- Những bài pháp tiêu
biểu của HT. Tuyên Hóa (II)
- Thích Hằng Đạt tuyển chọn
Pháp Môn niệm Phật
Bồ tát Quán Thế Âm
Kinh Lăng Nghiêm đại biểu chánh pháp Như Lai
(Xem
thêm Phần I)
Pháp Môn Niệm Phật [^]
A Di Đà Phật Đại Pháp Vương (Phật
A Di Đà là đấng Pháp Vương vô thượng).
Tại sao chúng ta niệm Nam mô A Di Đà
Phật ? Vì Phật A Di Đà có duyên lành lớn với chúng sanh trong mười
phương. Trước khi chứng quả vị Phật, lúc còn tu hành nơi nhân địa, Ngài
là vị tỳ kheo có pháp hiệu là Pháp Tạng; vị này phát 48 lời nguyện
mà trong đó có lời nguyện: Nguyện rằng sau khi thành Phật, nếu chúng
sanh trong 10 phương xưng niệm danh hiệu của tôi thì nhất định sẽ thành
Phật. Bằng không, tôi sẽ không chứng quả vị Phật.
Nguyện lực của Phật A Di Đà giống
như nam châm; chúng sanh trong 10 phương giống như sắt vụn. Đó là nhân
duyên mà Ngài tiếp độ chúng sanh trong 10 phương sang cõi Tây Phương Tịnh
Độ. Nếu chúng sanh không được tiếp độ thì sao ? Phật A Di Đà nguyện
rằng chính Ngài sẽ không thành Phật. Do đó, tất cả chúng sanh như chúng
ta nếu xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà thì sẽ có cơ hội thành Phật.
Phổ nhiếp quần cơ vãng Tây Phương
(tiếp độ hết muôn loài vãng sanh cõi Tây Phương Cực Lạc).
Kinh Di Đà thuộc thể loại kinh mà
không do ai thỉnh hỏi nhưng Phật tự thuyết. Tại sao ? Vì không hiểu rõ
pháp môn này, nên không ai có thể thỉnh Phật thuyết. Đại trí Xá Lợi
Phật là vị đủ căn cơ lành nhưng không biết thỉnh hỏi Phật về pháp
môn này. Có thể vì không giữ mãi được, nên Phật mới dạy cho đại chúng
biết về pháp môn phương tiện nhất, trực tiếp nhất, hoàn mãn nhất, dễ
dàng nhất. Nếu ai chỉ cần nhất tâm bất loạn mà niệm danh hiệu Phật
A Di Đà trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho
đến bảy ngày, thì vào lúc lâm chung Ngài sẽ cùng chư thánh chúng hiện
trước mặt người đó và tiếp dẫn họ sang cõi Tịnh Độ.
Hầu hết mọi người đều cảm thấy
khó tin về pháp môn này, nhưng đây là pháp môn trực tiếp và dễ hành nhất.
Pháp môn Niệm Phật thích hợp cho
cả ba căn cơ và mang lại lợi ích cho kẻ ngu lẫn người trí. Dù thông
minh hay ngu si, tất cả đều có khả năng thành Phật. Khi được vãng sanh
sang cõi Tây Phương Tịnh Độ nơi không còn các điều khổ mà chỉ có những
sự an vui, thì sẽ hóa sanh từ hoa sen. Lúc đó, chúng ta sẽ không còn sanh
trong bào thai như con người mà sẽ hóa sanh trong hoa sen, sống trong đó một
thời gian, rồi tương lai sẽ thành Phật.
Trú dạ trì danh chuyên thành niệm
(ngày đêm thành tâm chuyên nhất trì danh hiệu Phật).
- Nhất cú Di Đà vạn pháp vương
- Ngũ thời bát giáo tận hàm tạng
- Hành nhân đản năng chuyên trì niệm
- Định nhập Như Lai bất động đường.
Tạm dịch:
- Một câu Di Đà là vua muôn pháp
- Năm thời tám giáo đều bao trùm cả
- Những ai chuyên trì niệm danh hiệu Ngài
- Sẽ vào thiền định bất động Như Lai.
Một câu Di Đà là vua muôn pháp. Năm
thời tám giáo đều bao trùm cả. Giáo lý của Phật Thích Ca được phân
thành tám giáo: Tạng, thông, biệt, viên, đốn, tiệm, bí mật, bất định.
Năm thời là thời Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa và Niết
Bàn. Năm thời và tám giáo đều được bao hàm trong một câu Di Đà.
Những ai chuyên trì niệm danh hiệu
Ngài, sẽ vào thiền định bất động Như Lai. Người đó sẽ chắc chắn
vãng sanh sang cõi Tịnh Độ Thường Tịch Quang. Chúng sanh trong đời mạt
pháp sẽ được cứu độ nhờ niệm danh hiệu Phật. Nếu chúng ta muốn
được tiếp độ, phải thường niệm Phật.
- Thiểu thuyết nhất cú thoại
- Đa niệm nhất thanh Phật
- Đả đắc niệm đầu tử
- Hứa nhữ pháp thân hoạt
Tạm dịch:
- Nói bớt ít một câu
- Thêm một tiếng niệm Phật
- Đập chết vọng niệm xấu
- Khiến sống lại pháp thân.
Chúng ta chớ xem thường pháp môn
niệm Phật.
Thời khắc quán tưởng thiện tư
lượng (trong mọi phút giây đều phải quán tưởng kỸ càng).
Có bốn cách niệm Phật.
1/ Trì danh niệm Phật: Nghĩa là cứ
niệm Nam mô A Di Đà Phật liên tục không dừng.
2/ Quán tưởng niệm Phật: Nghĩa là
quán xem:
- A Di Đà Phật thân kim sắc
- Tướng hảo quang minh vô đẳng luân
- Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di
- Cám mục trừng thanh tứ đại hải
- Quang trung hóa Phật vô số ức
- Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên
- Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh.
- Cửu phầm hàm linh đăng bỉ ngạn
Tạm dịch:
- Phật A Di Đà thân sắc vàng
- Hảo tướng sáng ngời không ai sánh
- Mi trắng uyển chuyển năm Tu Di
- Mắt xanh thanh tịnh rộng như biển
- Trong hào quang vô số hóa Phật
- Chư hóa Bồ Tát cũng vô biên
- Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
- Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
3/ Quán tướng niệm Phật: Nghĩa là
vừa niệm Phật và vừa quán hình tượng của Ngài. Phải niệm câu đó
rõ ràng, nghe rành mạch, và giữ trong tâm rành rẽ.
4/ Thật tướng niệm Phật: Chính
là tham thiền. Khi tham thiền, chúng ta tham quán câu Ai là người đang niệm
Phật ? Chúng ta niệm Nam mô A Di Đà Phật suốt hai tuần, rồi tìm xem Ai
là người đang niệm Phật. Phải thường tham quán chứ không để mất chữ
Ai. Nếu đánh mất thì không thể trở về quê cũ. Nếu như thế thì sẽ
không gặp Phật Di Đà.
Chánh tín chánh nguyện chánh hạnh
giả (phải có chánh tín, chánh nguyện và chánh hạnh).
Tín, nguyện, hạnh là ba tư lương
của người tu hành pháp môn niệm Phật. Sao gọi là tư lương ? Để du hành
đến một nơi nào đó, quý vị phải chuẩn bị lương thực; đó gọi là
Lương; chuẩn bị đem theo tiền bạc, đó gọi là Tư. Tư lương chính là
thức ăn và tiền bạc mà quý vị phải đem theo. Muốn sang cõi Tây Phương
Tịnh Độ cũng phải có ba hành trang; đó là tín, nguyện, hạnh.
Trước hết nhất định phải có
niềm tin, bằng ngược lại thì không có duyên lành với cõi Cực Lạc. Thế
nên, việc đầu tiên là phải có niềm tin; nghĩa là tin mình, tin Phật, tin
nhân, tin quả, tin lý, tin sự.
Tại sao tin mình ? Phải tin mình quyết
có đủ khả năng và tư cách vãng sanh sang cõi Tây Phương Tịnh Độ. Chớ
tự khinh mình mà bảo: Tôi tạo quá nhiều nghiệp xấu. Tôi không thể được
vãng sanh sang cõi đó. Đó là không có niềm tự tín. Giả sử có tạo bao
nghiệp nặng, nhưng nay gặp được duyên lành: Có thể Đới nghiệp vãng
sanh (mang nghiệp sang cõi Tây Phương). Nghĩa là dù có tạo nghiệp xấu gì
trong quá khứ, quý vị vẫn có thể được vãng sanh và mang theo những nghiệp
đó sang cõi Cực Lạc. Tuy nhiên, phải biết rằng chỉ mang những nghiệp xấu
đã lầm tạo trong quá khứ chứ không phải nghiệp xấu đang tạo tác.
Nghiệp xấu trong quá khứ tức là những nghiệp trong các đời tiền kiếp.
Nghiệp xấu đang tạo tác sẽ chín muồi trong tương lai. Quý vị chỉ có
thể mang những nghiệp xấu đã tạo trong quá khứ chứ không phải nghiệp
đang tạo trong hiện tại mà sẽ chín muồi trong tương lai. Dù xưa kia có tạo
nghiệp gì, nhưng hiện tại vẫn có thể chuyển việc xấu hướng về điều
lành, ngừng làm ác để trở thành người lương thiện. Làm được như thế
mới mang nghiệp xa xưa sang cõi Tịnh Độ. Nếu vẫn tạo nghiệp thì không
thể nào được vãng sanh.
Thứ hai, phải tin chắc rằng có
cõi Tây Phương Cực Lạc, cách xa thế giới chúng ta hơn trăm ngàn triệu
cõi Phật. Trước khi thành Phật, tỳ kheo Pháp Tạng phát nguyện tạo cảnh
Cực Lạc ở phương tây; nơi đó nếu có bất cứ chúng sanh nào trong 10 phương
phát nguyện cầu vãng sanh thì sẽ được vãng sanh bằng cách niệm danh hiệu
của Phật A Di Đà mà không cần làm gì thêm cả. Đây là pháp môn đơn giản
nhất, dễ dàng nhất, thuận tiện nhất, hoàn mãn nhất mà không tốn kém
hay mất công sức gì cả. Đây là pháp môn tối cao và vô thượng nhất, vì
chỉ cần niệm Nam mô A Di Đà Phật là sẽ được vãng sanh sang cõi Cực Lạc.
Lại nữa, phải cần tin nhân và
tin quả. Tin nhân nghĩa là tin rằng trong quá khứ quý vị đã từng gieo trồng
căn lành khiến cho hôm nay tin tưởng vào pháp môn này. Nếu không có căn lành
thì không ai có thể gặp được pháp môn Niệm Phật. Nhờ có căn lành đã
trồng trong quá khứ nên ngày nay mới biết tín, nguyện, hạnh của pháp
môn Niệm Phật. Song, nếu không tiếp tục trưởng dưỡng căn lành đã từng
gieo trồng thì sẽ không thể gặt hái quả Bồ Đề trong tương lai. Đó
là lý do tại sao phải tin vào lý nhân quả; tin rằng do quá khứ đã gieo
nhân lành Bồ Đề nên trong tương lai sẽ gặt hái quả giác ngộ. Lý này
cũng giống như gieo lúa mạ trên đồng: Phải trưỡng dưỡng, vun trồng hạt
giống trước khi chúng nẩy mầm.
Cuối cùng, phải tin vào sự và
lý. Tin sự nghĩa là phải tin rằng Phật Di Đà có duyên lành lớn lao đối
với chúng ta và chắc chắn sẽ tiếp dẫn chúng ta đến quả vị Phật.
Tin lý nghĩa là chúng ta có duyên lành lớn với Phật A Di Đà, bằng ngược
lại thì không thể gặp được pháp môn Tịnh Độ. Phật A Di Đà là tất
cả chúng sanh và tất cả chúng sanh cũng là Phật A Di Đà. Phật A Di Đà
thành Phật nhờ niệm danh hiệu Phật. Nếu niệm Phật, chúng ta cũng sẽ
thành Phật A Di Đà.
