáo cũng nhờ đó mà được chấn hưng, và đời Mạt Pháp sẽ tự nhiên
được chuyển thành Chánh Pháp.
Ba y, một bình bát, và tọa cụ
không bao giờ rời thân mình. Mỗi ngày dùng một buổi là gia phong của
chúng ta.
Khi tu hành, chúng ta phải hằng trì
tông chỉ của mình mà không bao giờ xao lãng. Lúc tu học Phật pháp, chúng
ta cũng phải giữ vững tông chỉ của mình vì đó là mục tiêu chính yếu.
Một khi đã nhận rõ mục tiêu rồi, chúng ta phải dũng mãnh tiến bước,
chớ bao giờ thối lui. Bàn về vấn đề này, nhớ lại vào lúc vừa mới
xuất gia, tôi suy nghĩ: Người xuất gia thì nhiều. Vậy tất cả có hiểu
Phật pháp chăng ? Mỗi vị có định đặt mục tiêu của mình chăng ? Khi
xem xét vấn đề này, tôi nhận thấy rất nhiều người xuất gia không có
ý muốn tu hành để chấm dứt dòng sanh tử. Thật vậy, họ không có mục
tiêu gì cả, mà chỉ sống qua ngày qua tháng Ăn và chờ chết. Những người
xuất gia như thế không làm được điều gì lợi ích cho đạo, chỉ khiến
Phật giáo mang thêm gánh nặng, phiền lụy.
Tôi lại nhận thấy Phật tử người
Hoa không nhận thức được căn bản Phật pháp là gì. Đức Phật giảng
kinh thuyết pháp vì muốn người đời sau hiểu rõ giáo pháp của Ngài.
Làm thế nào người Phật tử phát dương Phật giáo ? Suy nghĩ đến đây,
tôi nhận thấy Phật giáo ở Trung Quốc thực sự chưa bao giờ có nền
móng căn bản vững chắc, nên không thể đứng vững khi đối đầu với
những điều thử thách và áp bức. Tại sao Phật giáo chưa có nền móng căn
bản ? Vì chưa nhận thức được nền tảng căn bản của đạo Phật. Nền
tảng đó là gì ? Chính là giáo dục. Nền giáo dục phải bắt đầu từ bậc
nhi đồng. Phải vun trồng và tưới nước tri kiến, trí huệ, và tư tưởng
của Phật pháp cho chúng. Nếu được như thế, việc tối thiểu là đứa
bé sẽ được nuôi nấng và dạy dỗ để trở thành một người chân thiện
mỸ và công dân tốt cho thế giới. Khi tư tưởng có nền tảng căn bản và
hành vi có mục tiêu rõ ràng, thì chúng mới khả dĩ hỗ trợ Phật giáo
được phát dương rộng rãi. Bằng cách đó, giáo nghĩa căn bản của đạo
Phật sẽ không bao giờ bị phai mờ.
Con người có khả năng hoằng
dương đạo pháp, chứ đạo pháp không thể hoằng dương con người. Làm
thế nào chúng ta có khả năng hoằng dương đạo pháp ? Chỉ khi nào có mục
tiêu và tông chỉ, thì chúng ta mới y theo đó mà hành. Đối với nền Phật
giáo Trung Quốc không cội gốc, một nền Phật giáo không có gốc rễ lẫn
thân cây, mà chỉ có cành lá. Phật giáo Trung Quốc bao gồm những nghi lễ
Thủy Lục Không, Phóng Diệm Khẩu, cầu siêu độ vong linh. Đó là hình trạng
bề ngoài của nền Phật giáo Trung Quốc. Không ai chịu nghĩ rằng cứ theo
đà đó thì sẽ tạo một giai cấp du dân vô nghề nghiệp, chỉ trở thành
người Phật tử xuất gia để đi ăn xin. Thật đáng chán thay ! Những gì
họ biết chỉ là việc làm lễ cầu siêu độ vong linh để kiếm tiền. Làm
những lễ nghi đó, nếu là vị tăng có đức hạnh, quý vị không cần phải
tụng kinh niệm chú, mà chỉ việc nói: Hãy vãng sanh đi, thì vong linh sẽ
được vãng sanh sang cõi Tây Phương Cực Lạc. Tuy nhiên, nếu không có đức
độ và nếu không cẩn trọng trong mọi hành vi, thì quý vị có năng lực
gì để cứu độ người khác ? Thật ra, quý vị chỉ mang nợ tín chủ
thêm thôi. Xa hơn nữa, ở Trung Quốc quy chế của người xuất gia do Phật
định đặt không còn được tuân theo.
Điển hình, trong mọi ngày, chư
tăng người Hoa không ai đắp y ca sa. Tại sao họ lại không đắp y ? Nếu
quý vị hỏi han, họ sẽ không biết rõ tại sao lại chẳng đắp y. Thật
ra, theo giới tướng, Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni phải luôn luôn đắp y ca sa và
mỗi ngày thọ trai một buổi. Tuy nhiên, họ đã quên bửng những điều này.
Vì quên đến độ chạy xa một trăm tám mươi ngàn dặm, nên họ không biết
gì về ý nghĩa chân chánh của việc đắp y ca sa và mỗi ngày chỉ dùng một
buổi ngọ. Rất ít Phật tử người Hoa nào hiểu rõ điều này. Có thể
có một hoặc hai người xuất gia vẫn còn đắp y ca sa và dùng ngọ. Một
lần nữa, tôi tin rằng có thể không có một ai như thế trong số hàng trăm
ngàn người xuất gia. Quý vị có thể bảo rằng những người giữ được
như thế thật hiếm hoi giống như lông phượng hay sừng lân. Nếu hỏi về
đức tướng tỳ kheo như thế nào, hầu hết những người xuất gia đều
không biết gì cả. Ngày nay, ở Trung Quốc và những nước theo Phật giáo
Đại Thừa, người xuất gia đều không đắp y ca sa. Họ cảm thấy điều
này rất tự nhiên mà đâu biết rằng nếu không đắp y ca sa thì không
còn đức tướng tỳ kheo.
Họ nói: Vâng ! Phật giáo Đại Thừa
là đạo của Bồ Tát. Bồ Tát không đắp y ca sa vẫn là Bồ Tát. Tuy
nhiên, Bồ Tát vẫn phải đắp y ca sa vì cần trang nghiêm đức tướng. Hãy
xem đức tướng của Bồ Tát Quán Âm, Phổ Hiền, Văn Thù, Địa Tạng. Các
ngài đều đắp những phẩm vật để trang nghiêm đức tướng. Tuy là những
tướng hư giả, nhưng đó là pháp biểu trưng trang nghiêm các cõi Phật ! Mọi
người tu đạo và người xuất gia phải tuân thủ theo quy chế giới luật.
Chớ nên dại dột phá gio71i hay có những hành vi điên đảo. Quý vị bảo:
Nhưng Hoà Thượng Chí Công thật sự rất điên khùng ! Ngài Chí Công giả
dạng như thế vì muốn khiến người khác bố thí thức ăn cho những kẻ
khùng điên. Nghĩa là Ngài muốn dạy người cư sĩ chớ nên khinh khi chửi
mắng những người mất trí. Giữa những kẻ mất trí, có vài vị dùng phương
tiện để thị hiện; các ngài đến giáo hóa chúng sanh bằng cách che dấu
hành trạng chân thật.
Tại sao chư tăng Bắc Tông không đắp
y ca sa ? Khi Phật giáo Đại Thừa truyền sang những vùng phía bắc, vì
không chịu nổi thời tiết quá lạnh rét ở những nơi đó nếu chỉ đắp
y ca sa, nên họ phải mặc thêm đồ ấm bên trong thân. Những đồ ấm đó
có thể giúp thân tránh bị lạnh rét. Tuy nhiên, khi được đắp lên những
đồ ấm đó, y ca sa dễ dàng bị tuột rớt. Khi đạo Phật vừa được
truyền sang Trung Quốc, có lẽ những vị tỳ kheo vào những thời đó
không được lanh lợi cho lắm. Do vụng về, có lẽ họ đôi lúc họ cũng
đánh mất y ca sa. Một khi bị mất y và vì không có tiền để may cái mới,
nên họ phải đi xin xỏ khiến cho cư sĩ sợ sệt mà lánh xa. Về sau, người
xuất gia hợp với nhau, bảo: Cứ giữ theo cách này thì không thể được.
Y ca sa của chúng ta thường tuột rớt, còn may thêm một chiếc y mới thật
rất khó khăn. Đa phần người Tàu sống rất cần kiệm. May lại y ca sa mới
thật rất đắt. Nếu đánh mất y ca sa thì là một vấn đề nan giải. Khi
đó, trong cuộc họp có một vị Tổ Sư không được thông minh cho lắm
đưa ra ý kiến: Tôi có cách giải quyết vấn đề ! Chúng ta có thể may
lên y ca sa một cái móc và một chiếc vòng rồi móc chúng lại với nhau để
y không còn bị rơi. Đó là cách phát minh y ca sa kiểu Tàu. Kể từ đó, người
xuất gia cứ may y ca sa theo cách ấy. Y ca sa xưa kia vốn không có cái móc
và chiếc vòng, mà chỉ do người Tàu chế đặt ra. Quý vị có thể nhìn
thấy chư tăng Ấn Độ đắp y ca sa mà không có cái móc và chiếc vòng; họ
chỉ đắp y theo truyền thống Nam Tông. Từ việc này, chúng ta biết rằng
khi đạo Phật được truyền sang một vùng đất mới, có nhiều sự thay
đổi do phong tục tập quán của dân chúng địa phương,
Tuy nhiên, ở Trung Quốc, sau khi đã
sửa đổi, người xuất gia lại thối bước, rồi ngưng luôn việc đắp y
ca sa. Lý do là vì hầu hết chư tăng người Tàu phải tự túc trồng trọt
sinh sống. Khi làm việc, thật rất bất tiện nếu vẫn đắp y. Vì vậy, họ
giải y ra và chỉ mặc đồ thường phục. Họ để y ca sa sang một bên.