Chúng ta phải y chiếu theo sự và
lý mà tu hành. Kinh Hoa Nghiêm thuyết về bốn pháp giới:
- 1/ Sự vô ngại pháp giới.
- 2/ Lý vô ngại pháp giới.
- 3/ Sự lý vô ngại pháp giới.
- 4/ Sự sự vô ngại pháp giới.
Xem xét về bốn pháp giới đó và
bàn từ tự tánh thanh tịnh, chúng ta và Phật A Di Đà vốn là một, nên
chúng ta có đủ tư cách để thành Phật.
Phật A Di Đà là đức Phật A Di Đà
ngay trong bản tánh của chúng sanh (tự tánh Di Đà); chúng sanh là chúng sanh
ngay trong tâm của Phật A Di Đà. Do mối liên hệ mật thiết đó nên có
lý và sự. Tuy nhiên, quý vị phải tin tưởng lý này và tinh tấn thực
hành bằng cách niệm danh hiệu Phật, chứ không thể làm biếng. Sự niệm
Phật của quý vị phải tăng trưởng mà không thể giảm bớt.
Đã bàn xong về chữ Tin, nay chúng
ta sẽ bàn về lời Nguyện. Sao gọi là nguyện ? Nguyện tức là ý nguyện;
khi ý nguyện hay ý niệm của quý vị hướng về một điều gì đó thì gọi
là phát nguyện. Chúng ta biết bốn lời nguyện:
- Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
- Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
- Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
- Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Tất cả chư Phật và chư Bồ Tát
trong quá khứ, hiện tại, và vị lai đều y theo bốn lời nguyện đó mà
hành hạnh Bồ Tát và thành Phật.
Để lập nguyện, trước hết phải
có niềm tin. Thứ nhất, tin tưởng có cõi Tây Phương Cực Lạc. Thứ hai,
tin tưởng vào Phật A Di Đà. Thứ ba, tin tưởng rằng chúng ta và Phật A
Di Đà có duyên lành lớn lao nên chắc chắc sẽ được vãng sanh sang cõi
đó. Với niềm tin vào ba điều trên, quý vị mới có thể phát nguyện:
Tôi nguyện sẽ vãng sanh sang cõi nước của Phật A Di Đà.
Những lời nguyện cần thiết như:
Tôi nguyện được vãng sanh sang cõi kia. Không ai bắt hay kéo tôi phải đi.
Tuy bảo rằng Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn, tôi vẫn tự nguyện đi vì
muốn thân cận Ngài. Tôi nguyện sanh sang cõi Cực Lạc và khi hoa sen nở sẽ
được thấy Phật A Di Đà để nghe pháp.
Kế đến phải lập Hạnh. Làm sao
lập Hạnh? Niệm danh hiệu Phật: Nam mô A Di Đà Phật, nam mô A Di Đà Phật...
thể như muốn tránh bị xử tử.
Tín, nguyện, hạnh là hành trang và
vé để vãng sanh sang cõi Cực Lạc.
Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng
ca (bài ca niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng).
Lúc đang niệm Nam mô A Di Đà Phật,
mỗi chúng ta tạo tác, trang nghiêm, làm thành tựu cho mình một cõi Cực Lạc,
nơi cách xa chúng ta trăm ngàn triệu cõi Phật. Hiện tại, tuy cõi Tây Phương
Cực Lạc của Phật A Di Đà có cách chúng ta trăm ngàn triệu cõi Phật, nhưng
khoảng cách đó không vượt ngoài một tâm niệm. Vì ngay trong tâm niệm,
nên bảo rằng cõi đó không xa. Cõi Cực Lạc là cội nguồn chân tâm của
mỗi chúng ta. Nếu đạt được tâm này thì sẽ được vãng sanh sang đó.
Nếu không hiểu chân tâm xưa nay của mình thì sẽ không được vãng sanh.
Giữa Phật A Di Đà và chúng sanh không có phân chia bỉ thử. Đó là lý do
tại sao tôi nói rằng cõi Cực Lạc không xa. Trong một tâm niệm, hãy xoay
lại phản chiếu chính mình để biết rõ mình vốn là Phật, và quả vị
Phật đó chính là cõi Cực Lạc.
Với lý do đó, phải diệt trừ mọi
vọng niệm ô uế, tạp niệm ái dục, tâm niệm ganh ghét, tâm niệm chướng
ngại, tâm niệm ích kỶ, tâm niệm tự lợi. Phải học theo hạnh lợi tha
của chư Bồ Tát, cứu giúp tất cả chúng sanh được giác ngộ. Nếu được
như thế thì cảnh Cực Lạc luôn hiện trước mắt. Quý vị có đồng ý rằng
nếu vọng tưởng và tạp niệm tan mất thì cảnh Cực Lạc hiển hiện chăng
? Nếu không đồng ý thì đó là cảnh giới gì ? Chớ chạy tìm cầu ở
bên ngoài.
Quý vị thiện tri thức ! Tất cả
quý vị đều là những bậc đại trí đại huệ. Quý vị thông minh hơn tôi
nhiều và trong tương lai sẽ thuyết pháp hay hơn tôi. Bởi vì quý vị
không hiểu tiếng Tàu, nên nay tôi giới thiệu quý vị truyền thống tu
hành xưa. Trong tương lai, quý vị sẽ chuyển hóa và khiến pháp môn này vi
diệu không thể nghĩ bàn.
Xin cho tôi viết bài ca:
- Đại thánh chúa, A Di Đà
- Đoan nghiêm vi diệu canh vô quá
- Thất bảo trì, hoa tứ sắc
- Dõng kim ba.
Tạm dịch:
- Chúa đại thánh A Di Đà
- Trang nghiêm vi diệu không ai sánh
- Ao bảy báu, hoa bốn màu
- Sóng vàng kim.
Ai là vị đại thánh chúa ? Đó là
Phật A Di Đà. Thế nên bảo: Chúa đại thánh A Di Đà, trang nghiêm vi diệu
không ai sánh. Đức tướng của Ngài trang nghiêm vi diệu mà không có hình
tượng nào sánh bằng. Ngay trong ao bảy báu có hoa bốn màu, tức là bốn
màu sắc của hoa sen. Không những ao đầy cả bảy loại châu báu mà nước
ao cũng tỏa ánh vàng ròng.
Thanh hoàng xích bạch diệu liên hoa
(hoa sen xanh vàng trắng đỏ vi diệu).
Cõi Cực Lạc, trong ao bảy báu với
nước tám công đức có hoa sen xuất sanh ra do cảm ứng từ sự niệm Phật
của chúng ta. Càng niệm Phật nhiều chừng nào thì hoa sen đó càng lớn chừng
ấy, nhưng lại chưa nở. Vào lúc qua đời, tự tánh của chúng ta hóa sanh
trong hoa sen đó ở cõi Cực Lạc. Có chín phẩm hoa sen, nhưng mỗi phẩm đều
tùy thuộc vào công phu niệm Phật của chúng ta. Càng niệm nhiều thì hoa
sen càng lớn thêm; ít niệm thì hoa sen nhỏ lại. Nếu tôi không niệm thì
sao ? Nếu hoàn toàn ngừng niệm Phật thì hoa sen của chúng ta sẽ héo tàn.
Những phẩm hoa sen tùy thuộc vào sự cố gắng niệm Phật của chúng ta.
Phong động thuỶ tịnh diễn ma ha
(gió thổi, nước trong lặng diễn pháp Đại Thừa).
Tâm thanh tịnh như trăng hiện trên
mặt nước. Ý định như bầu trời không mây. Nếu nhập vào niệm Phật
tam muội thì sẽ nghe tiếng gió thổi mưa rơi câu: Nam mô A Di Đà Phật.
Trong mọi âm thanh đều nghe tiếng niệm Phật. Thế nên có câu: Nước chảy
gió thổi diễn pháp Đại Thừa. Tô Đông Pha viết: Sơn sắc vô phi quảng
trường thiệt. Khê thanh vô phi thanh tịnh âm (Sắc núi không đâu chẳng phải
là lưỡi rộng. Tiếng suối không chi chẳng phải là tiếng thanh tịnh.
Tất cả màu sắc núi non đều là
tướng lưỡi rộng dài của chư Phật đang diễn thuyết pháp vi diệu. Đó
là cảnh giới của sự chứng đắc niệm Phật tam muội. Vì vậy tôi viết
bài kệ:
- Niệm Phật năng niệm vô gián đoạn
- Khẩu niệm Di Đà đả thành phiến
- Tạp niệm bất sanh đắc tam muội
- Vãng sanh Tịnh Độ định hữu phần
- Chung nhật yểm phiền Ta Bà khổ
- Tài tương hồng trần tâm niệm đoạn
- Cầu sanh Cực Lạc ý niệm trọng
- Phóng hạ nhiễm niệm quy tịnh niệm.
Tạm dịch:
- Niệm Phật nên niệm không gián đoạn
- Miệng niệm Di Đà đánh thành khối
- Tạp niệm không sanh đạt tam muội
- Vãng sanh Tịnh Độ quyết có phần
- Suốt ngày chán cảnh khổ Ta Bà
- Đoạn trừ tâm niệm chấp cảnh trần
- Cầu sanh Cực Lạc ý niệm trọng
- Xả bỏ niệm xấu quy niệm tịnh.
Niệm Phật suốt từ sáng đến tối
thì vọng niệm sẽ không sanh khởi, sẽ tự nhiên đạt niệm Phật tam muội,
và sẽ được vãng sanh sang cõi Cực Lạc theo ý thích. Biết rõ cõi Ta Bà
đầy dẫy những sự đau khổ, nên phải cắt đứt mọi tâm tham dục, mong
cầu, hay tranh đua danh lợi. Hãy xả bỏ tất cả việc thế tục và tâm niệm
vì chúng đều là hư giả. Hãy cầu vãng sanh sang cõi Cực Lạc. Tâm niệm
như thế rất quan trọng. Bài kệ này giải thích rõ ràng về lý lẽ niệm
Phật. Nếu nếm được mùi pháp lạc đó thì sẽ nhận thấy rất hữu dụng.
Nhất tâm bất loạn thành tam muội
(một lòng chuyên chú thì thành tựu thiền định).
Niệm Phật hằng ngày trong Phật thất,
chúng ta gieo hạt giống Phật tánh. Mỗi lần niệm là gieo một hạt; niệm
mười lần thì gieo mười hạt. Nếu niệm hàng triệu lần trong một ngày
thì gieo trồng hàng triệu hạt giống để rồi một ngày nào đó chúng sẽ
đâm chồi. Chỉ cần niệm; chớ lo lắng về tạp niệm.
- Thanh châu đầu ư hồn thuỶ
- Hồn thủy bất đắc bất thanh
- Niệm Phật nhập ư loạn tâm
- Loạn tâm bất đắc bất Phật.
Tạm dịch:
- Châu xanh ném vào nước dơ
- Nước dơ không thể chẳng trong
- Niệm Phật nhập vào tâm loạn
- Tâm loạn không thể chẳng giác.
Niệm Phật cũng giống như ném hạt
châu vào nước đục khiến nó trở nên lắng trong. Hạt châu thanh tịnh
hóa nước dơ này có thể làm trong sạch bùn sình. Niệm Phật cũng như hạt
châu đó. Ai đếm được con số vọng tưởng nổi lên từng hồi không ngừng
như dòng sóng biển ? Khi danh hiệu Phật nhập vào tâm tán loạn, tâm tán
loạn trở thành tâm Phật, tức là tâm giác ngộ. Niệm Phật một lần
thì trong tâm có một vị Phật; niệm mười lần thì có mười vị Phật;
niệm trăm lần thì có trăm vị Phật; càng niệm thì càng có nhiều vị Phật.
Chỉ cần niệm Nam mô A Di Đà Phật thì có tâm Phật trong ý niệm. Khi niệm
Phật thì Phật niệm chúng ta cũng giống như bắt làn sóng tivi. Quý vị niệm
ở đây thì Phật ở bên kia niệm quý vị. Đó là cảm ứng đạo giao. Khi
niệm Phật, nhờ không còn bất cứ vọng niệm nào, nên tự tánh có công
đức vô lượng.
Vạn lự giai không, nhập liên bang
(muôn niệm đều ngừng liền nhập vào cõi Cực Lạc).
Tâm niệm vọng động luôn luôn
tìm việc để làm mà không ngơi nghỉ. Để cho nó được rãnh rỗi tự tại,
chúng ta cho nó công tác bằng cách niệm Nam mô A Di Đà Phật. Đây cũng là
một hình thức tham thiền. Không cần phải ngồi xếp bằng nhắm mắt như
thiền sư Lâm Tế để tham thiền. Quý vị có thể mở mắt khi tham thiền.
Đi cũng thiền; đứng cũng thiền;
nói năng động tĩnh đều an nhiên.
Đi, đứng, nằm, ngồi đều tham
thiền. Người xưa có câu: Có Thiền có Tịnh độ như cọp thêm sừng. Hiện
đời làm thầy trời người; đời sau sẽ làm Phật Tổ. Có thiền mà
không Tịnh độ, mười người tu thì chín người lạc. Không thiền mà có
Tịnh độ, muôn người tu thì muôn người được vãng sanh.
Pháp môn Tịnh độ là phương pháp
tu hành dễ dàng nhất. Trong quá khứ, chư đại Bồ Tát đều tán thán
pháp môn Tịnh độ, như Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền (chính Ngài niệm Phật
và khuyến khích chúng sanh trong 10 phương cầu vãng sanh, trong phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện, kinh Hoa Nghiêm), Quán Âm, Thế Chí. Ai đã từng nghe qua kinh Lăng
Nghiêm thì phải biết đến chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông
bàn rõ và rất hay về pháp môn niệm Phật. Tất cả chư đại Bồ Tát
trong quá khứ đều tán thán và chuyên tu pháp môn Tịnh độ. Chư Tổ sư
trong quá khứ đều bắt đầu tham thiền, ngộ đạo, rồi chuyên chú niệm
Phật. Thiền sư Vĩnh Minh mỗi khi niệm một danh hiệu Phật thì có một
hóa Phật hiện ra từ cửa miệng. Gần đây, đại pháp sư Ấn Quang chuyên
môn đề xướng pháp môn niệm Phật. Ngài Hư Vân cũng đề xướng như thế.
Pháp môn được chư Phật tán thán này rất dễ dàng, thuận tiện, và
hoàn mỸ nhất. Có phải trong kinh A Di Đà miêu tả chư Phật trong 10
phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài bao trùm ba ngàn đại thiên thế
giới để tán thán pháp môn này không ? Đây là cách tu hành hay nhất. Mọi
người nên dùng pháp môn này mà đặt biệt nhất là ngay trong đời mạt
pháp. Tuy nhiên, vì đang duy trì chánh pháp ở nơi đây, nếu không muốn niệm
Phật thì phải tham thiền thể như mạng sống tùy thuộc vào đó. Chớ sợ
khổ đau !
Đốn ngộ vô sanh Phật thân hiện
(chóng ngộ đến nơi vô sanh thì thân Phật hiển hiện).
Trì danh niệm Phật là pháp môn rất
quan trọng trong thời mạt pháp, nên pháp môn này được phổ biến khắp mọi
nơi. Tuy nhiên, chớ xem thường pháp môn này. Mỗi lần thiền sư Vĩnh Minh
niệm một danh hiệu Phật thì từ trong miệng xuất ra một vị hóa Phật
mà những ai có ngũ nhãn lục thông vào đương thời mới thấy rõ. Khi niệm
Phật, quý vị phóng ánh hào quang khiến yêu ma quỶ quái đều hoảng sợ,
bỏ chạy xa, không dám quấy rầy. Do đó, công đức niệm Phật không thể
nghĩ bàn.
Diệu giác quả vị tự thừa
đương (chứng đắc quả vị Diệu Giác là bổn phận).
Chớ hỏi rằng pháp môn niệm Phật
là thật hay giả. Nếu dụng công giỏi thì pháp môn đó sẽ thật, bằng
ngược lại thì sẽ giả. Tất cả pháp môn đều như thế.
Khi kẻ tà tu hành chánh pháp thì
chánh pháp biến thành tà pháp. Khi người chân chánh hành tà pháp thì tà
pháp biến thành chánh pháp.
Tất cả đều do con người. Khi lễ
Phật, phải quán tưởng như vầy: Thân con lễ khắp 10 phương chư Phật
trong vô lượng cõi Phật.
Hãy quán tưởng thân mình bao trùm
khắp pháp giới.
- Nhược nhân dục liễu tri
- Tam thế nhất thiết Phật
- Ưng quán pháp giới tánh
- Nhất thiết duy tâm tạo.
Dịch:
- Nếu ai muốn biết rõ
- Ba đời của chư Phật
- Nên quán tánh pháp giới
- Tất cả do tâm tạo.
Thiết vọng chư hiền tề nỗ lực
(hy vọng tất cả người hiền đều đồng lòng nỗ lực tu hành).
Pháp môn niệm Phật là phương pháp
tu hành dễ dàng nhất mà ai ai cũng có thể hành được. Chỉ cần niệm
Nam mô A Di Đà Phật thì vào lúc lâm chung sẽ được vãng sanh trong hoa sen
nơi cõi Cực Lạc, ngày ngày được nghe Phật A Di Đà thuyết pháp, và
trong tương lai sẽ thành Phật. Trong tương lai vào lúc qua đời, nếu niệm
Phật thì được vãng sanh. Tuy nhiên, trong hiện thời chưa chết thì tại
sao phải niệm danh hiệu của Ngài ? Phải dụng công niệm Phật trong hiện
tại để nhớ mà niệm vào lúc qua đời. Giống như cây phải mọc trong
bao năm mới cao đến trăm thước, quý vị phải niệm Phật ngay bây giờ
để khi tử thần đến mới có khả năng niệm chuyên chú mà không bị bịnh
hoạn, tham lam, sân hận, si mê làm điên đảo, rồi Phật A Di Đà sẽ đến
tiếp dẫn. Nếu không niệm ngay bây giờ thì sẽ không còn nhớ niệm khi
thân thể rã rời vào lúc sắp chết, trừ khi có thiện tri thức đến nhắc
nhở và cứu giúp. Do đó, việc quan trọng là phải niệm Phật hằng ngày
và nhập vào niệm Phật tam muội để sự niệm Phật sẽ đến tự nhiên
vào lúc lâm chung mà không quên mất. Hoặc giả, nếu không thể niệm Phật,
nhưng Phật A Di Đà vẫn không quên cỡi thuyền đại nguyện đến tiếp độ
quý vị lên sen vàng và tiếp dẫn sang cõi Cực Lạc. Ngài sẽ không quên
quý vị.
Quý vị niệm Phật. Tôi niệm Phật.
Tại sao quý vị và tôi niệm Phật ? Để chấm dứt dòng sanh tử; để
chuyển hóa cõi Ta Bà; để mọi nơi đều là cõi Cực Lạc của Phật A Di
Đà. Không chấp mình và người thì còn gì nữa ? Quán tịch tĩnh, đều tự
hiểu muôn vật. Đoạn phiền não, phá vô minh, vượt khỏi sông ái của ba
cõi.
Kẻ ngu niệm Phật để cầu Phật
ban cho thức ăn. Có người niệm Nam mô A Di Đà Phật, nam mô A Di Đà Phật,
xin ban cho chúng con khí hậu ấm ! Có người niệm Phật vì hy vọng được
may mắn sung sướng hoặc tránh khỏi những vấn đề rắc rối khó khăn.
Thứ nhất, mục đích chủ yếu của
việc niệm Phật là chấm dứt dòng sanh tử. Nếu muốn sống mãi mãi thì
phải niệm Phật A Di Đà. Nếu muốn chết thì nên niệm Phật để Ngài đến
tiếp độ. Chúng ta sẽ được thoát khỏi bịnh hoạn, tham lam, ngu si giống
như nhập thiền định và sẽ được vãng sanh mà không mấy khó khăn.
Thứ hai, nếu niệm Phật, chúng ta
có khả năng chuyển hóa cõi Ta Bà thành cõi Cực Lạc, nơi mà chúng sanh
không còn chịu đựng khổ đau và chỉ hưởng an lạc sung sướng. Niệm Phật
đến độ mình, người, và Phật đều không. Quý vị có thể bảo: Điều
này thật nguy hiểm ! Nếu tất cả đều tan mất thì phải chăng chúng ta cũng
sẽ bị hủy diệt ? Chỉ sợ rằng làm không được thôi. Nếu thật sự
diệt mất thì quý vị sẽ được tự do. Bấy giờ, quý vị sẽ tỏ ngộ
muôn việc trên thế gian như tại sao quạ lại đen, vạc lại trắng, thông
lại thẳng, bụi gai lại cong. Nhờ hiểu rõ mọi việc mà cắt đứt được
phiền não, phá vỡ được màn vô minh, và quý vị vượt khỏi dòng sông
ái dục lớn lao ở ba cõi Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới. Trong ba
cõi, chúng ta điên đảo luyến ái lẫn nhau cho đến chết, rồi trở lại
trong bào thai mà chưa bao giờ thức tỉnh để vượt ra. Tuy nhiên, trong hiện
tại, chúng ta muốn vượt khỏi dòng sông ái dục. Có người nói: Tôi chưa
muốn làm. Nếu như thế thì quý vị vẫn có thể chịu thêm nhiều vòng
sanh tử nữa. Trong mỗi vòng, quý vị bị đọa lạc xuống thấp hơn cho đến
khi chìm xuống đáy sông ái dục. Bị chìm đắm biểu trưng cho việc thần
thức của quý vị bị phân thành nhiều loài vật như kiến muỗi. Những
loài côn trùng đó có ít trí huệ, ít phước báo, và thọ mạng ngắn ngủi.
Tây Phương Cực Lạc thị quân gia
(cõi Tây Phương Cực Lạc chính là quê hương của quý vị).
Trên thế gian, không dự tính được
việc gì sẽ xảy ra trong tương lai vì luôn luôn có thể thay đổi được
chúng. Ví dụ, trước khi niệm Nam mô A Di Đà Phật chúng ta chưa đủ tiêu
chuẩn để được vãng sanh, trừ phi hằng trì danh hiệu Phật. Được vãng
sanh là điều rất khó khăn, nhưng một khi niệm Phật thì có thể đi. Ngược
lại, dù có thể được vãng sanh ngay trong một niệm, nhưng lại không tụng
đọc một câu nào cả, thì cũng không thể vãng sanh sang cõi đó. Vì vậy,
không có gì là nhất định cả. Kinh Kim Cang thuyết: Không có một pháp
nào là pháp nhất định. Thế nên được gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề. Đó là phương pháp chứng đắc đạo vô thượng chánh đẳng chánh
giác. Chúng ta phải dũng mãnh tiến bước mà không sợ khổ đau, khó khăn,
nóng, lạnh cho đến khi vãng sanh qua cõi Cực Lạc. Niệm Nam mô A Di Đà Phật
mới là cách tu hành chân thật. Điểm trọng yếu của việc niệm Phật là
để chấm dứt dòng sanh tử luân hồi.
***
Bồ Tát Quán Thế Âm [^]
Ta Bà hữu tân văn Quán Âm (thật
may mắn nghe được danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm ở cõi Ta Bà).
Bồ Tát Quán Thế Âm có duyên lành
lớn với chúng sanh ở cõi Ta Bà. Có câu: Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong mọi
gia đình. Phật A Di Đà ở trong mọi chốn.
Tại sao người thế tục có câu đó
? Vì họ cảm nhận thâm sâu lòng từ bi của Phật A Di Đà (nghĩa là Vô Lượng
Quang và Vô Lượng Thọ) và Bồ Tát Quán Thế Âm (quán sát âm thanh của thế
gian), nên ai ai cũng biết đến hai vị này.