Tuy nhiên, thời gian sau, dẫu không làm việc họ cũng chẳng đắp y ca sa. Có
vài vị vẫn còn giữ truyền thống và đắp y khi vào chánh điện hay dùng
ngọ. Song, theo truyền thống hiện tại, không ai còn đắp y ca sa vào lúc
dùng ngọ hay lên chánh điện. Thật vậy, người xuất gia ở Trung Quốc,
Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam và ở mọi nơi thuộc Phật giáo Bắc Tông
đều chỉ mặc chiếc áo tràng và cho đó là y phục của người xuất gia.
Đây là điều sai lầm lớn lao ! Nếu người xuất gia không đắp y ca sa thì
cũng giống như đã hoàn tục, vì không khác gì người thế tục. Mặc áo
tràng không đủ chứng minh rằng mình là người xuất gia. Dẫu có đắp y
suốt ngày, cũng vẫn phạm giới và luôn luôn không tự chân thật, thì
còn nói gì đến việc không đắp y !
Do đó, thật sự không còn Phật
giáo ở Trung Quốc và bất cứ nơi nào mà đạo Phật được truyền từ
Trung Quốc sang; nền Phật giáo ở những nơi ấy đa phần đã đánh mất gương
mặt thậtcủa đạo Phật. Khi xem xét vấn đề này, tôi muốn sửa đổi
phong tục này ở Trung Quốc. Song, tôi nhận biết mình chỉ là người tầm
thường với lời nói vô giá trị. Tôi không có địa vị gì cả và chẳng
ai thèm nghe tôi. Dẫu có hét khan cổ họng, không một ai tin tôi. Do đó,
tôi phát nguyện rằng sẽ canh tân, chỉnh đốn và giúp Phật giáo được
chấn hưng lại ở Tây Phương hầu mong mọi người sẽ nhận chân được
đạo Phật là gì.
Vì thế, vừa đến MỸ, tôi đơn
thân độc mã đề xướng việc đắp y ca sa và mỗi ngày chỉ dùng một buổi
ngọ. Vì người MỸ thường thích hưởng thụ và phương tiện hóa, nên họ
không ưa gì khi bị bảo phải đắp y ca sa. Tuy nhiên, vì ở xứ MỸ ít người
xuất gia đắp y, nên tôi có thể đề xướng việc đắp y. Tôi cũng khởi
xướng việc mỗi ngày chỉ dùng một buổi ngọ, vì ngay lúc còn cư sĩ
chưa xuất gia, tôi chỉ dùng một buổi ngọ. Đã bao năm trường kể từ lúc
xuất gia cho đến nay, tôi luôn luôn ăn một ngày một buổi. Vì không có
đức độ và công phu tu hành chân thực, điều có thể làm được là tôi
chỉ dạy những đệ tử xuất gia bắt chước theo giới tướng bên ngoài
của mình. Do đó, những ai xuất gia theo tôi, dù nam hay nữ đều phải giữ
giới chỉ dùng ngọ. Tôi chỉ chấp nhận họ khi nào hành được như thế.
Đó là điều kiện sắt đá cho những ai muốn theo tôi xuất gia, mà không
thể thay đổi. Dù bất cứ lúc nào, hay hoàn cảnh có bức bách đến mức
độ nào, không thể thay đổi được giới điều này. Lý do là vì tôi đã
từng khởi xướng phương thức đắp y ca sa và mỗi ngày chỉ dùng ngọ
qua bao thập niên kể từ khi vừa tới MỸ và cho đến hiện tại. Trải
qua bao thập niên và khi người xuất gia quen dần với phương thức đó,
tôi tin tưởng rằng họ sẽ thật sự chấp nhận từ trong tâm khảm. Mọi
người sẽ hiểu rõ cách thức mà tôi truyền dạy.
Mọi người đều biết thanh quy mỗi
ngày dùng một buổi ngọ ở Vạn Phật Thành. Khi đi, đứng, nằm, ngồi,
người xuất gia ở Vạn Phật Thành đều đắp y ca sa. Tất cả đều có
đủ ba y ca sa, một bình bát, và một tấm tọa cụ như đã được ghi rõ
trong giới luật. Trong giới luật có nói rõ rằng ai đắp y ca sa sẽ được
mười công đức. Nếu không thích có công đức đó, quý vị chớ nên đánh
mất hình tướng của người xuất gia. Quý vị có thể nói: Tôi không có
tâm tham và không cần công đức đó. Có thể không muốn công đức, nhưng
quý vị cũng cần có phước đức. Phước đức do tích tụ từ từ mà
có. Bất cứ lúc nào và ở nơi đâu, quý vị phải luôn luôn vun bồi phước
đức và trí huệ. Nếu không tu phước và huệ thì quý vị không xứng đáng
thọ nhận sự cúng dường của tín thí.
Hiện tại, con người vô tình để
cho thói xấu biến thành tập tục: Người xuất gia không đắp y mới được
xem là chân chánh, còn người đắp y thì bị xem như giả dối. Những ai đắp
y lại bị mắng chửi là làm điều quái gỡ. Chính tự đức Phật giữ ba
y ca sa, một bình bát, một tấm tọa cụ. Ngài luôn luôn đắp y ca sa. Song,
khi đạo Phật được truyền sang Trung Quốc, tất cả chư tăng ở đó đều
ngưng việc đắp y. Kể từ đó, người trong đạo Phật lại bảo rằng những
ai đắp y ca sa là sai trái.
Có một câu chuyện về những học
sinh vừa từ Trung Quốc sang Đài Loan. Vì chạy trốn lánh nạn, nên không
có học sinh nào, chỉ trừ một hai học sinh, nhớ mang bằng cấp chứng chỉ
theo. Khi làm đơn xin nhập học vào các trường đại học ở Đài Loan,
chúng hoảng hốt khi bị hỏi về bằng cấp chứng chỉ. Kết cuộc, chúng
đi tìm kiếm giấy chứng chỉ mẫu ở khắp nơi. Khi tìm ra, chúng y theo đó
mà làm giấy chứng chỉ giả rồi nộp cho bộ Giáo Dục. Do đó, chúng được
phép thi cử và ghi danh vào đại học. Tuy nhiên, khi có học sinh khác nộp
giấy chứng chỉ thật vào bộ Giáo Dục, thì những người làm việc lại
cho là giấy chứng chỉ giả. Họ bảo: Giấy chứng chỉ của mọi người
đều được cất giữ cẩn thận sạch sẽ. Tại sao giấy chứng chỉ của
trò lại cũ rít, nhầu nát ? Chắc chắn trò đã làm giả rồi cố ý làm
cho tờ giấy đó được xem như cũ kỸ nát nhầu để người khác không thể
nói gì được. Do đó, họ từ chối nhận giấy chứng chỉ đó. Tất cả
quý vị xin hãy suy nghĩ: Cái giả được xem là thật, còn điều thật lại
bị xem là giả.
Nếu người xuất gia không đắp y
ca sa thì cũng giống như họ hoàn tục. Vì nền Phật giáo ở Trung Quốc đã
trở nên suy đồi, tôi ra nước ngoài để đề xướng rằng người xuất
gia phải đắp y ca sa và mỗi ngày chỉ dùng một buổi ngọ y theo lời dạy
của đức Phật. Ở Vạn Phật Thành, chúng ta tôn thủ những quy chế đó.
Nếu quý vị nhận thức được gia phong của Vạn Phật Thành, thì thà chết
chứ không thay đổi. Quý vị nên suy nghĩ: Có phải muốn tôi không đắp y
ca sa chăng ? Thà bảo tôi chết, còn hơn là bảo tôi không đắp y ca sa. Thà
bảo tôi chết, còn hơn là bảo tôi không giữ giới dùng ngọ mỗi ngày một
buổi. Với sự quyết định và tín tâm kiên cố như thế, quý vị mới
là thành viên chân chánh của chùa Vạn Phật Thành. Một khi đã nhận rõ mục
tiêu, thà chết chứ không thay đổi ý chí. Dẫu có bước vào thiền đường
mà không đắp y ca sa và vừa ngồi xuống liền được khai ngộ, tôi cũng
không dám làm như thế.
Đối với việc đắp y ca sa, chư
tăng ở Trung Hoa lục địa, chẳng những vào lúc đả thiền thất mà ngay
cả vào mọi thời mọi lúc, họ cũng đều không làm. Không có đạo tràng
nào mà có người xuất gia đắp y ca sa. Họ đã quen dần với tập khí đó
rồi. Người xuất gia mà không đắp y thì mất đi đức tướng tỳ kheo.
Áo tràng và y hậu mà họ đang mặc hoàn toàn là y áo thời nhà Đường, và
cũng không phải là phần chính của đạo Phật. Làm sao để chứng minh điều
này ! Hãy nhìn xem chư tăng Nam Tông, ngay hiện tại vẫn thường đắp y
trong mọi thời. Tại sao họ không đắp y ca sa ở Trung Quốc ? Điều này
thật dễ hiểu. Bởi vì người Tàu rất cần mẫn làm nhiều công việc nặng
nhọc. Khi ra ngoài làm việc, nếu đắp ca sa thì rất bất tiện. Do đó,
khi đi ra ngoài đồng làm việc, họ cởi bỏ y ca sa ra và chỉ mặc đồ bên
trong để làm việc. Vì y ca sa lượm thượm, vướng mắc và bất tiện cho
sự làm việc, nên họ ngưng đắp y ca sa. Trải qua năm tháng, sự việc trở
thành thói quen. Họ bắt đầu nghĩ rằng y bên trong được đắp khi ngủ
nghỉ là y phục của người xuất gia. Thật ra, họ chỉ giữ y phục vào
đời Đường. Y phục của người thế gian đã thay đổi nhiều lần,
nhưng người xuất gia vẫn còn giữ cách xưa vì không thay đổi y phục của
đời Đường. Họ đi đến việc xem áo tràng và y hậu như y phục đặc
biệt dành cho người xuất gia, nhưng đó là điều hoàn toàn sai lầm. Nếu
không đắp y, thì quý vị chẳng là gì ngoài việc làm cư sĩ trọc, mà
không xứng đáng làm người xuất gia. Tại sao vậy ? Vì quá tùy tiện.