Trong đạo Phật, Bồ Tát Quán Thế
Âm chiếm địa vị rất quan trọng. Có người bảo Bồ Tát Quán Thế Âm
là người Tàu; có người cho rằng Ngài là người MỸ; có người cho rằng
Ngài là nam; có người bảo rằng Ngài là nữ. Song, hôm nay tôi xin thưa với
quý vị rằng Bồ Tát Quán Thế Âm không phải người Tàu, người MỸ,
nam, nữ. Thế thì Ngài đến từ nơi nào ? Ngài hiện thân khắp hư không
và tận cùng pháp giới. Ngài ở mọi nơi nhưng lại không ở mọi nơi. Ngài
ứng thân tùy theo loại để cứu độ và thuyết pháp cho chúng sanh. Thế
nên, ứng thân của Ngài không nhất định. Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện
thân Phật để độ những chúng sanh chắc chắn sẽ thành Phật; thị hiện
thân Bồ Tát cho chúng sanh chắc chắn sẽ thành Bồ Tát; thị hiện thân
Thiên Vương để thuyết pháp cho chư Thiên.
Trong Phật giáo, Bồ Tát Quán Thế
Âm là vị đi khắp nơi giáo hóa chúng sanh, khiến họ phát tâm Bồ Đề.
Trước hết, Ngài xem xét coi chúng sanh thích những gì, rồi khiến họ vui
với những gì họ thích. Một khi đã vui thích xong, họ sẽ hoan hỶ nghe
Ngài thuyết pháp và dần dần được Ngài cứu độ. Do đó, tôi nói rằng
Bồ Tát Quán Thế Âm không nhất định có thân nam, thân nữ. Ngài có thể
là nam hay nữ, mà đó chỉ là những thân hình biến hóa. Bổn thể của
Ngài vốn như như bất động và đồng chư Phật không khác. Ngài đã
thành Phật lâu xa trong tiền kiếp với danh hiệu là Chánh Pháp Minh Như
Lai. Hiện tại, Ngài chỉ hóa hiện hình tướng Bồ Tát để giáo hóa
chúng sanh.
Trong đạo Phật, Ngài hiện thân Bồ
Tát. Trong những tôn giáo khác, Ngài cũng hiện thân làm ngoại đạo như mặc
y phục trắng, mà đạo Gia Tô gọi Ngài là Thánh Mẫu. Thánh Mẫu đó thật
sự là ai ? Đó cũng chính là Bồ Tát Quán Thế Âm hóa thân để chỉ dạy
cho chúng sanh ngoại đạo. Ngài hiện thân bạch y với danh hiệu là Thánh Mẫu
để khiến cho chúng sanh ngoại đạo phát tâm Bồ Đề, mau chóng hiểu rõ
Phật pháp. Một khi đã hiểu rõ, thì họ sẽ phát tâm Bồ Đề. Đó là những
cảnh giới không thể nghĩ bàn và diệu dụng vô cùng tận của Bồ Tát
Quán Thế Âm.
Ngài thường dùng từ, bi, hỶ, xả
để cứu độ hết thảy chúng sanh. Ngài cứu độ chúng sanh thoát khỏi bảy
hiểm nạn, ứng hai sở cầu. Ngài có mười bốn lực vô úy, mười chín
cách thuyết pháp, ba mươi hai ứng thân. Nếu ai cầu con trai hay con gái,
thì sự mong cầu sẽ được toại nguyện. Đó là hai việc sở cầu. Do đó,
trong Quán Thế Âm Thất, nếu ai có phát nguyện gì, sự cầu nguyện của họ
nhất định sẽ được thành tựu, vì nếu có cầu tức có sự cảm ứng
của Bồ Tát. Nếu cầu xuất gia, cầu không xuất gia, cầu thành Phật, tất
cả đều có thể được thành tựu. Do Bồ Tát Quán Thế Âm đại từ đại
bi, Ngài sẽ không làm quý vị thất vọng dù quý vị có cầu nguyện điều
gì. Thế nên, trong Quán Thế Âm Thất, quý vị cầu nguyện điều gì cũng
được. Cầu mong có con trai, con gái, giàu sang, sống lâu, quý vị đều sẽ
được toại nguyện. Song, nói đích thực thì những niềm vui đó chỉ là
niềm vui hữu lậu, có giới hạn. Quý vị phải cầu mong quả vị Phật
vô lậu. Sự vinh hoa phú quý ở thế gian đều là hữu lậu và đều sẽ hết
tận, còn niềm vui vô lậu không bao giờ cùng tận. Thế nên, chúng ta hãy
niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm nhiều hơn để chứng quả vị vô lậu.
Dũng mãnh tinh tấn nhất tâm niệm
(một lòng dũng mãnh tinh tấn niệm).
Khi niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế
Âm, phải niệm không ngừng nghỉ, như dòng nước chảy bất tận. Chúng ta
phải niệm như thế cho đến khi đả thành một phiến. Đi, đứng, nằm,
ngồi đều niệm danh hiệu Ngài. Phải đặc biệt chú ý chớ quên danh hiệu
Bồ Tát Quán Thế Âm trong từng tâm niệm. Mỗi câu niệm phải rõ ràng
rành mạch. Không nên ngủ gục hay khởi vọng tưởng khi niệm danh hiệu Ngài.
Không nghĩ gì cả ngoài việc chuyên tâm nhất ý mà niệm câu: Nam mô Bồ
Tát Quán Thế Âm. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều không rời câu niệm
danh hiệu Ngài.
Nếu quý vị niệm danh hiệu Bồ
Tát Quán Thế Âm, Ngài cũng niệm quý vị. Niệm danh hiệu Ngài với niềm
hy vọng rằng Ngài sẽ khởi lòng từ bi cứu độ hết chúng sanh. Ngài cũng
niệm quý vị, với niềm hy vọng rằng quý vị sẽ xa rời đau khổ mà
được an lạc; thoát khỏi bịnh tật, tai họa; tội diệt phước sanh; tâm
Bồ Đề được tăng trưởng; đạo tâm chóng thành tựu viên mãn. Chúng ta
chớ cô phụ niềm hy vọng của Ngài. Ngài từ bi ban bố ân huệ và hộ niệm
cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy gác mọi việc sang một bên mà chuyên
tâm niệm danh hiệu Ngài. Nếu làm được như thế, Bồ Tát Quán Thế Âm
nhất định luôn luôn ở bên cạnh chúng ta. Lúc chúng ta đang đi, đứng, nằm,
ngồi, Ngài cũng đến gia hộ, khiến tiêu trừ nghiệp chướng và căn lành
được tăng trưởng. Được sự gia hộ của Ngài rồi, chúng ta phải nên
phát tâm Bồ Đề, giữ vững tâm niệm tu hành kiên cố, dũng mãnh tinh tấn,
không bao giờ giãi đãi. Chúng ta chớ nói năng quá nhiều. Nếu muốn không
nói năng, không ăn uống, không ngủ nghỉ, đều được hết, nhưng không
thể chẳng tu hành. Ai ai cũng phải nên tu hành. Chúng ta phải xem mọi thời
mọi khắc đều như Quán Thế Âm Thất. Thật vậy, chúng ta hy vọng đả
Quán Thế Âm Thất trong mỗi tháng, mỗi năm và mỗi đại kiếp. Chớ nghĩ
rằng mình được tự dosau khi Quán Thế Âm Thất kết thúc, vì nếu chưa
liễu ngộ thì chưa thật sự được giải thoát. Vì thế, chớ đùa giỡn
với tâm niệm thối thất. Tất cả chúng ta phải cầu thêm một Quán Thế
Âm Thất nữa để tiếp tục dụng công.
Diệu dụng của việc niệm danh hiệu
Bồ Tát Quán Thế Âm giống như bàn tay, được dùng khi mặc y phục. Khi
dùng cơm, phải cầm muỗng đũa để bỏ thức ăn vào miệng. Cũng vậy, phải
niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm để trưởng dưỡng pháp thân.
Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế
Âm cũng như mở chốt cửa. Chúng ta bị nhốt trong ngục tù vô minh, còn
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm giống như chìa khóa mở cửa ngục tù. Một
lần niệm danh hiệu của Ngài là một lần ống khóa vô minh được vặn mở
ra một chút. Càng niệm danh hiệu Ngài nhiều chừng nào, ống khóa đó
càng được mở ra nhiều chừng ấy. Chúng ta dùng chìa khóa trí huệ của
Bồ Tát Quán Thế Âm để mở ống khóa vô minh của mình. Vừa mở ống
khóa vô minh ra thì chúng ta sẽ hoát nhiên khai ngộ. Nho giáo nói đến việc
hoát nhiên quán thông, nhưng đó chỉ là một phần nhỏ vì chưa khai ngộ
hoàn toàn. Một khi đã hoát nhiên khai ngộ, vô minh và cội gốc sanh tử từ
đời vô thủy đến nay sẽ bị cắt đoạn.
Bồ Tát Quán Thế Âm tầm âm thanh
mà cứu khổ cho chúng sanh. Ngài cùng chúng sanh trong cõi Ta Bà này có nhân
duyên thâm sâu lớn lao. Do đó, có rất nhiều người thường được Ngài
phóng ánh hào quang gia hộ. Tại sao chúng ta chưa được những điềm cảm
ứng đó ? Vì tâm chúng ta chưa chân thành và còn quá nhiều tạp niệm. Một
bên chúng ta niệm danh hiệu của Ngài, còn một bên vọng niệm của chúng
ta chạy đuổi theo ngoại cảnh và khởi bao loại vọng tưởng bất tịnh
khiến lãng phí hết thời giờ. Chúng ta phải nhận rõ cuộc đời này rất
ngắn ngủi. Hiện tại nếu không chịu tu hành thì chúng ta có lẽ không
còn dịp may nào khác.
Hãy quý trọng thời giờ, chớ để
thời gian trôi qua vô ích. Chớ vô tâm chạy theo đám đông. Phải dùng cơ
hội tu hành trong đạo tràng mà niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Chỉ
khi nào đạt được Quán Thế Âm tam muội, cảnh giới chánh định và
chánh thọ mà gió thổi không lay hay mưa không ướt, thì sự tu hành mới
hoàn mãn. Chớ xem thường điểm này.
Thiên thủ thiên nhãn đại từ bi
(đức đại từ bi ngàn tay ngàn mắt).
Chúng ta hãy lễ bái Bồ Tát Quán
Thế Âm, đấng vạn thánh chí tôn. Hình tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm
có ngàn tay ngàn mắt, nhưng thực ra Ngài có vô số vô lượng tay và mắt.
Ngài dùng vô lượng cánh tay để vớt chúng sanh ra khỏi bể khổ và tiếp
dẫn họ đến bờ an lạc. Ngài dùng vô số mắt để trông coi chúng sanh
và cứu độ những ai đang bị nguy hiểm khó khăn. Đối với tất cả chúng
sanh hữu duyên, nhất định không bao giờ Ngài bỏ quên họ.
Bồ Tát Quán Thế Âm là vị Bồ
Tát siêng năng và tinh tấn nhất mà không bao giờ nghỉ ngơi. Suốt ngày,
Ngài thường đi cứu độ chúng sanh. Không quản chúng sanh có bao nhiêu khổ
nạn, Ngài đều cứu giúp họ. Do đó, Ngài là vị Bồ Tát bận rộn và
siêng năng nhất, chứ không phải là vị làm biếng giãi đãi. Một hoặc
hai tay không thể cứu độ được nhiều người. Thế nên, Ngài dùng ngàn
tay để cứu độ chúng sanh thoát khổ và dùng ngàn mắt để trông nom
chúng sanh trong đại thiên thế giới.
Khi gặp khổ nạn, chúng sanh thường
nghĩ đến cha mẹ từ bi của họ, tức là Bồ Tát Quán Thế Âm. Họ bắt
đầu niệm Nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm, nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi
chúng sanh bị khổ nạn niệm Nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm, thì Ngài dùng
ngàn mắt để quán sát họ. Nghĩa là Ngài dùng ngàn mắt trí huệ để quán
sát, ngàn tai trí huệ để lắng nghe, và ngàn tay trí huệ để cứu độ
chúng sanh. Trăm ngàn muôn ức chúng sanh đang bị khổ nạn đồng xưng niệm
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm cùng một lúc, Ngài cũng cứu độ và khiến
cho tất cả đều được an vui.
Hôm nay, có vài người tị nạn
đưa cho tôi xem tấm ảnh chụp hình Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện khi họ
còn lênh đênh trên biển cả. Trong tấm ảnh do vị thuyền trưởng chụp,
có pháp tướng của Bồ Tát Quán Thế Âm hiển hiện trên vầng mây rõ
ràng. Từ việc này, chúng ta biết rằng ngàn nơi cầu nguyện Ngài thì
ngàn nơi đều có sự cảm ứng của Ngài. Ngài bơi thuyền trên biển khổ
để cứu độ chúng sanh. Tuy nhiên, nếu chúng ta chưa nhận rõ thâm sâu và
khởi tâm thành tín nơi Ngài, khi chúng ta gặp tai nạn, Bồ Tát Quán Thế
Âm có thể không màng đến. Nếu phát khởi niềm tin chân thật, thì nhất
định Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ không bao giờ bỏ rơi khi chúng ta gặp nạn.
Giải tam độc khổ, hóa chúng nạn
(giải trừ khổ ba độc, hóa giải các tai nạn).
Tại sao chúng ta phải niệm danh hiệu
Bồ Tát Quán Thế Âm ? Vì xưa kia Ngài đã từng phát đại nguyện rằng nếu
chúng sanh nào có nhiều sân hận, nhiều ngu si, nhưng thường cung kính niệm
danh hiệu của Ngài thì tâm niệm tham, sân, si của họ sẽ tự nhiên được
tiêu trừ. Họ sẽ quên đi ba độc đó và chỉ nghĩ về thiền định cùng
giới luật. Nếu chúng ta thường cung kính niệm danh hiệu của Ngài, không
những tham, sân, si tan mất, mà chúng ta còn tránh được tất cả khổ nạn.
Nếu gặp nạn lửa, lửa chẳng cháy đặng. Nếu té xuống sông sâu, sóng
mòi chẳng làm chìm đặng. Đó là oai lực thần thông không thể nghĩ bàn
của Bồ Tát Quán Thế Âm như thế ấy. Nếu niệm danh hiệu của Ngài
trong suốt bảy ngày, chúng ta sẽ đạt được công đức không thể nghĩ bàn
và thoát khỏi mọi khổ nạn.
Dù Bồ Tát Quán Thế Âm có thể
gia hộ cho quý vị tránh khỏi nạn lửa cháy hay bị nước chìm, quý vị cũng
phải hoàn toàn tin tưởng vào Ngài thì mới được những điềm cảm ứng
như thế. Nếu nghi ngờ: Đó là những điều họ nói, nhưng có thật chăng
?, thì dù điều này có chân thật cũng sẽ trở thành hư giả. Sự cảm
ứng đến từ tâm niệm của quý vị chứ không phải đến từ Bồ Tát
Quán Thế Âm.
Nếu gặp nhiều điều phiền toái,
chỉ cần niệm: Nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm, thì những điều phiền toái
đó sẽ tan mất. Phiền toái sợ Bồ Tát Quán Thế Âm vì Ngài có thể
quán sát và nhận ra nguyên nhân của chúng; khi Ngài vừa nhận ra thì chúng
liền mất dạng. Đó là phương pháp vi diệu và cách thức hay nhất để
giải quyết vấn đề. Quý vị nói: Vâng, lần sau tôi sẽ niệm danh hiệu
của Ngài. Song, những lúc gặp càc vấn đề rắc rối, quý vị có thể chỉ
biết lo lắng ưu sầu và quên đi pháp môn này.
Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa
thuyết rõ rằng nếu ai có nhiều tham dục, tức là lòng ái dục nặng nề,
thì phải thường cung kính niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Người
nhiều tình cảm dễ dàng bị bối rối khi phiền não đến. Lúc gặp rắc
rối, chớ quá hoảng hốt hay ưu sầu mà phải lắng lòng niệm Nam mô Bồ
Tát Quán Thế Âm, nam mô Bồ Tát Quán Thế Âm. Không cần phải niệm lớn
tiếng mà chỉ cần niệm trong tâm. Bồ Tát Quán Thế Âm có thể nghe âm
thanh trong tâm của quý vị. Ngài sẽ nghe và nói: Thằng bé này không thể
tự khống chế được tâm tình và đang cầu mình cứu giúp. Khi ấy, Ngài
sẽ gia hộ cho tâm tình của quý vị được lắng dịu.
Trong kinh này cũng dạy Người nhiều
sân hận nên niệm danh hiệu của Ngài. Nếu sắp phát nộ, phải kềm chế
lại ! Trước khi sân hận nổ tung, phải niệm thầm vài lần danh hiệu của
Ngài. Khi niệm được thì sẽ không còn cảm thấy sân hận nữa, vì nó đã
mất dạng. Quý vị xem coi có phải là pháp vi diệu không ? Có thể rất vi
diệu, nhưng trước kia quý vị chưa từng biết đến. Nghe lời này, quý vị
suy nghĩ: Ồ ! Đó là những điềm cảm ứng lớn lao ! Thật ra, còn có những
điềm cảm ứng lớn lao hơn. Những ai nhiều ngu si, nên thường cung kính
niệm danh hiệu Ngài thì sẽ hết ngu si.
Phật Thích Ca thuyết phẩm này
trong kinh Pháp Hoa để tán thán Bồ Tát Quán Thế Âm. Giả sử Bồ Tát
Quán Thế Âm không có những oai lực thần thông thì Phật có tán thán như
thế không ? Không ! Đức Phật không thể nói bừa: Vị Bồ Tát đó có
nguyện lực, có đạo nghiệp, có bổn nguyện như thế, trừ khi đó là những
điều chân thật. Vì Bồ Tát Quán Thế Âm thật sự có những oai lực thần
thông lớn và những điều linh ứng như thế, nên đức Phật giới thiệu
Bồ Tát Quán Thế Âm cho chúng ta để chúng ta có phương pháp giải quyết
những vấn đề nan giải.
Hôm nay, tôi giải thích phương pháp
này đơn giản và rõ ràng rồi thì quý vị cũng phải nên dụng công. Quý
vị nói: Nhưng tôi thích tham, sân, si nên không muốn niệm danh hiệu Bồ
Tát Quán Thế Âm. Thế thì quý vị có thể niệm tên của mình. Hãy quán
xem quý vị là ai, rồi sẽ nhận ra Bồ Tát Quán Thế Âm. Chúng ta niệm
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm với đơn giản là vì chưa nhận ra chính
mình. Chúng ta chưa bị rắc rối vì tham, sân, si, nên chưa muốn niệm danh
hiệu Ngài. Song, việc không chịu niệm danh hiệu Ngài tự nó là một vấn
đề.
Hiện tại, nếu không sợ rắc rối
thì quý vị không cần phải học chi cả. Nếu sợ rắc rối thì phải tu học
Phật pháp và học cách niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu không muốn
nhận ra chính mình mà bảo: Tôi chẳng là ai cả, nên không cần niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng, thì chẳng bao lâu quý vị sẽ trở thành ma quỶ,
vì không muốn làm người. Vào lúc đó, quý vị cũng vẫn còn niệm danh hiệu
của Ngài được. Bồ Tát Quán Thế Âm không bỏ rơi khi quý vị thành ma
quỶ. Ma quỶ có thể niệm danh hiệu Ngài; loài súc sanh cũng như thế. Nếu
ở địa ngục, quý vị cũng có thể niệm danh hiệu của Ngài. Nơi ba đường
ác, quý vị cũng có thể niệm danh hiệu của Ngài. Thế nên chớ nghĩ rằng
không thể nào niệm được. Đó là lý do tại sao pháp môn này được gọi
là pháp môn vi diệu. Cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm thật không thể
nghĩ bàn. Khi ở trong ba đường ác, nếu niệm danh hiệu của Ngài thì quý
vị sẽ thoát khổ và đạt an lạc. Tất cả quý vị phải trở về nhà tự
độ chúng sanh địa ngục, ngạ quỶ, và súc sanh của mình. Nếu có thể tự
cứu độ chúng sanh khổ não ngay trong nhà của mình thì đó là hành hạnh
Bồ Tát. Quý vị hỏi: Những chúng sanh đó thật có trong nhà hay chăng ? Nhà
chính là tâm niệm của quý vị. Tâm niệm tham, sân, si là chúng sanh trong
ba đường ác.
Thường niệm tự tại Quán Thế
Âm (hãy thường niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm đức tự tại).
Tu học Phật pháp không cần phải
tìm học những điều thâm sâu cao tột. Tâm bình thường là đạo. Tâm chất
trực là đạo tràng. Phải dùng tâm ngay thẳng mà tu hành. Chớ dùng tâm
tham lam mà niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Hãy niệm danh hiệu Ngài với
tâm bình thường mà không tìm cầu điều gì. Nếu thật sự niệm danh hiệu
của Ngài thì còn nghĩ gì về việc ăn ngon, mặc đẹp, sống sung sướng ?
Quý vị sẽ quên tất cả và đồng nhất thể với Bồ Tát Quán Thế Âm.
Trong tâm niệm của mỗi người đều có Bồ Tát Quán Thế Âm. Đó là lý
do tại sao quý vị có thể được chánh niệm, niệm danh hiệu Bồ Tát
Quán Thế Âm ngay trong tâm khảm.
Bồ Tát Quán Thế Âm không có vọng
tưởng, chấp trước, tham cầu. Công việc của Ngài là cứu độ, gia hộ
cho chúng sanh thoát khổ, được an lạc, cắt dòng sanh tử, và mau chóng chứng
quả vị Phật. Ngài không mong cầu gì nơi chúng sanh; Ngài chỉ muốn chúng
sanh đạt được sự hiểu biết chân chánh và xả bỏ mọi tham vọng. Đó
là niềm hy vọng của Ngài đối với chúng ta. Do đó, khi niệm danh hiệu Bồ
Tát Quán Thế Âm, chúng ta chớ nên khởi vọng niệm.
Chúng ta niệm danh hiệu và lễ bái
Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng khi Ngài thị hiện trước mặt thì chúng ta lại
không nhận ra. Thật đáng thương thay ! Chẳng những không nhận ra Ngài mà
chúng ta còn không vượt qua những thử thách. Khi niệm danh hiệu của
Ngài, chúng ta phải học theo đức tánh đại từ đại bi, đại nguyện và
đại lực của Ngài. Khi bị người khác đối xử tàn tệ, chửi mắng, đánh
đập, hay giết hại, chúng ta phải như như bất động và chịu đựng những
điều đó để trả những mối oan nghiệp. Nếu xưa kia chưa từng giết hại,
đánh đập, chửi mắng họ thì hiện tại họ không bao giờ đối xử như
thế với chúng ta. Hiện nay họ muốn gây tổn hại cho chúng ta bởi vì
trong quá khứ do u mê, chúng ta đã từng hãm hại họ. Xưa kia, lúc chưa hiểu
nghĩa lý này, chúng ta từ chối trả oan nghiệp. Bây giờ đã hiểu rõ rồi
thì chúng ta phải chân thật nhận ra oan nghiệp của mình. Có được như
thế, chúng ta mới thật sự nhận ra Bồ Tát Quán Thế Âm và chân chánh
làm quyến thuộc của Ngài.
Từ quán, bi quán, hỶ xả quán
(dùng lòng từ bi, hỶ xả mà quán xem chúng sanh).