Ngay trong mọi cử chỉ hành động đều không biết mình là người xuất
gia.
Trong thiền thất, dĩ nhiên họ
không đắp y. Trong giới bổn có dạy: Y bất ly thể (y ca sa không thể rời
thân được). Đi bất cứ nơi đâu, phải mang theo ba y, một bình bát, và tọa
cụ, bằng ngược lại thì phạm giới. Song, nếu hỏi người xuất gia thời
nay, có ai dám nói rằng y ca sa của họ không bao giờ rời thân ? Tuy nhiên,
đó chỉ là giới tướng bên ngoài. Không phải đắp y mới thành người
xuất gia. Nếu đắp y mà không giữ giới thì vẫn bị xem như là người tại
gia; nghĩa là làm tỳ kheo mà phạm giới, còn tệ hại hơn người tại gia.
Ngay cả vào lúc đắp y lại thường khởi những tâm niệm tham dục tà vọng,
còn nói chi đến việc không đắp y. Nếu không đắp y ca sa theo lời Phật
dạy, tôi tin tưởng rằng không có ai trong số quý vị thật là Bồ Tát,
Thanh Văn, hay Duyên Giác.
Lại nữa, bàn về vấn đề mỗi
ngày dùng một buổi. Tại sao tôi lại dùng ngọ thôi ? Từ khi còn nhỏ,
tôi đã có tâm niệm: Tôi muốn chịu khổ thay thế cho tất cả chúng sanh
và đem tất cả công đức lành mà mình có được để ban bố cho họ. Tôi
muốn tất cả thống khổ của mọi người được giao cho mình. Khi người
Nhật xâm chiếm nước Tàu, họ bắt người Tàu đi làm việc khổ sai trong
những trại lao động; ở những nơi đó, các người lao công bị hành hạ,
không có cơm để ăn hay y phục để mặc; khi bị chết vì lạnh và đói,
thân xác họ bị bỏ cho chó ăn. Nhìn thấy người Tàu bị những điều thống
khổ đó, tôi nhận ra rằng trên thế gian có rất nhiều người không có
ăn. Thế nên, tôi bắt đầu ăn mỗi ngày một buổi. Khi dùng ba buổi trong
một ngày, tôi có thể dùng năm chén cơm trong một buổi. Sau này, khi bắt
đầu mỗi ngày chỉ dùng một buổi, tôi chỉ dùng có ba chén cơm; thế thì
tôi dành được mười hai chén cơm cho những ai không có cơm ăn. Ở vùng
Mãn Châu lạnh lẽo như thế mà tôi sẳn sàng đắp ba lớp y mặc cho trời
mưa giá lạnh trong mùa đông. Nhờ cách đó, tôi dành dụm được tơ vải
cho những người không có y phục để mặc. Vì thời tiết ở bắc Cali
không quá lạnh lẽo, tôi chưa đặt để quy chế gì về y phục. Đối với
việc ăn uống, nam hay nữ nào đã là đệ tử xuất gia của tôi, tất cả
đều chỉ dùng ngọ để giúp tôi dành dụm thức ăn cho những người đói
kém.
Tại Trung Quốc, không có chỗ nào
mà chư tăng chỉ dùng ngọ trong một ngày. Khi đả Thiền Thất, có thể
được gọi rằng là đả Thiền Ăn. Trong một ngày, có đến bốn lần ăn
và ba lần dùng trà, cộng thêm bánh bao vào ban đêm. Nếu bảo rằng vẫn
tu hành tinh tấn theo kiểu đó, tôi thật không thể nào tin tưởng được.
Tôi thấy rằng mỗi ngày dùng một buổi ngọ cũng quá phiền phức rồi. Vậy
mà quý vị ăn uống bốn lần, cộng thêm bánh bao vào buổi tối nữa. Chư
tăng tu theo truyền thống Phật giáo Trung Quốc, họ gọi buổi ăn tối là
Dùng Thuốc. Điều này được gọi là Bịt tai để trộm chuông. Đó là việc
tự lừa dối chính mình và lường gạt người khác. Họ muốn ăn tối nên
gọi buổi ăn tối là Dùng Thuốc. Đó là đạo Phật ở Trung Quốc: Đạo
Phật mà lường gạt người. Tôi không có cách nào để sửa đổi tập quán
xấu xa đó. Ở xứ MỸ, tôi đã định lập gia phong nơi hải ngoại hoàn
toàn khác với đạo Phật ở châu Á. Tại xứ MỸ, con người hưởng thụ
quá mức. Vì cuộc sống quá sung túc, nên người xuất gia có làm bánh bao
để dùng và dù thức ăn có ngon đến đâu, vẫn không sánh bằng thức ăn
của người tại gia, vì họ có thể thưởng thức những món sơn hào hải
vị. Do đó, tôi đề xướng hạnh mỗi ngày chỉ dùng một buổi để đối
trị cách hưởng thụ đó, bởi vì người MỸ thường thích sống xa hoa.
Tôi đến xứ MỸ không phải để
thuyết pháp cho người Tàu mà chỉ vì muốn giáo hóa người MỸ; đối tượng
chính của tôi là quần chúng người MỸ chứ không phải là người Tàu;
việc giáo hóa cho người Tàu chỉ là điều phụ trợ thôi. Tôi đơn thân
độc mã đến xứ MỸ từ miền Á Châu xa xôi nghìn dặm. Đến ngay nơi
trung tâm của vùng đất mà những tôn giáo khác đang có ảnh hưởng lớn
đối với quần chúng địa phương, tôi đề xướng hạnh mỗi ngày dùng một
buổi để đối trị cách sống xa hoa của họ. Nếu mỗi ngày chỉ dùng một
buổi ngọ được thì quý vị mới có thể xuất gia, bằng ngược lại thì
không đủ tiêu chuẩn làm người xuất gia.
Bàn thêm về việc đắp y ca sa, ở
Trung Quốc, tôi không thể nói rằng những người xuất gia đã thực sự
xuất gia chân chánh hay không ? Bất cứ ai cũng có thể cạo tóc, đốt vài
nén hương lên đầu, rồi tự gọi mình là người xuất gia. Họ không có
một điểm đặc thù nào về giới tướng. Đó là lý do tại sao tôi lập
thanh quy: Mọi người xuất gia ở Vạn Phật Thành phải đắp y ca sa. Nói
chung, đến xứ MỸ, để dẫn đường tiên phong cho đạo Phật, tôi đề
xướng hạnh đắp y ca sa và mỗi ngày dùng một buổi.
12.
Pháp Môn Tu Đạo [^]
- Thiền - Thể tánh chân chánh
của chư Phật
- Đại địa xuân hồi bách vật sanh
- Phấn toái hư không tự tại ông
- Tùng thử bất lạc nhân ngã tướng
- Pháp giới tuy đại tận bao dung
Tạm dịch:
- Xuân về cõi đất trăm vật sanh
- Đập nát hư không ông tự tại
- Từ đây nào còn lạc tướng nhân ngã
- Pháp giới tuy rộng vẫn bao dung.
Bài kệ này thuyết về việc đả
Thiền Thất của chúng ta như xuân về cõi đất. Trăm vật sanh nghĩa là
quý vị có cơ hội khai ngộ. Nếu ánh sáng tự tánh hiển lộ thì cũng giống
như trăm loài vật sanh sản trong mùa xuân. Đập nát hư không: Hư không vốn
vô hình tướng, không có gì cả. Ông tự tại: Lúc ấy quý vị chân thật
được tự tại. Từ đó, nào còn lạc vào tướng nhân ngã, nghĩa là
không còn có mình, người; nhân vốn không; pháp vốn không; nhân tướng
cũng không; pháp tướng cũng không; nhân ngã đều không. Pháp giới tuy rộnglớn
bao la, nhưng đều nằm trong chúng ta và bao dung hết. Quý vị xem coi việc
này có lớn lắm không ? Đó mới thật là hành trạng của đại trượng
phu.
Hư không đả phá minh tâm địa (phá
vỡ hư không sáng đất tâm).
Câu Ai là người đang niệm Phật là
bảo kiếm Kim Cang và cũng chính là câu Tảo Chửu (chổi quét) của ngài
Châu Lợi Bàn Già. Có người hỏi: Tại sao lại gọi là bảo kiếm Kim Cang
hay cây chổi quét ? Nếu là bảo kiếm Kim Cang thì không phải là cây chổi
quét. Ngược lại, nếu là cây chổi quét thì không phải là bảo kiếm Kim
Cang. Tùy thuộc vào đầu nào mà quý vị xử dụng. Một đầu là bảo kiếm
Kim Cang, còn một đầu thì là cây chổi để quét. Một đầu là cây kiếm
bảo vương Kim Cang được dùng để chặt đứt tình ái, vô minh phiền
não. Một đầu khác là cây chổi để quét; mỗi lần niệm câu Ai là người
đang niệm Phật ?, cũng giống như mỗi lần dùng chổi quét đất được sạch
sẽ đôi chút. Dùng chữ Ai để quét những lòng tư dục. Bảo kiếm vương
Kim Cang chặt tư dục và cây chổi cũng quét tư dục; đó là tâm niệm tham
dục, tình ái, và những vấn đề liên hệ. Dùng bảo kiếm vương Kim Cang
để chặt đứt hết những vấn đề rắc rối đó. Vừa khi tham quán chữ
Ai, Thiên ma ngoại đạo không thể hại gì được, vì không có chỗ hở
nào cho chúng xâm nhập vào. Do quý vị cầm gươm trí huệ hàng phục mười
đại ma quân cùng tất cả ma quân trên thế gian. Không ma quân nào có thể
đương đầu với chữ Ai của quý vị. Nếu quên đi chữ Ai thì có lỗ hổng
cho ma quân xâm nhập vào; nghĩa là quý vị bỏ bảo kiếm vương Kim Cang xuống
và để cho vô minh khởi lên.
Khi tham khán câu Ai là người đang
niệm Phật, sự việc có vẻ mơ hồ. Tham quán tới lui, nhưng không thể
tìm ra chữ Ai, nên mới khởi nghi tình. Lúc nghi tình phát khởi, nghi nhiều
thì ngộ nhiều; nghi ít thì ngộ ít; không nghi thì không ngộ; thường nghi
thì thường ngộ; nghi ngắn thì ngộ ngắn. Tại sao gọi là nghi tình ? Vì
không thể tìm được chữ Ai. Chữ Ai là gì ? Nắm giữ chữ Ai hằng giờ
cho đến khi hơi thở dừng, mạch máu ngưng, tâm niệm trụ, và đạt đến
cảnh giới đại định thâm sâu. Dẫu đi, đứng, nằm, ngồi, quý vị vẫn
thường trú trong đại định đó. Không nhập vào và không xuất ra khỏi
đại định đó, nên gọi là đại định thâm sâu. Lúc bấy giờ, trên
không còn trời, dưới không còn đất, chính giữa không còn người, xa không
còn vật; tất cả đều vắng lặng; ngay cả hư không đều tan biến. Một
khi hư không tan biến rồi thì còn cảnh giới gì ? Quý vị hãy xem xét và
suy nghĩ coi ! Quý vị có còn vọng tưởng hay tạp niệm chăng ? Khi hư không
đã tan mất, vọng tưởng, tạp niệm, tư dục trú ở đâu ? Lúc ấy thật
dễ dàng khai ngộ, dễ dàng xoay về cội gốc, dễ dàng minh tâm kiến
tánh. Khi đó, sự việc gì cũng không làm chướng ngại khó khăn cho quý vị.
Một khi đã thấy tánh thì mãi mãi không còn ưu sầu.
Bổn lai diện mục hà xứ mịch
(tìm bộ mặt thật xưa nay ở noi nào ?)
Từ đời nhà Thanh đến hiện tại,
đa số đều tham quán câu Ai là người đang niệm Phật ? Tham quán chữ Ai
là quan trọng nhất. Ai ? Vẫn còn chưa biết thì vẫn là chữ Ai. Nếu biết
rõ thì là khai ngộ. Phải tìm ra Ai là người đang niệm Phật. Nếu bảo:
Tôi là người niệm Phật. Quý vị à ? Nếu là người niệm Phật thì khi
chết đi và được hỏa táng xong, quý vị sẽ đi về đâu ? Nếu quý vị
là người đang niệm Phật thì phải không chết. Song, quý vị sẽ chết, bị
hỏa thiêu, và không còn nữa.
Trong pháp môn tham thiền có nhiều
câu thoại đầu. Có người tham quán câu: Trước khi cha mẹ sanh ra, gương
mặt của tôi vốn ra sao ? Có người tham quán chữ Vô. Vô, nghĩa là không
có gì cả và mọi việc đều trống không. Hoặc giả tham quán câu Muôn vật
có hiện hữu chăng ? Họ tham quán chữ Vô (không) và Hữu (có). Có người
tham quán Làm sao sự việc đều là không ? Muôn vật trên thế gian đều chịu
cảnh thành, trụ, hoại, không. Thế thì còn vật gì thoát ngoài định luật
thành, trụ, hoại, không ? Đó là cách tham quán của họ.
Có người tham quán câu: Con chó có
Phật tánh chăng ? Dẫu con chó có Phật tánh hay không, điều này cũng có
thể làm một câu thoại đầu. Người khác tham quán câu: Que cứt khô. Vừa
nghe qua, quý vị có thể cười, nhưng khi tham quán thì mới có mùi vị !
Vì không ướt nên không hôi; do đó quý vị không cần phải cười. Tựu
chung, có rất nhiều loại thoại đầu. Nếu cảm thấy câu thoại đầu nào
thích hợp thì quý vị có thể dùng.
Hành, trụ, tọa, ngọa tế toản
nghiên (đi, đứng, nằm, ngồi tinh tường tham quán)
Trong lúc đả Thiền Thất, điều
quan trọng là phải chuyên nhất, nghĩa là thân, tâm, và ý thức phải
chuyên nhất. Nơi đây, thân của quý vị phải đi vào lúc đi, ngồi vào
lúc ngồi, nằm xuống vào lúc nằm xuống. Lúc đi, ngồi, nằm phải y theo
quy củ. Không để tâm khởi vọng tưởng thì tâm, niệm, và ý mới chuyên
nhất. Ý không khởi tâm tham, sân, si thì mới nhất tâm tham quán Ai là người
đang niệm Phật ?
Tham quán như dùng mũi khoan để
khoan lỗ. Khoan cho đến độ khoan thủng qua gỗ. Một khi đã khoan xong, có
thể thấy sang lỗ bên kia; khai ngộ cũng như thế. Trước khi khai thông,
chúng ta chỉ việc khoan lỗ hằng ngày. Cũng vậy, trước khi khai ngộ, chúng
ta tham quán câu Ai là người đang niệm Phật.
Hiện tại, chúng ta đang dụng công
phu để được khai ngộ. Trong lúc dụng công, chớ bảo: Không thể khoan thủng
lỗ hổng ! Nếu nghĩ như thế thì không thể nào còn muốn khoan nữa. Nếu
không khoan thì không có lỗ khoan nào cả. Phải khoan lỗ vào hôm nay, ngày
mai, ngày mốt; khoan hoài khoan mãi cho đến khi thông, tức là khai ngộ. Nghĩa
là những gì chưa biết rõ trước kia, nay lại biết rõ. Những gì chưa hiểu
rõ, sẽ hiểu rõ.
Công phu đó như thế nào ? Như mèo
rình chuột. Mèo rình chuột ngoài hang. Nếu chuột vừa ra thì mèo dùng
móng vuốt mà bắt. Tham quán câu Ai là người đang niệm Phật cũng giống
như mèo rình chuột. Vọng tưởng là chuột và câu Ai là người đang niệm
Phật là mèo. Mèo chờ chuột để bắt; đó là tỶ dụ.
Tham quán cũng giống như rồng bảo
vệ hạt châu. Rồng luôn luôn bảo vệ và không bao giờ xa rời hạt châu
của nó.
Lại nữa, tham quán như gà ấp trứng.
Gà mái luôn luôn lo lắng cho gà con, nên suy nghĩ: Chẳng bao lâu nữa gà con
của tôi sẽ ra vỏ trứng. Gà mái cứ tiếp tục ấp trứng: Lẹ lên ! Lẹ
lên ! Gà con hãy mau ra khỏi vỏ ! Mỗi ngày, gà mẹ ấp trứng và nghĩ về
gà con cho đến khi chúng ra khỏi vỏ. Có câu: Loài sanh từ trứng do tưởng
mà ra.
Khi nghĩ mãi đến hồi chín muồi,
trứng sẽ nở ra gà con; lúc đó gà mẹ thành công. Chúng ta tham Thiền cũng
giống như gà mẹ ấp trứng. Đang ấp trứng, thân gà mẹ rất nóng nên mệt
nhừ. Tuy nhiên, gà mẹ không thể nào rời khỏi ổ mà phải ấp cho đến
khi trứng nở.
Tham phá thoại đầu lộ đoan nghê
(Khi tham quán thông suốt thoại đầu thì đầu mối hiển lộ).
Tham Thiền cũng như thế. Chúng ta
phải thường chú tâm mà không khởi bất cứ vọng tưởng nào cả.
Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện,
lục căn hốt động bỉ vân giá.
Dịch: Một niệm nếu không sanh
thì toàn thể tánh liền hiển hiện. Sáu căn vừa động liền bị mây che.
Lúc một niệm chưa sanh khởi thì
toàn thể đại dụng liền hiện tiền, nghĩa là trí huệ sẳn có sẽ hiện
trước mặt. Sáu căn như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý vừa chợt động
thì cũng như trời xanh đột nhiên bị mây che. Lúc một niệm chưa sanh thì
trong chẳng có thân tâm; ngoài không thế giới. Tọa thiền đến lúc hơi
thở dừng, nhưng không phải là chết. Khi hơi thở dừng thì không còn một
vọng niệm. Song, nếu đột nhiên suy nghĩ: Ồ ! Hơi thở của tôi đã dừng,
không còn nữa, thì hơi thở sẽ trở lại. Lúc vô tâm thì hơi thở dừng;
vừa lúc có tâm thì hơi thở trở lại. Thật ra, hơi thở không hoàn toàn
ngưng, vì nếu như thế thì không còn sống trở lại. Do vì, hơi thở bên
trong bắt đầu hoạt động nên không cần phải dựa vào hơi thở bên
ngoài. Đó gọi là chuyển bánh xe pháp lớn; nghĩa là chuyển bánh xe pháp
vô hình và hát bài ca không âm thanh. Tuy nhiên, chớ đắm chấp vào cảnh
giới đó.
Người tu hành có lúc chợt tinh tấn
và chợt thối thất. Có thể tinh tấn trong vài ngày rồi lại cảm thấy
không được lợi lạc gì nên thối thất. Sau khi giãi đãi làm biếng một
thời gian, lại tinh tấn tiếp tục. Do đó, lúc tu đạo, chúng ta phải theo
trung đạo, không nên quá mau lẹ hay quá chậm chạp.
Đi quá nhanh thì sẽ xẩy chân; đi
quá chậm thì sẽ lọt lại sau.
Chớ quá gấp gáp hay quá chậm chạp.
Không đi quá khẩn trương nghĩa là không quá gấp gáp; không quá chậm chạp
nghĩa là không làm biếng. Phải dụng công đến độ tự tại khi đi, đứng,
nằm, ngồi. Tự tại nghĩa là công phu thăng tiến. Lúc đó mới thật là
Tham Thiền và dù muốn dừng vẫn không được.