Làm thế nào chúng ta nhận ra Bồ
Tát Quán Thế Âm ? Chúng ta phải biết rõ tông chỉ của Ngài; đó là tông
chỉ từ bi, hỶ xả. Chúng ta phải học theo lòng từ bi của Ngài mà trãi
lòng đến với những chúng sanh chưa có duyên lành. Từ nghĩa là ban vui, tức
là chia xẻ niềm vui của mình với chúng sanh, chứ không ích kỶ. Bi nghĩa
là cứu khổ. Chúng ta phải cứu những ai đang gặp khó khăn khổ nạn. HỶ
nghĩa là vui vẻ và không nóng giận dẫu người khác tức giận mình. Xả
nghĩa là đem đồ vật quý giá nhất của mình để ban cho chúng sanh. Nếu
sự tu hành dựa vào bốn tâm vô lượng từ, bi, hỶ, xả đó thì chúng ta
mới là người Phật tử chân thật, bằng ngược lại thì chưa đủ tư cách
để làm người Phật tử. Chớ nên ích kỶ, mong cầu tự lợi, nói láo,
hay tham lam những gì không phải của mình. Nếu vì muốn trúng số ở sòng
bạc mà làm việc lành hay tạo công đức, thì chúng ta đã chạy ra ngoài
tìm cầu, và Bồ Tát Quán Thế Âm không thể gia hộ cho mình được. Chúng
ta phải y theo sáu tông chỉ chính luôn được đề xướng ở Vạn Phật Thành:
Không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không
nói láo. Nếu chân thật dùng sáu tông chỉ chính làm dụng và lấy bốn
tâm vô lượng làm thể, để dụng và thể hỗ trợ lẫn nhau, thì chúng ta
sẽ nhận ra đạo Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm như thế nào.
Chúng ta niệm Nam mô Bồ Tát Quán
Thế Âm, nhưng không biết rõ nghĩa lý ra sao. Đối với những ai biết tiếng
Tàu thì hiểu đôi chút, còn đối với người Tây phương không biết tiếng
Tàu thì cũng giống như tụng thần chú. Ví dụ, mọi người tụng câu: Án
ma ni bát di hồng, nhưng không biết nghĩa lý ra sao. Quán có nghĩa là quán
sát; Âm nghĩa là âm thanh; Thế nghĩa là thế gian. Đó là những gì mà
Ngài thường làm vì không còn điều gì để làm hơn nữa. Ngài không quán
sát bên ngoài mà lại quán sát trong tâm niệm của chúng sanh để xem chúng
sanh nào không còn vọng tưởng. Một khi tâm niệm vắng lặng thì có thể
khai ngộ. Có câu: Mười phương đồng tụ hội để cùng học đạo vô vi.
Tất cả thiện nam tín nữ đồng đến tu học pháp vô vi. Pháp môn niệm
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm chính là pháp môn vô vi dừng vọng tưởng.
Đây là pháp vô vi, nhưng cũng là pháp vô bất vi.
Bồ Tát ca ca, Pháp Vương phụ (chúng
ta có trưởng huynh là Bồ Tát và người cha là vị Pháp Vương).
Khi niệm Nam mô Bồ Tát Quán Thế
Âm Bồ Tát Quán Thế Âm niệm nhớ quý vị. Cũng như khi quý vị nghĩ về
thân bằng quyến thuộc của mình thì họ cũng nghĩ về quý vị. Chúng ta
đã từng làm pháp hữu với Bồ Tát Quán Thế Âm từ vô lượng kiếp đến
nay. Tất cả đều bắt đầu từ Phật A Di Đà, vị giáo chủ của cõi
Tây Phương Cực Lạc và là thầy của Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán
Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí trợ giúp Phật A Di Đà hoằng dương pháp
môn Tịnh Độ. Nếu niệm Nam mô A Di Đà Phật, chúng ta sẽ được vãng
sanh sang cõi Cực Lạc ở Tây phương và Phật A Di Đà sẽ làm vị đạo
sư tiếp dẫn. Vì là đệ tử của Phật A Di Đà, nên Bồ Tát Quán Thế
Âm làm trưởng huynh của chúng ta. Thật ra, Ngài là vị trưởng huynh của
tất cả chúng sanh chưa được vãng sanh sang cõi Cực Lạc. Giải thích bằng
cách này thì quý vị sẽ thấy rằng mình rất gần gũi với Bồ Tát Quán
Thế Âm. Do đó, khi niệm danh hiệu của vị trưởng huynh, thì vị này cũng
niệm nhớ chúng ta. Chúng ta là người em nhỏ của Bồ Tát Quán Thế Âm,
còn Ngài thì là vị trưởng huynh của chúng ta.
Có người nói: Làm thế nào Bồ
Tát Quán Thế Âm là vị trưởng huynh của tôi ? Tôi có nói quá đáng lắm
chăng ? Không những đối với chúng ta thôi, Bồ Tát Quán Thế Âm còn xem tất
cả chúng sanh đều như những đứa em thơ dại của Ngài, bằng không thì
tại sao Ngài lại lắng nghe âm thanh và đến cứu khổ cho chúng ta ? Khi
chúng ta gặp những vấn đề rắc rối, tại sao Ngài lại muốn cứu giúp
chúng ta ? Ngài xem tất cả chúng sanh giống như tay chân, thịt thà xương tủy
của Ngài. Đó là lý do tại sao Ngài chẳng màng khó khăn rắc rối mà đến
cứu độ tất cả chúng sanh khổ não trong cõi Ta Bà. Tất cả chúng ta chớ
nên quên đi vị trưởng huynh của mình. Khi chúng ta niệm Nam mô Bồ Tát
Quán Thế Âm, thì Ngài cũng niệm nhớ chúng ta. Khi xưng niệm danh hiệu của
Ngài, chúng ta kêu gọi trưởng huynh của mình. Ngài cũng gọi những đứa
em thơ dại, tức là những vị Bồ Tát và Phật trong tương lai. Nếu suy
tư như thế, chúng ta sẽ niệm danh hiệu của Ngài chân thành hơn, giống
như xưng niệm tên của vị trưởng huynh. Hiện tại đã gặp pháp môn xưng
niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng ta chớ để bỏ lỡ cơ hội mà
phải hết lòng chân thành xưng niệm. Song, lúc niệm danh hiệu Ngài, chớ
để đầu gục xuống mà phải ngưởng đầu lên để tụng niệm với tâm
tinh tấn dũng mãnh. Khi Bồ Tát Quán Thế Âm thấy tinh thần tinh tấn của
chúng ta, Ngài sẽ cầm tay mà bảo: Hãy mau đến đây với Ta ! Kế đến,
Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta từng bước đến cõi Tây Phương Cực Lạc.
Có người ngờ vực: Tại sao Bồ Tát
Quán Thế Âm quán sátnhiều quá, còn tôi thì không được quán sátđiều gì
cả ? Phải biết rằng sự quán sátcủa quý vị khác với sự quán sátcủa
Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm quán sátvào trong, còn quý vị
thì quán sátra ngoài. Ngài quán sát vào tự tánh của chính mình. Ngài xem
thấy và biết rõ tất cả tâm niệm của chúng sanh ngay trong màn ảnh vô
tuyến của Ngài. Tuy có ngàn tay hay ngàn mắt cũng chưa đủ vì có rất nhiều
chúng sanh ở những nơi xa xăm. Ngài muốn quán sát vô số chúng sanh nhưng
không thể được. Do đó, Ngài phải xoay về tự tánh mà quán sát. Ngài
quán sát chúng sanh trong tự tánh và cứu độ chúng sanh khổ não. Ngược lại,
quý vị quán sát bên ngoài và hoàn toàn quên hẳn trí huệ sẳn có của
mình. Đó là lý do tại sao tôi nói rằng sự quán sát của quý vị khác với
sự quán sát của Ngài để trả lời những điều nghi vấn hư vọng của
quý vị.
Từ bi tức thị Quán Thế Âm (Đức
từ bi chính là Bồ Tát Quán Thế Âm).
Bồ Tát Quán Thế Âm không quán
sát âm thanh của Ngài mà quán sát âm thanh của thế gian. Có câu: Vô ngã
vô nhân, Ngài tự tại quán sát. Ngài là vị không còn thấy có mình hay người
và tự tại quán sát, nên cũng được gọi là Quán Tự Tại. Bất cứ ai
không còn chấp vào mình hay người đều được gọi là Quán Thế Âm. Nếu
không còn chấp vào mình hay người, không còn tâm cống cao ngã mạn, ganh
ghét đố kỴ, tạo việc chướng ngại, thì quý vị chính là Quán Thế
Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm vốn không hướng ngoại tìm cầu mà chỉ tìm lại
chính mình. Nếu muốn trở thành Bồ Tát Quán Thế Âm thì chớ nên có tâm
ganh ghét đố kỴ, hay tạo việc chướng ngại cho ngườI khác.
Mọi người phải nên học theo hạnh
của Bồ Tát Quán Thế Âm bằng cách dẹp trừ tâm nóng giận, sân hận,
tham lam, si mê. Nếu dẹp trừ được ba độc đó và tu giới định huệ,
thì quý vị chính là Bồ Tát Quán Thế Âm. Quý vị hãy tự hỏi xem mình
có phải là Bồ Tát Quán Thế Âm chăng ? Nếu phải thì quý vị chớ nên
khởi tâm sân hận hay vô minh, mà phải tu từ bi, nhẫn nhục, tinh tấn, bố
thí, trì giới, thiền định, trí huệ Bát Nhã. Nếu ai có trí huệ Bát
Nhã thì chính là Bồ Tát Quán Thế Âm, bằng ngược lại thì không có. Khi
vừa biết gật đầu, trẻ em cũng biểu thị được rằng có trí huệ Bát
Nhã. Tuy tất cả chúng ta đều có một vị Bồ Tát Quán Thế Âm ngay trong
tâm niệm, nhưng chúng ta chưa nhận ra Ngài nên chưa biết rõ Ngài đang ở
trong đó. Hiện tại, tôi đã giới thiệu Ngài đến cho quý vị. Thế thì
quý vị nên luôn luôn lắng nghe lời giảng dạy của Bồ Tát Quán Thế Âm
ngay trong tự tâm.
Quý vị hỏi tôi: Bồ Tát Quán Thế
Âm là vị nào ? Tôi không biết rõ, nhưng xưa kia, Lục Tổ Huệ Năng đã từng
dạy: Từ bi là Bồ Tát Quán Thế Âm. HỶ xả là Bồ Tát Đại Thế Chí. Nếu
có tâm hạnh từ bi thì quý vị là Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu thường hoan
hỶ bố thí thì là Bồ Tát Đại Thế Chí. Vì không nhận ra hai vị Bồ
Tát ngày đêm đang ở bên cạnh, nên quý vị mới sanh tâm tức giận. Dẫu
niệm Nam mô A Di Đà Phật suốt ngày, nhưng khi Ngài thị hiện trước mặt
thì quý vị lại không thèm nhìn. Đối diện với Phật A Di Đà, Bồ Tát
Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí mà quý vị lại không nhận ra các
ngài. Tuy ba vị thánh ở cõi Tây Phương Cực Lạc thường gần gũi quý vị,
nhưng quý vị lại lánh xa các ngài. Dẫu Bồ Tát Quán Thế Âm rất từ bi
và Bồ Tát Đại Thế Chí rất hỶ xả, nhưng các ngài không có cách gì để
cứu giúp quý vị. Phật A Di Đà nói: Hãy đợi thêm đôi chút nữa. Dần dần,
chúng sẽ phát tâm Bồ Đề.
Canh năng hồi quang Quán Tự Tại
(Hãy tự tại quán sát và soi chiếu lại chính mình).
Khi Bồ Tát Quán Tự Tại tu hành
Bát Nhã Ba La Mật thâm sâu, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, nên vượt
quan tất cả khổ ách. Đây là một câu trong Tâm Kinh nói về Bồ Tát Quán
Thế Âm, vị đã chứng đắc Nhĩ Căn Viên Thông. Ngài nghe lại tự tánh của
mình, nên tự tánh thành đạo vô thượng. Nghe lại tự tánh tức là xoay
chiếu lại bên trong mà quán sát. Xoay chiếu lại bên trong tức là tham Thiền.
Nếu dụng công tham Thiền như thế, quý vị sẽ khám phá những cảnh giới
không thể nghĩ bàn mà tôi không thể miêu tả được. Nếu muốn nếm mùi
vị đó, phải tự dụng công tu hành. Phản chiếu nghĩa là suy tư, tham quán,
quán chiếu Bát Nhã. Phải thật sự dụng công tu hành nếu muốn cảm nghiệm
những cảnh giới không thể nghĩ bàn đó. Xoay lại quán chiếu vào trong bằng
cách dùng trí huệ Bát Nhã để soi chiếu tan hết tất cả sự tăm tối.