Lúc đi, đứng, nằm, ngồi vẫn không
rời chữ Ai. Song, dẫu được như thế, nhưng vẫn chưa nhận ra chữ Ai. Phải
làm quen với chữ Ai mà không để đánh mất. Ở mọi nơi mọi lúc đều dụng
công tham thiền thành phiến. Lúc đó, dẫu ăn cơm mỗi ngày, nhưng cũng
như chưa từng dùng một hạt cơm. Chẳng phải là không dùng cơm, mà là
quý vị không đắm chấp vào việc ăn cơm. Tuy dùng cơm nhưng giống như không
có gì xảy ra. Đắp y nhưng cũng không chấp vào.
Dẫu đắp y nhưng cũng như không đắp
một cọng chỉ nào. Nghĩa là dẫu đi, đứng, nằm, ngồi đều quên hết.
Quên về việc ăn mặc rồi thì còn nói chi đến những việc khác ! Những
việc đó có nhằm gì đâu !
Đả phá hắc đổng hiện bổn nguyên
(đập thùng dầu hắc để hiện cội nguồn).
Đập vở thùng dầu hắc chính là
khai ngộ. Tuy rằng tâm niệm tham quán chữ Ai là vọng tưởng, nhưng chúng
ta dùng một vọng tưởng để trừ tất cả vọng tưởng. Trong mọi thời
mọi lúc phải tham quán thoại đầu, chứ không nên thở ra thì tham quán
còn thở vào thì không. Đếm theo hơi thở cũng không được vì tạo thành
hai việc như lấy đầu đặt lên đầu. Cách thức tham quán thoại đầu chân
chánh là phương pháp nhập môn. Do đó, chư Tổ sư luôn luôn tham quán khi hơi
thở ra vào; niệm niệm tham quán không dừng.
Những ai thật sự biết dụng công
sẽ không ngừng tham quán chữ Ai. Cứ liên tục khởi nghi tình về chữ Ai
cho đến khi tâm, ý, thức đều tan mất; tâm cũng không; ý cũng không;
thân cũng không; thức cũng không. Khởi vọng tưởng là do thức thứ sáu
sanh khởi; nó bảo quý vị khởi vọng tưởng, bảo quý vị biết đau, bảo
quý vị không nhẫn đau nổi. Tất cả đều do nó tác quái. Nếu dẹp trừ
tâm, ý, thức bằng cách tham quán cho đến khi không còn bị chúng chuyển,
thì quý vị mới thật sự là người biết dụng công. Một khi được như
thế, không những công phu ngày một tương ưng và nhất niệm cũng được
tương ưng, mà cũng có khả năng khai mở trí huệ, nghĩa là khai ngộ. Thế
nên người xưa có câu:
- Nhược nhân tĩnh tọa nhất tu du,
- Thắng tạo hằng sa thất bảo tháp.
Dịch:
- Nếu ai ngồi tĩnh tọa trong giây lát,
- Thù thắng hơn xây hằng sa bảo tháp.
Ngồi thiền tĩnh tọa trong một giây
phút thì công đức thù thắng hơn xây hằng hà sa số bảo tháp. Ngoài ra,
chỉ ngồi trong giây lát đó mà có thể diệt trừ nghiệp xấu trong vô lượng
kiếp sanh tử.
Những ai biết dụng công đều luôn
luôn sống trong thiền định, bằng ngược lại thì thường sống trong vọng
tưởng hư dối. Thiền định thì sanh xuất trí huệ, còn vọng tưởng thì
sanh xuất ngu si. Làm thế nào để đạt thiền định ? Phải xả bỏ vọng
tâm mà quay về chân tâm. Tuy nhiên, chúng ta thường chạy theo vọng duyên,
chứ không thích trở về với thiền định. Đó là lý do tại sao chúng ta
thường khởi vọng tưởng, nên không thể quay về với chân tâm. Kết quả,
chân tâm biến thành vọng tâm. Nếu thời thời khắc khắc thường hồi
quang phản chiếu, không khởi nhiều vọng tưởng, và biết dụng công nơi
tự tánh, thì sẽ trở về được với chân tâm. Lúc đả Thiền Thất
cũng là lúc chúng ta xả bỏ vọng tâm để trở về với chân tâm và xả
mê để trở về giác. Đó là lý do tại sao chúng ta xả bỏ hết tất cả
để đến nơi đây chạy hương, tọa hương. Đi, đứng, nằm, ngồi cũng
không nên xa rời Cái này, bằng không thì tạo điều sai lầm. Cái này
chính là một câu thoại đầu.
Như thị như thị quán tự tại
(như thế, là như thế; tự tại mà tham quán).
Tôi sẽ giải thích cho quý vị hiểu
rõ về cách chạy hương để không chạy quá nhanh. Chạy chậm hay đi từ từ
cũng không phải là chạy hương. Phải làm sao ? Phải y theo quy củ, nhưng
giữ tâm tự tại. Lúc đi, vẫn phải tham quán Ai là người đang niệm Phật.
Trước hết chúng ta đi khoảng từ mười lăm đến hai mươi phút, rồi chạy
hương. Chỉ chạy hương một vòng, hai vòng, hoặc nhiều lắm là ba vòng
trong thiền đường, rồi đánh mõ ra hiệu dừng lại. Không nên chạy hương
quá lâu, bằng ngược lại mọi người sẽ mệt mỏi và đứt hơi khiến
không thể dụng công được. Chỉ chạy một vòng, hai vòng, tối đa là ba
vòng; chạy cho đến khi cảm thấy thân thể của mọi người vừa bắt đầu
ấm trở lại thì ngay lúc ấy đánh mõ để ngừng chạy, rồi bắt đầu
ngồi thiền. Một khi khí huyết lưu chuyển lại khắp thân thể thì phải
bắt đầu tọa thiền.
Vào lúc ngồi thiền, phải cứng rắn
như bảo kiếm Kim Cang để có sức lực mạnh mẽ mà không ai sánh bằng.
Có ngồi thiền lâu thì mới nhập thiền định. Phải ngồi như thế nào ?
Vào lúc ngồi, tâm phải bình và khí phải tĩnh. Ngồi thẳng như chuông; mắt
quán mũi; mũi quán miệng; miệng quán tâm; trong mọi lúc đều phải như thế.
Chớ nên ngả phía trước, dựa phía sau, nghiêng bên phải hay trái. Cách
hay nhất là ngồi xếp bằng như tư thế hoa sen hay Kim Cang, vì cách đó dễ
giúp cho việc nhập định. Có người nói: Đã ngồi xếp bằng được,
nhưng chưa bao giờ nhập thiền định. Lý do là vì quý vị vẫn luôn khởi
vọng tưởng và không biết dụng công chân chánh. Ngồi xếp bằng là cách
ngồi hay nhất, rồi kế đến là ngồi bán già (đặt chân trái lên chân
phải). Nếu không thể ngồi được như thế thì cứ ngồi theo bất cứ
cách gì mà quý vị thích. Khi ngồi thiền, phải như như bất động, liễu
liễu thường minh (sáng suốt thường biết). Phải cong đầu lưỡi lên để
chạm với nứu hàm răng trên để hai mạch Nhâm và Đốc nối nhau. Lúc đó,
khí huyết trong người sẽ chảy đều và quý vị sẽ cảm thấy an lạc tự
tại. Nếu có nước bọt, có thể nuốt, vì nó giống như nước cam lồ
trưởng dưỡng mầm Bồ Đề.
Ngồi trong một thời gian, quý vị
sẽ bắt đầu cảm thấy ấm; khởi đầu từ bụng và lan khắp thân, rồi
trở về bụng. Cảm giác ấm áp xoay vần như thế được gọi là giai đoạn
nhiệt nóng. Thời gian sau, quý vị sẽ cảm nghiệm sự thay đổi thêm về
công xưởng hóa học của thân thể, tức là đạt đến giai đoạn đảnh
vị. Quý vị sẽ cảm nghiệm lúc có lúc không vài cảm giác trên đỉnh đầu,
vì không thể rờ mó nắm bắt được mà chỉ là cảm giác, nhưng dường
như là một cảnh giới không thể nghĩ bàn. Kế tiếp giai đoạn đảnh vị
thì là giai đoạn nhẫn. Trong giai đoạn đó, tuy khó chịu về cảm giác
ngày càng nặng trên đỉnh đầu, giống như có một mũi khoan đang khoan xuống
xương sọ, nhưng quý vị lại chịu đựng nổi; đến khi được thông suốt
thì gọi là Thế Đệ Nhất. Lúc đó, quý vị là đại trượng phu trên thế
gian.
Thiện tai, thiện tai, ngộ thùy
nhân (lành thay, lành thay, ngộ về chữ Ai)
Có bốn cảnh giới thiền định:
Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Trước khi đạt đến cảnh
giới Sơ Thiền, đầu tiên sẽ trải qua cảnh giới khinh an, tức là thân
thể cảm thấy rất an lạc tự tại, được gọi là Pháp HỶ. Đạt đến
cảnh giới đó, có thể không ăn mà vẫn chẳng cảm thấy đói, không ngủ
mà vẫn chẳng cảm thấy mệt, không mặc đồ mà vẫn chẳng cảm thấy lạnh.
Đó là cảm giác khinh an nhẹ nhàng thư thái vào lúc vừa tu thiền. Dù đi,
đứng, nằm, ngồi đều cảm thấy như không còn chính mình vì không biết
bản ngã đã biến đâu mất.
Sau cảnh giới khinh an thì nhập
vào thiền định của Sơ Thiền. Lúc ấy, không còn cảm giác về mình và
mạch máu dường như ngừng đập. Quý vị sẽ cảm thấy như thân tâm bao
trùm khắp pháp giới; một hoặc hai giờ ngồi thiền trôi qua cũng giống
như chỉ trong giây phút. Tuy nhiên, chớ tự cho mình là đặt biệt vì chỉ
nếm chút ít thiền định ở giai đoạn sơ khởi. Sau khi mạch máu dừng đập
thì hơi thở cũng ngưng. Lúc hơi thở bên ngoài ngưng thở qua lỗ mũi thì
hơi thở thật bên trong bắt đầu hoạt động; lúc đó không còn lệ thuộc
vào hơi thở bên ngoài nữa. Khi tiếp tục dụng công thì tâm niệm sẽ dừng.