Đó chính là nghe lại tự tánh của mình. Tâm thức nhiễm ô như tâm sân hận,
ích kỶ, tự lợi, phan duyên vốn không phải là chân tâm, vì chân tâm hay
tự tánh vốn hằng thanh tịnh, không nhiễm ô. Vọng tâm giống như con khỉ,
nhảy tới nhảy lui suốt cả ngày. Nghe lại tự tánh tức là quán xét tâm
niệm cho đến khi tâm niệm đó quay về với tự tánh. Tâm niệm thì động,
còn tự tánh thì tĩnh lặng. Khi đạt đến nơi thanh tịnh cùng tột thì
ánh sáng trí huệ hiển hiện và chiếu soi thông suốt; đó là cảnh giới
công phu nghe lại tự tánh của mình, và tự tánh đó cũng chính là đạo vô
thượng. Đó là pháp môn tu hành của Bồ Tát Quán Thế Âm. Xoay chiếu ánh
sáng trở lại nghĩa là phải tìm lại chính mình, hay lắng nghe lại tự
tánh của mình có tâm niệm tham lam, sân hận, si mê chăng ? Nếu ba độc đó
không hiển hiện thì sẽ có ba học vô lậu: Giới, Định, Huệ. Đó là ý
nghĩa đại khái về pháp môn nghe lại tự tánh của chính mình.
Nhờ nghe lại tự tánh nên Bồ Tát
Quán Thế Âm mới tự tại quán sát. Tự tại nghĩa là cảnh giới không
còn chấp vào mình, người, chúng sanh, thọ giả. Quý vị hỏi: Tự tại
ở nơi nào ? Nơi thánh vị thì tự tại, còn nơi phàm phu thì chưa được
tự tại. Các vị thánh không còn chấp vào mình, người, chúng sanh, thọ
giả, nên mới được tự tại. Ngược lại, vì còn chấp vào bốn tướng
trên nên phàm phu chưa được tự tại. Người tu học Phật pháp vì vẫn
còn bốn tướng đó, nên mãi mãi không được tự tại. Muốn được tự
tại, nhất định phải quét sạch ba tâm và xả bỏ bốn tướng. Không thể
nắm bắt được tâm niệm trong quá khứ vì chúng đã biến mất. Không thể
nắm bắt được tâm niệm trong hiện tại; quý vị có thể bảo rằng hiện
tại là ngay bây giờ, nhưng khi vừa khởi niệm, thì nó đã thuộc về tâm
niệm trong quá khứ; không có gì là hiện tại cả. Không thể nắm bắt
được tâm niệm trong tương lai, vì chúng chưa đến. Nếu biết rằng không
thể nắm bắt được tâm niệm trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai
và bốn tướng mình, người, chúng sanh, thọ giả đều không thật có,
thì quý vị là Bồ Tát Quán Tự Tại.
Chúng ta đả Thiền Thất để được
Quán Tự Tại. Mọi người phải tự tại quán sát, mà chớ bảo: Bồ Tát
Quán Thế Âm là Bồ Tát Quán Tự Tại mà trong Tâm Kinh đã thuyết. Không
phải như thế. Ai được tự tại thì là Bồ Tát Quán Tự Tại. Bồ Tát
Quán Tự Tại không có danh hiệu nhất định, vì tất cả chúng sanh đều
có thể làm Bồ Tát Quán Tự Tại. Trong lúc ngồi thiền, hãy xem coi mình
có quán sát tâm niệm được tự tại chăng. Nếu được tự tại thì quý
vị sẽ có khả năng soi thấy năm uẩn đều không và cũng là hành Bát
Nhã Ba La Mật thâm sâu. Nếu hành được như thế thì sẽ vượt qua hết tất
cả khổ ách và sẽ được tự tại. Bên cạnh Bồ Tát Quán Thế Âm, mười
phương chư Phật cũng sẽ hòa nhập cùng với chúng ta.
Đại Địa Linh Văn Lăng Nghiêm Thần
Chú (Thần chú Lăng Nghiêm, ngữ ngôn linh diệu của trời đất).
Hiện tại, tôi sẽ giảng về thần
chú Lăng Nghiêm cho quý vị. Trong trăm ngàn muôn kiếp chưa có ai giảng giải
và dẫu có giảng qua một lần cũng không dễ dàng. Pháp hội giảng thần
chú Lăng Nghiêm này thật hy hữu vì khó lòng mà gặp được. Khi giảng giải,
tôi biết rõ rằng không ai hiểu rõ những điều đã được giảng. Dẫu có
ai nghĩ rằng hiểu rõ, nhưng thật ra họ không hiểu. Có người tự nghĩ rằng
đã hiểu, nên không chú ý, nhưng họ cũng chẳng hiểu gì cả.
Trong Phật giáo, thần chú Lăng Nghiêm
được xem là một bài chú tối quan trọng, vì là vua trong các thần chú, cũng
là thần chú dài nhất. Thần chú này quan hệ với sự thạnh suy của Phật
giáo. Nhờ linh văn của thần chú Lăng Nghiêm mà trời đất không bị đoạn
diệt. Linh văn thần chú Lăng Nghiêm duy trì được việc thế giới tránh
ngày tận thế. Đó là lý do tại sao tôi thường bảo rằng nếu còn một
người tụng thần chú Lăng Nghiêm thì thế giới và Phật pháp không bao giờ
bị hủy hoại. Ngược lại, khi không còn ai tụng trì nữa thì thế giới
sẽ nhanh chóng bị hủy hoại vì chánh pháp không còn trụ thế.
Hiện tại có một hạng thiên ma
ngoại đạo bảo rằng kinh Lăng Nghiêm và thần chú Lăng Nghiêm là giả.
Chúng sai ma con và ma cháu xuống rao đồn những tin thất thiệt để khiến
con người không còn tin vào kinh Lăng Nghiêm và thần chú Lăng Nghiêm. Kinh Lăng
Nghiêm và thần chú Lăng Nghiêm là một bộ kinh chú rất quan trọng cho việc
tồn vong của chánh pháp. Đức Phật thuyết kinh Lăng Nghiêm do vì thần
chú Lăng Nghiêm. Không có cách gì để giải thích hết về tầm trọng yếu
của kinh Lăng Nghiêm và thần chú Lăng Nghiêm; cho đến cuối đời vị lai
cũng không thể thuyết hết công đức và diệu dụng của kinh Lăng Nghiêm
và thần chú Lăng Nghiêm, nên bộ kinh chú này thật không thể nghĩ bàn.
Nói chung kinh Lăng Nghiêm tán thán thần chú Lăng Nghiêm. Nếu vẫn còn một
người trì tụng thần chú Lăng Nghiêm thì thiên ma ngoại đạo không thể
dám công khai xuất đầu lộ diện, vì chúng sợ nhất là thần chú Lăng
Nghiêm. Nếu không còn ai tụng thuộc làu thần chú Lăng Nghiêm thì yêu ma
quỶ quái xuất đầu lộ diện. Chúng làm những chuyện tồi bại mà người
đời không bao giờ nhận ra. Hiện tại, do còn người vẫn tụng thuộc thần
chú này nên yêu ma quỶ quái không dám xuất hiện nơi thế gian. Do đó, nếu
muốn giúp thế giới không bị hủy hoại, phải mau niệm thần chú Lăng
Nghiêm và tụng kinh Lăng Nghiêm để giúp chánh pháp được trụ lại thế
gian dài lâu.
Hôm nay bắt đầu giảng thần chú
Lăng Nghiêm. Chữ Lăng Nghiêm được dịch là Cứu cánh kiên cố.
Toàn danh tự của thần chú này là
Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát La Đà La Ni hay Phật Đảnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát
Đa Bát Đát La Vô Thượng Thần Chú. Phật đảnh tức là hóa Phật trên đảnh
nhục kế của Phật Thích Ca; thần chú này vi diệu không thể nghĩ bàn. Thần
chú này hàng phục thiên mà và chế ngự ngoại đạo. Từ đầu đến cuối,
mỗi câu đều là pháp môn tâm địa của chư Phật; mỗi câu có mỗi công
dụng; mỗi chữ có mỗi điểm thâm áo vi diệu; tất cả đều có thần lực
không thể nghĩ bàn. Chỉ cần tụng niệm một câu, một chữ, một hội,
hay toàn thần chú cũng đều khiến trời rung đất chuyển, quỶ thần khóc,
yêu ma lánh xa, ly mị độn hình. Ánh hào quang trên đảnh nhục kế của đức
Phật biểu thị cho thần lực của thần chú, tức là có khả năng phá trừ
tất cả màn đêm tăm tối và khiến hành giả thành tựu tất cả công đức
lành. Nếu thọ trì thần chú này thì tương lai nhất định sẽ thành Phật,
chứng đắc ngôi vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nếu thường tụng trì
thần chú này thì sẽ tiêu trừ nghiệp chướng trong bao đời tiền kiếp.
Đó là diệu dụng của thần chú Lăng Nghiêm.
Ma Ha là tiếng Phạn, dịch là Đại
(lớn). Tại sao gọi là đại ? Vì thể, tướng, dụng của thần chú này vĩ
đại. Thể biến khắp 10 phương, nên gọi là Đại. Dụng bao trùm tận
cùng hư không khắp pháp giới. Tướng tức là vô tướng, nhưng vô tướng
mà vô bất tướng (không có tướng mà chẳng không có tướng). Dụng cũng
có thể gọi là không có dụng; tận cùng khắp pháp giới không có gì là
chẳng dụng. Dụng tức là đại dụng; tướng tức là đại tướng; thể
tức là đại thể. Biến khắp 10 phương và tận cùng hư không pháp giới
là nghĩa của chữ Ma Ha.
Tát Đát Đa cũng là tiếng Phạn, dịch
là Bạch (trắng), nghĩa là thanh tịnh không có nhiễm ô. Thần chú Lăng
Nghiêm là pháp trắng sạch thanh tịnh không có nhiễm ô.
Bát Đát La cũng là tiếng Phạn, dịch
là tán cái (lọng dù). Tán cái là ví dụ. Diệu dụng của Tán Cái này là
che trùm muôn đức, nghĩa là bảo vệ tất cả người có nhân đức; ai có
đức hạnh thì sẽ gặp thần chú này. Những ai thiếu đức hạnh thì
không thể gặp được pháp này. Thế nên có câu:
- Tam quang phổ chiếu thấu tam tài
- Diêm Phù thế giới nhĩ bất lai
- Đại đức đại thiện năng ư đắc
- Vô đức vô thiện bất minh bạch
Tạm dịch:
- Ba hào quang chiếu khắp ba tài
- Thế giới Diêm Phù bạn không qua
- Đức lớn lành lớn mới đạt được
- Thiếu đức thiếu lành không hiểu đâu.
Ba hào quang chiếu khắp ba tài: Nơi
đây ba ánh hào quang không phải bàn về mặt trời, mặt trăng, tinh sao, mà
có nghĩa là khi tụng thần chú Lăng Nghiêm, thân khẩu ý của quý vị
phóng ánh hào quang. Ba tài tức là bàn về trời, đất, con người.
Thế giới Diêm Phù bạn không qua:
Tìm kiếm xuyên suốt thế giới Diêm Phù mà không thể tìm thấy ánh sáng
đó. Tuyệt đối phải trì tụng thần chú này mới đạt được ánh sáng
đó.
Đức lớn lành lớn mới đạt được:
Có đức hạnh cao cả và nghiệp lành nhiều mới gặp pháp môn này.
Thiếu đức thiếu lành không hiểu
đâu: Nếu thiếu đức độ và không vun trồng đủ công đức thì dẫu có
đối mặt mà quý vị vẫn đánh mất cơ hội. Ngay trong tầm tay mà để đánh
mất. Thấy vàng mà nghĩ lầm là đồng; thấy kim cương mà cho là thủy
tinh; không thể nhận ra. Xem qua thần chú Lăng Nghiêm xong mà chỉ cho là tầm
thường, nên không biết được châu báu quý giá nhất trong các hạt châu
báu và vi diệu nhất trong các sự vi diệu ! Không biết rõ hết được công
đức không thể nghĩ bàn của thần chú Lăng Nghiêm.