Khi không còn một niệm khởi lên và tất cả vọng tưởng đều lặng mất
thì hoà nhập vào bản thể tự tánh; đó là Nhị Thiền. Tuy cho rằng ở
Tam Thiền tâm niệm đều trụ vắng lặng, nhưng thật ra vẫn còn một niệm
vô minh thô.
Đến Tứ Thiền thì tâm niệm thật
sự bị đoạn dứt; tức là xả hết mọi tâm niệm. Tham Thiền đến cảnh
giới đó chính là cảnh giới Tứ Thiền hữu lậu và vẫn chưa chấm dứt
sanh tử hay chứng thánh quả. Để đạt đến sơ quả A La Hán, phải đoạn
trừ 81 phẩm kiến hoặc. Sao gọi là kiến hoặc ? Kiến hoặc nghĩa là khởi
tâm tham lam ái luyến đắm chấp vào cảnh giới bên ngoài. Do thấy mà chấp
trước nên bị mê hoặc. Sơ quả A La Hán được gọi là nhập lưu, nghĩa
là nhập vào dòng pháp tánh của thánh nhơn và đi ngược dòng sáu trần của
phàm phu. Bậc thánh nhơn chứng sơ quả A La Hán không nhập vào sắc tướng,
âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp trần. Sáu cảnh trần này
không thể làm dao động hay mê hoặc vị này. Đó là sơ quả A La Hán. Hiện
tại, chúng ta vẫn chưa đạt đến cảnh giới Sơ Thiền; chưa có ai làm mạch
máu ngưng đập được.
Nếu chưa đạt được những cảnh
giới đó, phải tinh tấn dụng công trong từng giây phút, vì điều quan trọng
là không nên lãng phí thời giờ. Cách hay nhất là ngồi xếp bằng hoặc
ngồi bán già. Nếu cả hai cách đều quá khó thì có thể ngồi một cách
tự nhiên. Vấn đề tu hành là tại tâm chứ không phải tại chân. Nếu xả
bỏ hết các vọng tưởng thì ngồi cách nào cũng tu được. Nếu tâm tràn
đầy vọng tưởng thì không thể tu hành thành tựu dẫu có ngồi cách nào
đi nữa. Tu hành bao gồm việc tu tâm dưỡng tánh. Tu tâm có nghĩa là phải
thường xuyên quán sát xem coi vọng tưởng nào nhiều nhất. Có phải nhiều
nhất là vọng tưởng tham dục, sân hận, ngu si chăng ? Phải xoay về ánh
sáng tự tâm mà quán chiếu; phải tự thanh tịnh hóa vọng tưởng thì
công phu mới có phần tương ưng. Dù ngồi theo tư thế nào cũng phải dẹp
trừ mọi vọng tưởng; hết vọng tưởng thì trí huệ mới hiển hiện, bằng
ngược lại thì không có trí huệ. Do đó, tu hành là dụng công nơi đất
tâm. Vì thế sự tu hành được gọi là pháp môn tâm địa. Nếu tâm thường
được thanh tịnh thì luôn luôn trụ nơi Linh Sơn. Hành trì niệm Phật, tụng
chú, trì giới, giảng kinh, ngồi thiền, tất cả đều vì việc chế ngự
tâm vào một nơi để dẹp trừ vọng tưởng và giữ lại chân tâm. Trong từng
phút giây phải tìm lại chính mình để nhận ra gương mặt thật xưa nay của
chính mình.
Đó là phương pháp dụng công sơ
khởi.
Tánh giác linh minh nguyên phi vật
(tánh giác nhiệm mầu sáng suốt vốn không phải là vật).
Trong khi tham Thiền chớ mong muốn
thấy cảnh giới này nọ; không mong muốn bất cứ gì hết; ngay cả hư không
cũng chẳng màng. Dù hư không có trống rỗng, nhưng vẫn không cảm giác
hoan hỶ hay sợ sệt. Nếu cảm nghiệm sợ hãi thì sẽ gặp ma. Nếu cảm
nghiệm hoan hỶ thì ma hoan hỶ sẽ đến. Hãy xem qua 50 ấm ma trong kinh Lăng
Nghiêm; chúng có thể hiển hiện vào lúc ngồi thiền. Nếu nhận rõ thì sẽ
không bị chúng chuyển. Thế nên có câu: Ma đến chém ma; Phật đến chém
Phật. Dẫu Phật hay ma có đến cũng không nên đắm chấp vào. Chớ chấp
trước vào bất cứ cảnh giới gì. Chớ suy nghĩ: Ồ ! Một vị Phật đang
đến ! và sanh tâm vui mừng tột bậc; đó là cảnh giới tà. Có cảm giác
sợ hãi cũng không đúng; có cảm giác thích thú hay không thích thú cũng không
đúng. Do đó, phải ngồi thiền tịch tĩnh, an nhiên bất động, mà không
khởi tâm phân vân, không chạy đuổi theo cảnh giới. Cảnh giới có hiển
hiện thì cứ hiện mà không đắm chấp để bị chúng chuyển. Nếu cảnh
giới không hiển hiện thì cũng không nên tìm cầu. Từ đời vô thủy đến
nay, trong ruộng tâm thức thứ tám, cảnh giới nào cũng có. Một khi tâm
được vắng lặng thì chúng sẽ xuất hiện. Nếu cứ mãi khuấy nước đục
thì nó chẳng bao giờ được lắng trong. Cũng vậy, nếu ngồi an nhiên bất
động thì tâm niệm tự nhiên sẽ được thanh tịnh tịch tĩnh.
Tâm thanh thủy hiện nguyệt, ý định
thiên vô vân (tâm thanh tịnh như mặt trăng hiện trong nước; ý niệm định
lại như bầu trời không còn mây).
Tâm được thanh tịnh cũng giống
như ánh trăng soi đáy nước. Thế nên, chớ màng cảnh giới có thật hay
có giả. Tinh tấn dụng công mới là chân thật. Tuy nhiên, chớ hành giống
như những người chẳng biết cảnh giới gì đang xảy ra mà bảo: A ! Cảnh
giới này không tốt. Bạn đã bị ma nhập rồi ! Thật ra, vì tinh tấn dụng
công nên mới thấy những cảnh giới đó. Nếu không tinh tấn tu hành thì
không có cảnh giới gì hiển hiện. Thế nên, chớ sợ hãi. Sự hiểu biết
chân thật là không chấp trước vào bất cứ điều gì cả.
Trí quang biến chiếu bổn lai chân
(ánh sáng trí huệ chiếu rõ chân tánh xưa nay).
Hiện tại, chúng ta muốn phát triển
trí huệ; để làm được việc đó, trước hết chúng ta phải chịu thọ
khổ như dùng lửa trui rèn. Giả như quý vị là một đống vàng thì phải
dùng lửa trui để xem coi quý vị có phải là vàng thật hay không. Nếu là
vàng giả thì sẽ bị thiêu đốt. Nếu là vàng thật thì không sợ lửa hồng.
Nếu có mười lạng vàng thì vẫn là mười lạng dẫu có nấu đến đâu.
Nếu có mười lạng vàng giả thì khi nấu xong, có thể chỉ còn lại một
lạng. Hiện tại, chúng ta được tôi luyện để trở thành thân kim cang bất
hoại. Một khi đã luyện xong thì không còn sợ bom nguyên tử, bom khinh
khí, hay bất cứ vũ khí nguyên tử nào. Tại sao chúng ta có cảm giác sợ
sệt ? Vì chúng ta có thể bị hủy diệt. Tuyệt đối không vật gì có thể
hủy hoại thân kim cang bất hoại của quý vị được. Tuy nhiên, trước hết
phải chịu đựng vài sự cực khổ. Có người nói: Thật đau khổ quá mức.
Tôi không thể chịu nổi ! Ai cảm nhận đau khổ ? Quý vị nói: Tôi cảm
thọ sự đau khổ. Thế thì quý vị là ai ? Quý vị đáp: Tôi chỉ là thân
thể này. Nếu thân thể là quý vị thì sau khi chết sẽ như thế nào ?
Lúc đó thân thể ra sao ? Nếu lúc đó có ai đánh đập hay chửi mắng xác
thân của quý vị thì xác thân đó sẽ nhẫn chịu được. Nó sẽ nhẫn chịu
tất cả sự khổ đau mà không khó gì. Quý vị nói: Lý do là vì tôi đã
chết, nên không còn vấn đề gì cả. Vâng ! Tại sao không giả chết ngay
trong hiện tại ?
Nhược yếu nhân bất tử, tu tạo
hoạt tử nhân (nếu ai muốn tránh chết, phải sống như người đã chết).
Nếu muốn sống thì trước hết phải
cố thử chết. Có phải Tự tử chăng ? Không phải. Chỉ sống như người
đã chết. Nếu nhìn mọi việc với cách nhìn của người đã chết thì sẽ
không còn tranh đua, tham lam, sân hận, ngu si.
Tất cảc chư Phật, chư Bồ Tát,
và lịch đại Tổ-sư xuyên qua dòng thời gian đã từng thành tựu nhờ phương
pháp này. Các ngài xuất sanh từ pháp môn này. Hiện tại, chúng ta chớ sợ
khổ cực mà phải tinh tiến tu hành, nhận chân được việc tu trì, xả bỏ
muôn vọng tưởng. Chớ làm biếng giãi đãi. Vẫn còn chút khí lực nào
thì vẫn chạy hương và tọa hương. Chúng ta mượn cái giả để tu tập
chân tâm. Càng khó khăn chừng nào phải càng quyết tâm vượt qua chừng đó.
Mọi người thích làm việc dễ dàng. Chúng ta phải làm những gì mà người
khác không thích; phải nhẫn những gì họ không dám nhẫn. Chỉ có sự
tinh tiến dũng mãnh đó mới thành tựu trí huệ chân thật. Đấy là ý nghĩa
của việc rèn luyện thân kim cang bất hoại trong lò lửa hồng. Sau khi tôi
luyện xong, thân mạng sẽ trở nên mạnh mẽ và trí huệ sẽ phát sanh.
Nơi thiền đường, phải tự rèn
luyện thân lẫn tâm. Thân tránh việc giết hại, ăn cắp, tà dâm; tâm
tránh khởi tham, sân, si. Bằng cách đó chúng ta tinh tấn hành trì giới định
huệ để diệt trừ tham sân si. Không thể nào tạo nghiệp ngay trong thiền
đường. Dù có thể có những vọng tưởng ngây dại, nhưng không thể làm
theo chúng. Nhờ tránh nghiệp giết hại, ăn cắp, tà dâm, thân nghiệp được
thanh tịnh hóa về những tập khí xấu. Một khi gìn giữ thân nghiệp và
tâm được thanh tịnh cùng chuyên nhất, chúng ta phá vỡ màn vô minh và
khôi phục lại trí huệ sẳn có. Tuy nhiên, vẫn còn đắm chấp vào thân
tâm thì khó lòng xoay về cội nguồn và xả tà ngụy để quay về nẻo chánh.
Chúng ta chưa có thể xả bỏ thân thể, bản ngã, và ngã sở. Chỉ người
có thiện căn mới xả bỏ hết mọi chấp trước về bản ngã và pháp trần.
Nếu nhìn thấy thân vốn không (thật có) thì phá được sự chấp ngã. Nếu
đạt thiền định thì pháp chấp cũng không còn. Không chấp vào ngã và
pháp thì sẽ vượt ngoài thế sự, thoát khỏi sự chướng ngại của tình
chấp, và không bị vật chất dục lạc làm ô nhiễm. Không còn chấp trước
tức là giải thoát. Tuy nhiên, khó có thể hành được điều này. Nếu thật
sự không còn chấp vào mình và người thì Pháp thân sẽ biến khắp pháp
giới. Điều đáng thương hại là không một ai trong số chúng ta có thể
làm được điều này ! Có ai biết được rằng sẽ còn bao nhiêu đại kiếp
nữa chúng ta mới đạt đến cảnh giới này ?
Lúc tu hành, chúng ta phải bố thí
thân thể cho thiền đường. Phải trì giới bằng cách tránh làm điều xấu
và luôn hành việc lành. Phải kiên nhẫn chịu đau khổ. Không thể đánh mất
một tâm niệm tu hành nào cả. Khi thời điểm đến, trí huệ tự nhiên sẽ
hiện tiền và ánh sáng trí huệ Bát Nhã chiếu soi khắp ba ngàn đại thiên
thế giới. Song, phải cần trải qua thời gian tôi luyện. Do đó có câu:
Không thọ lạnh rét mùa đông thì hoa mai làm sao tỏa hương thơm ?
Muốn làm thành tựu việc gì cũng
cần phải có thời gian. Vừa gặp thử thách khó khăn mà thối chuyển thì
không thể nào đạt thành tựu gì được.
Thật tướng Bát Nhã tại kỳ trung
(nhận thấy tướng Bát Nhã ngay trong đó).
Pháp môn tham thiền là Vô vi mà vô
bất vi; nghĩa là vào lúc ngồi thiền, không làm gì nhiều cả. Tuy nhiên, nếu
có một người tham Thiền thì một người hỗ trợ cho chánh khí của Pháp
giới. Nếu mọi người đều tham thiền thì trên thế gian không còn chiến
tranh.
Hỏi: Có cần phải ngồi để tham
thiền không ?
Đáp: Vâng ! Ngồi thiền lâu mới
nhập vào thiền định; nghĩa là tham thiền đi cùng với việc ngồi thiền.
Ngồi thiền được lâu thì sẽ cảm nghiệm những cảnh giới không thể
nghĩ bàn. Tuy nhiên, bên cạnh việc ngồi thiền, thiền sinh chân chánh cũng
phải hành thiền vào lúc đi, đứng, nằm. Trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm,
ngồi, không có giây phút nào mà không tham thiền. Thiền sinh không màng thế
sự mà thường chiếu cố vào câu thoại đầu của mình Ai là người đang
niệm Phật đến độ không còn thời gian để ăn uống ngủ nghỉ. Dẫu
đi, đứng, nằm, ngồi đều phải tiếp tục tham quán thoại đầu cho tới
khi đạt đến sơn cùng thủy tận (tận cùng non nước), tức là tham quán
đến cực điểm.
Tham thiền cần phải chuyên nhất.
Khi sự chuyên nhất đạt đến cực điểm thì sẽ có khả năng đương đầu
với sự việc. Có câu: Khi đạt đến nơi cực điểm thì sẽ chuyển đổi.
Dẫu là việc gì, khi đạt đến cực điểm đều có thể đương đầu với
chúng. Hiện tại, vào lúc ngồi thiền, chớ than khóc khi chân vừa đau. Lúc
đau nhức đến cực điểm, nó sẽ ngừng và quý vị sẽ cảm nghiệm cảnh
giới vi diệu không thể nghĩ bàn. Không có cách nào để diển tả cảnh
giới đó được mà chỉ chính quý vị tự cảm nghiệm lấy. Một khi bị
đau nhức đến độ cùng cực thì sẽ không còn đau nhức vì đã vượt
qua cửa ải đau nhức. Tuy nhiên, vượt qua cửa ải đó xong cũng chưa đủ.
Thời gian sau sẽ có thêm cửa ải này, rồi đến cửa ải khác. Có thể
sau một giờ mới vượt qua cửa ải thứ nhất. Song, khi ngồi thêm một tiếng
rưỡi nữa thì đau nhức trở lại. Tại sao vậy ? Vì khí huyết chảy đến
độ muốn vượt khỏi thêm một cửa ải nữa. Do đó, quý vị phải nhẫn
chịu sự đau thêm cho đến khi không còn đau nhức. Một khi đau nhức tan mất,
quý vị sẽ cảm thấy rất an lạc, tự tại không thể diễn bày. Lúc ấy,
quý vị sẽ cảm thấy trời đất đều thái hòa.
Phải vượt qua những cửa ải đó
để gặt sự lợi lạc. Nếu la khóc giống như trẻ con khi vừa bị đau thì
không bao giờ có khả năng vượt qua những cửa ải đó. Phải kiên nhẫn
chịu đựng những gì không thể nhẫn nổi ! Hãy cắn răng chịu đựng !
Tuy nhiên, phải cương quyết ! Chớ sợ đau nhức hay khó khăn ! Với ba lực
vô úy đó, quý vị sẽ có khả năng vượt qua các cửa ải.
Tại sao ngồi trong thiền đường
chúng ta lại không có đủ định lực để nhẫn chịu chút ít đau, nhức,
hay khó khăn ? Tại sao lại cảm thấy không thể nhẫn nổi đến độ phải
rên la ? Vì chúng ta không có chút định lực và chưa vượt khỏi những cửa
ải đau, nhức, khó khăn đó. Hiện tại, nếu vượt qua chúng được thì
chúng ta sẽ đạt được sự an lạc tự tại. Nếu chịu đựng đau nhức
cùng cực đến độ quên cả mình thì sao còn sự đau nhức nào ? Làm bất
cứ việc gì, phải làm đến độ cùng cực. Lúc đến sự thanh tịnh cùng
cực thì ánh sáng sẽ chiếu suốt. Khi định lực và tâm thanh tịnh đạt
đến cực điểm, hào quang trí huệ tự nhiên sẽ hiển hiện và sẽ khai
ngộ. Ngày ngày đều mong muốn được khai ngộ, nhưng mong muốn loại khai
ngộ nào nếu không thể chịu đựng chút ít đau nhức ? Sao chẳng cảm thấy
tự xấu hổ ?
Có người than vãn: Trong thiền đường
có quá nhiều tiếng động như người này thì ho, người kia thì ngáy ngủ,
người nọ thì cựa quậy khiến chiếc ghế ngồi thiền kêu răng rắc. Không
thể nhẫn chịu được tiếng động ! Điều này có thể xảy ở mọi nơi.
Có thể tránh tiếng động này, nhưng tiếng động khác lại đến. Nếu biết
cách dụng công, thì khi có động hay tĩnh, quý vị sẽ không bị chúng chuyển,
nghĩa là không chú ý về chúng. Hoặc đôi mắt có thể chạy theo cảnh động
và tĩnh, nói: Người đó thật làm phiền, khiến tôi không thể nhập định.
Dù người khác không tạo ra tiếng động, quý vị vẫn không thể nhập định
được. Nếu nhập định được thì sẽ không chú tâm vào sự động hay
tĩnh của người khác. Do đó, vào lúc ngồi thiền, chớ mong muốn phải
hoàn toàn im lặng. Có thể tiếng động càng lớn thì sự khai ngộ càng
mau. Không cáu gắt vì tiếng động. Ngược lại, nếu quá im lặng, không
nên tìm cầu tiếng động; chúng chỉ là những cảnh giới thử thách.
Nếu biết dụng công thì ngay trong
phố xá đô thị cũng có thể tu hành được. Ngược lại, sẽ không thể
nào tu hành dù có lẫn trốn vào hư không. Không có chỗ nào là nơi tu hành
hoàn hảo nhất. Phải khắc phục hoàn cảnh. Gặp bất cứ hoàn cảnh nào,
chớ nói: Than ôi ! Hoàn cảnh này sao bi đát quá ! Dời đi nơi khác, hoàn cảnh
có thể còn tệ hơn. Cứ mãi dời chỗ này sang chỗ khác cho đến khi trong
vũ trụ không còn nơi nào thích hợp cả. Nếu khắc phục được hoàn cảnh
thì mọi nơi đều giống nhau. Chư Phật không chọn lựa nơi các ngài
thành đạo, vì bất cứ chỗ nào cũng có thể chứng đắc quả vị Phật.
Phải học cách nhẫn nhục. Nếu giữ
được tư thế bất động ngay cả lúc rất khó chịu, quý vị sẽ có
chút định lực, rồi sẽ phát sanh chút trí huệ. Có phải quý vị bảo rằng
muốn trì giới chăng ? Ngồi tham thiền chính là đang trì giới, tức là
trì giới nhẫn chịu đau nhức ! Lúc ngồi thiền tham quán câu Ai là người
đang niệm Phật mà không ngừng trong giây phút nào, thì thử hỏi quý vị
sẽ phạm giới gì ? Quý vị có tạo nhiều nghiệp xấu chăng ? Đang khi ngồi
thiền có phạm tội giết hại chăng ? Quý vị có những tâm niệm như: Hắn
thật đáng ghét. Tôi sẽ giết hắn chăng ? Không. Quý vị có nghĩ về việc
ăn cắp chăng ? Không. Tránh nghiệp giết hại và ăn cắp chính là đang trì
giới. Nhờ tham thiền quý vị tự nhiên giữ giới mà không cố gắng, rồi
dựa vào đó mà phát khởi thiền định.
Nếu không tham thiền, tất cả vọng
tưởng khởi lên trong tâm sẽ dẫn dắt quý vị đi tạo nghiệp giết hại,
ăn cắp, tà dâm, nói láo, hay uống rượu. Một tâm niệm sai lầm có thể
dẫn đến biết bao nghiệp xấu. Ngược lại, nếu ngồi thiền thì những
vấn đề đó đều tan biến trong khi tự nhiên giữ giới mà không cố gắng.
Nếu có thể chịu đựng sự đau nhức, thì sự giữ giới tự nhiên đó sẽ
phát sanh thiền định, rồi từ đó phát sanh trí huệ. Lúc ấy, quý vị
tinh tấn tu giới định huệ để diệt trừ tham sân si. Với ý chí tu
hành, quý vị tẩy trừ tham lam và không còn nóng giận khi bị người khác
đánh đập. Khi ngồi thiền quán, vô minh sẽ biến mất và tâm cuồng tánh
loạn sẽ tiêu tan. Xin hỏi chứ có phải đó là những điều lợi lạc vô
cùng chăng ? Đó là lý do tại sao bảo rằng tham thiền là pháp môn bao
trùm hết tất cả pháp môn. Khi tham thiền đúng đắn, càng hành nhiều chừng
nào thì càng mau khai ngộ hay minh mẫn chừng ấy. Phải tránh loại thiền
chết vì cách đó khiến chúng ta bị ngu si thêm, không thể phân biệt nam bắc
hay ngày đêm, thể như uống thuốc mê.
Bổn địa phong quang nguyên như thử
(cội nguồn xưa nay của chúng ta vốn là gì ?).
Mọi hơi thở, cử chỉ, lời nói,
hành vi, suy nghĩ, phản ứng đều ảnh hưởng đến thời gian và không gian
trong vũ trụ. Cũng vậy, khí lành, khí xấu, khí thanh tịnh, khí ô nhiễm
trong vũ trụ đều ảnh hưởng đến chúng ta. Nếu thật sự muốn xoay về
bổn gốc thanh tịnh và thấy rõ mặt mũi xưa nay của mình, thì phải xả
bỏ tất cả sự chấp trước về thân tâm cũng như nhìn xuyên suốt tất
cả sự vật. Chúng ta phải chịu đựng sự tôi luyện trong lò lửa hồng
trước khi phần thanh tịnh được tách khỏi phần ô nhiễm. Trí huệ sẽ
hiển hiện một khi tư tưởng và hơi thở đã được thanh tịnh hóa. Vẫn
còn phần ô trọc thì phần thanh tịnh chưa được đầy đủ, nghĩa là sự
ngu si của chúng ta vẫn còn đầy dẫy. Thế nên, đi và ngồi trong thiền
đường cũng giống như lắng đọng bùn xuống đáy nước, để nước tâm
được thanh tịnh trong sạch. Kế đến, nếu chúng ta lọc cặn cấu nơi đáy
nước thì pháp thân thanh tịnh sẽ hiển hiện. Lọc cặn cấu bùn nhơ
nghĩa là thấy tâm rõ tánh (minh tâm kiến tánh), xoay về cội nguồn, bước
lên đường trở về nhà để tìm xem nguyên quán của mình như thế nào.
Trong việc tu hành, phải thanh tịnh
hóa trong và ngoài. Thanh tịnh hóa bên trong nghĩa là không khởi những vọng
tưởng điên rồ. Thanh tịnh hóa bên ngoài nghĩa là không tạo tác những
hành vi lầm lẫn. Bên trong thì phải vun bồi đất tâm và dưỡng Phật tánh
như chư thánh hiền. Bên ngoài thì phải hành động như vì vua bằng cách
tránh làm việc xấu, thường làm việc lành, và mang lại lợi ích cho tất
cả chúng sanh. Bên ngoài tạo công để thành tựu quả lành bên trong; nghĩa
là ngoài lập công, còn trong thì tạo đức. Lập công có nghĩa là làm lợi
ích cho tất cả chúng sanh. Khi giúp người khác, chớ nên khởi niệm chấp
trước là mình đang làm lợi ích cho họ; phải xem như không có gì xảy
ra. Vừa có sự chấp trước thì liền chấp tướng. Lập công tạo đức làm
lợi ích cho chúng sanh là bổn phận mà chúng ta phải làm. Chớ giữ ý niệm
mình đang làm lợi ích cho họ để khi làm xong, không chấp gì cả. Ngoài
thì làm lợi cho người, còn trong thì làm lợi cho mình chính là ngồi tham
thiền. Ngồi thiền được phút giây nào thì có sự lợi ích của phút
giây đó. Những gì là lợi ích ? Khi ngồi thiền đến độ hoàn toàn tịch
tĩnh, ánh sáng thanh tịnh cùng cực chiếu suốt và quý vị sẽ cảm thấy
dường như trong không còn thân tâm, cũng như ngoài thì không còn thế giới.
Khi không ngồi thiền mà vẫn nhập vào cảnh giới này, thì được gọi là
động tĩnh nhất như (trong động hay trong tĩnh lặng, tâm niệm đều như
nhau). Nói cách khác, khi ngồi tĩnh tọa hay di động đều không khởi cứ vọng
niệm nào. Động là tĩnh và tĩnh là động, tức là không còn có hai.
Khi công phu được như thế, quý vị
sẽ thường nhập trong thiền định. Thế nên có câu: Thời thời thường
trong định. Chẳng có lúc nào mà không định.
Nhất cử nhất động đều trong định;
mọi ngôn từ, hành vi, đi, đứng, nằm, ngồi đều được hành trong định.
Mắt xem thấy sắc nhưng trong tâm lại
trống không. Tai nghe âm thanh nhưng nào biết đến.
Để đạt đến cảnh giới thiền
định này cần phải ngồi tham thiền. Trải qua thời gian dài dụng công
thì sẽ đạt đến đó.
Nếu thật sự dụng công hay đến
độ tương ưng với đạo thì không còn biết đói khát, lạnh nóng, tức
là chẳng màng việc gì. Nếu đạt đến cảnh giới đó, quý vị sẽ biết
rõ tất cả mọi việc. Làm việc gì, nếu làm hoàn toàn đến độ cùng cực
thì sẽ có sự thay đổi. Cũng vậy, khi đạt đến điểm cùng cực của sự
tĩnh lặng thì dao động hiển hiện. Ngược lại, khi dao động đến cực
điểm thì tĩnh lặng hiển lộ. Điển hình, ban ngày là động và ban đêm
là tĩnh. Trời tối sẫm mãi rồi cũng phải hừng sáng. Ngày sáng mãi rồi
cũng hoàng hôn. Do đó, một ngày một đêm chính là một động một tĩnh.
Nếu biết cách dụng công thì tu hành cho đến độ cái động không làm chướng
ngại cái tĩnh và cái tĩnh không làm chướng ngại cái động; trong động
có tĩnh và trong tĩnh có động. Lúc đó, sẽ nhận thấy trong chân không
có diệu hữu và trong diệu hữu có chân không.
Chúng ta phải quyết chí tham thiền
cho đến khi nhận rõ mình là ai. Do mê lầm, chúng ta đến cõi này. Cuộc
đời vô ý nghĩa nếu vẫn tiếp tục chết trong mê mờ. Chúng ta nhất định
phải biết tại sao sanh ra ở cõi này và chết rồi sẽ đi về đâu. Chúng
ta có thể chết một cách tự do tự tại chăng ? Mục đích tu hành của
chúng ta là phải đạt được sự tự tại trong sanh tử vì đó mới là sự
tự do chân thật, tức là khả năng đến đi bất cứ nơi nào mà mình
thích chứ không có phiền muộn lo âu. Nếu muốn đến cõi Tây Phương Cực
Lạc, chúng ta chỉ việc ngồi xếp bằng trong tư thế hoa sen, giã từ mọi
người rồi đi vãng sanh. Đó mới gọi là sự giải thoát sanh tử chân thật.
Có câu: Để thoát chết, phải dụng
công rốt ráo.
Để thoát dòng sanh tử, phải tu
hành mà không sợ chết. Không nên sợ đau nhức, khổ sở, nhọc nhằn, khó
khăn, hay bất cứ điều gì.
Thiền là thể chính yếu của chư
Phật. Chư Phật trong mười phương xuất sanh từ thiền định. Nếu thiếu
công phu tu thiền định, quý vị không thể nào khai ngộ hay chứng đắc quả
vị Phật. Chúng ta không thuộc vào bất cứ tông phái nào như Quy Ngưỡng,
Lâm Tế, Tào Động, Pháp Nhãn, Vân Môn. Chúng ta bao trùm toàn thể. Ví dụ,
nếu cái bàn này biểu trưng cho sự hiện hành (tác dụng) của toàn thể
thì chúng ta cũng giống như cái bàn tròn chứ không phải là một góc cạnh
nào đó. Đó là lý do tại sao chúng ta phải làm hết sức tự nhiên mà
không khoe khoang.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/044-TuyenHoa-canban.htm