Có ánh sáng màu đỏ xoáy cuộn
bên cạnh ba ánh hào quang thanh tịnh của ba nghiệp thân khẩu ý. Tụng thần
chú Lăng Nghiêm tự nhiên có màu đỏ cuốn xoáy xuất hiện. Thế nên có
câu:
- Thiên đóa hồng liên hộ trụ thân
- Tọa câu kỴ trước hắc kỳ lân
- Vạn yêu nhất kiến vãng viễn đóa
- Tế Công pháp sư hữu diệu âm.
Tạm dịch:
- Sen đỏ ngàn cánh hộ trì thân
- Ngồi vững trên lưng kỳ lân đen
- Muôn yêu ma vừa thấy trốn xa
- Pháp sư Tế Công có diệu âm.
Sen đỏ ngàn cánh hộ trì thân: Khi
tụng 29 câu chú đầu tiên của thần chú Lăng Nghiêm thì có cảnh giới xuất
hiện: Hoa sen đỏ ngàn cánh phóng ánh sáng đỏ hộ trì thân của quý vị.
Ngồi vững trên lưng kỳ lân đen:
Người trì thần chú Lăng Nghiêm tự cảm thấy dường như ngồi trên lưng
kỳ lân màu đen.
Muôn yêu ma vừa thấy, lánh xa: Dẫu
loại yêu ma quỶ quái nào cũng đều bỏ chạy vì không dám đối đầu với
tướng đại oai đức này. Ai ai cũng biết pháp sư Tế Công. Pháp Sư chuyên
dùng một đoạn chú văn để hàng phục thiên ma và chế ngự ngoại đạo
rất là linh nghiệm, nên bảo: Pháp sư Tế Công có diệu âm. Đoạn chú văn
đó cũng dạy chúng ta Quy y tất cả chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên
Giác tận cùng khắp hư không pháp giới. Đây cũng là đoạn hộ trì Tam Bảo.
Thế nên, vừa niệm đoạn thần chú này thì yêu ma quỶ quái đều bỏ chạy
lánh xa ra ngoài mười dặm. Không những chỉ mười dặm mà chúng thối lui
đến khi không còn chỗ thối lui. Từ đó, chúng không còn dám tác quái và
bị bắt buộc phải sống đàng hoàng.
Đó là ý nghĩa đại khái của đoạn
thần chú này; nếu bàn chi tiết thì vi diệu không thể nghĩ bàn.
- Áo diệu vô cùng tận nan sai
- Kim Cang Mật Tích ngữ bổn tánh lai
- Lăng Nghiêm chú lý hữu linh diệu
- Ngũ nhãn lục thông đạo phàm khai.
Tạm dịch:
- Vô cùng áo diệu khó suy lường
- Lời Kim Cang Mật Tích từ bổn tánh
- Trong chú Lăng Nghiêm có linh diệu
- Ngũ nhãn lục thông khai đạo phàm.
Vô cùng áo diệu khó suy lường: Thần
chú Lăng Nghiêm vô cùng thâm áo vi diệu; sự biến hóa của thần chú cũng
không thể nghĩ bàn và không thể suy lường.
Lời Kim Cang Mật Tích từ bổn
tánh: Thần chú Lăng Nghiêm là thần chú bí mật trong sự bí mật; nghĩa là
Kim Cang Mật Tích đến hộ trì thần chú. Cội nguồn của bổn tánh chính
là Phật tánh trong tự tánh xuất hiện.
Trong chú Lăng Nghiêm có linh diệu:
Thần chú Lăng Nghiêm cũng được gọi là Linh Văn (văn tự linh nghiệm), vì
đặc biệt có linh nghiệm và thần lực, nên nói rằng trong thần chú Lăng
Nghiêm có sự linh nghiệm vi diệu.
Ngũ nhãn lục thông khai đạo phàm:
Nếu thường nhất tâm chuyên trì tụng thần chú này thì sẽ mở ngũ nhãn
(nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn), lục thông (thiên
nhãn thông, thiên nhĩ thông, thần túc thông, túc mạng thông, tha tâm thông,
lậu tận thông). Kế đến sẽ cảm nghiệm sự biến hóa không thể nghĩ bàn
và không thể suy lường của những cảnh giới khác nhau mà hầu hết những
người phàm tục đều không thể biết đến. Do đó, tôi hy vọng mọi người
đều tụng đọc kinh Lăng Nghiêm và học thuộc thần chú Lăng Nghiêm. Tại
sao yêu ma quỶ quái không dám xuất hiện khi quý vị tụng thần chú Lăng
Nghiêm ? Vì thần lực quá lớn lao đến đỗi không có nơi nào trong tận
cùng hư không khắp pháp giới là không có ánh hào quang của thần chú
tràn ngập chiếu đến. Thế nên, nếu còn người tụng thần chú này thì
còn người hỗ trợ cho chánh khí của trời đất. Một người trì tụng
thì tạo năng lực của một người; trăm người tụng thì tạo trăm năng
lực. Nhờ đó mà yêu ma quỶ quái trên thế gian này đều phải sống đàng
hoàng. Vì vậy, càng có nhiều người trì tụng thần chú này thì càng tốt
hơn.
Đây là thần chú vô thượng. Tại
sao gọi là vô ? Vì thần chú này cao siêu sáng ngời vô cùng tận, và ánh
hào quang chiếu đến cực điểm mà không có loại ánh sáng nào tỏa sáng
bằng, nên gọi là Vô. Tại sao gọi là Thượng ? Vì không có gì cao thượng,
tôn quý bằng, nên gọi là thượng. Thần nghĩa là không thể nghĩ bàn và
oai linh khó suy lường. Chú nghĩa là cảm ứng đạo giao; khi tụng thần chú
thì sẽ có cảm ứng.
Phật Đảnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát
Đa Bát Đát La Vô Thượng Thần Chú: Nghĩa là ánh hào quang từ đảnh nhục
kế của Phật phóng ra giống như cây dù trắng lớn che chở và hộ trì tất
cả chúng ta, những ai trì tụng thần chú.
Không ai hiểu rõ thần chú này hay
giải thích từng câu và từng chữ được. Tuy nhiên, nếu quý vị muốn hiểu
rõ, tôi sẽ cố gắng hết sức mình để giải thích. Thần chú Lăng Nghiêm
không thể được giải thích trong một năm, hai năm, ba năm, hoặc ngay cả
mười năm mới xong. Hiện tại, tôi giải thích ý nghĩa tổng quát về thần
chú này.
Thần chú này có năm hội để tượng
trưng cho năm phương như đông, tây, nam, bắc, trung ương. Phương đông là
bộ Kim Cang với Phật A Súc làm giáo chủ. Phương nam là bộ Bảo Sanh, với
Phật Bảo Sanh làm giáo chủ. Trung ương là bộ Phật, với Phật Thích Ca
làm giáo chủ. Phương tây là bộ Liên Hoa, với Phật A Di Đà làm giáo chủ.
Phương bắc là bộ Yết Ma, với Phật Thành Tựu làm giáo chủ. Năm bộ này
quản lý năm đại quân của quỶ ở năm phương. Vì năm loại ma này nên
chư Phật phân ra năm hướng để trấn áp chúng. Nếu không có chư Phật,
ma quân đều xuất hiện nơi thế gian. Thế nên, quý vị vừa tụng một biến
thần chú Lăng Nghiêm thì năm đại ma quân ở năm hướng liền đưa đầu
nạp mạng, tự hành chân chánh, không dám chống lại oai lực của thần
chú này. Nhờ có đủ năm bộ nên thần chú này mới tối vi diệu không
gì sánh bằng. Tuy nhiên, chớ nên chấp trước, bằng ngược lại sẽ không
còn vi diệu.
Trong năm hội thần chú Lăng Nghiêm
có hơn 30 bộ pháp. Xưa kia ở vùng Mãn Châu, lý do tôi chữa trị được bịnh
tật cho dân chúng, tất cả đều nhờ vào oai lực của thần chú Lăng Nghiêm.
Song, không thể tùy tiện lạm dùng thần chú này. Nếu lạm dùng thì không
thể dùng hết được vì ngay trong đó có hơn ba mươi bộ pháp khác nhau.
Đây là bàn đại khái. Nếu bàn chi tiết thì có hơn một trăm loại.
Trong những pháp đó có pháp Thành
Tựu; nghĩa là trì tụng thần chú Lăng Nghiêm thì dẫu tu pháp môn nào cũng
đều thành tựu; dẫu cầu việc gì, tất cả sẽ đều thành tựu như ý
nguyện. Lại nữa, có pháp Tăng Ích: Ví dụ, khi tu hành, nếu đạo tâm chưa
vững, thì nhờ trì tụng thần chú này mà tăng trưởng trí huệ, tâm Bồ
Đề, nguyện lực; tất cả đều được tăng trưởng. Khi tụng trì thần
chú này, tất cả sở cầu của mình đều có thể được tăng thêm; đối
với sở cầu của người khác cũng như thế.
Pháp Tiêu Tai: Tụng trì thần chú
này thì không còn thiên tai hoạn nạn. Giả sử có người đáng lẽ phải
bị chết đuối trên biển cả, nhưng nhờ tụng trì thần chú này mà được
thoát chết. Hoặc giả ngồi trên một chiếc thuyền sắp bị chìm, nhưng
nhờ tụng trì thần chú này mà thuyền không chìm. Hoặc giả đáng lẽ phi
cơ sẽ bị rơi, nhưng nhờ trì tụng thần chú này mà phi cơ tránh được
tai nạn. Tuy nhiên, phải chính tự mình chịu trách nhiệm diệt trừ những
tai hoạn ngay trong nội tâm. Những tai họa đó là gì ? Nếu chỉ dựa vào
thần chú mà trong tâm lại khởi vọng tưởng, giữ những tâm niệm xấu
xa, có đầy tạp niệm và dục niệm không thanh tịnh, thì quý vị thật chưa
diệt trừ tai họa ngay trong nội tâm. Trong trường hợp đó, tụng chú gì
cũng vô dụng. Nếu muốn tránh tai họa, trước hết phải thanh tịnh hóa
tâm niệm; đó mới là việc diệt trừ tai hoạn chân chánh. Có niệm chú
nào cũng không linh nghiệm nếu trong tâm vẫn đầy tràn tham lam, sân hận,
si mê. Do đó, tâm niệm rất là quan trọng; nhất định phải giữ tâm từ
bi hiền hòa lương thiện, nguyện muốn trợ giúp người khác.
Pháp Câu Triệu: Được dùng để bắt
thiên ma ngoại đạo khi gặp chúng, giống như cảnh sát bắt kẻ phạm tội.
Pháp Câu Triệu này bắt những yêu ma quỶ quái bỏ chạy sau khi hại người
ở nơi này, tạo việc xấu ở nơi khác, khiến người sanh bịnh, hoặc gây
tai nạn. Khi tụng trì thần chú này, tất cả thiện thần hộ pháp, tám bộ
quỶ thần, 84.000 Kim Cang Tạng Bồ Tát đều có thể bắt yêu ma quỶ quái,
dù chúng có chạy xa đến đâu. Tuy vậy, đôi khi chúng không khuất phục,
nên quý vị phải dùng đủ mọi phương tiện để giáo hóa chúng. Nếu cưỡng
bức áp chế để hàng phục chúng, thì đó là phương pháp thấp hèn không
tốt. Phương pháp hay nhất là không dùng thế lực để áp bức hay tranh đấu
với chúng như loài A Tu La thường thích tranh hơn thua. Tuy có đủ oai lực
để hàng phục chúng, nhưng không nên lạm dùng. Phải dùng đức độ để
cảm hóa và giáo hóa chúng.
Pháp Hàng Phục: Ma cũng có thần
thông và chú thuật. Quý vị tụng chú; chúng cũng tụng chú. Tuy nhiên, khi
tụng thần chú Lăng Nghiêm quý vị phá hết tất cả chú thuật của chúng
và hàng phục được chúng. Dùng oai lực của thần chú này để khiến chúng
phải nghiêm chỉnh. Trước kia, tôi đã từng nói với quý vị rằng trong
thần chú này có vài câu chú phá được lưới võng của ma quân. Tại sao
khi tụng trì thần chú Lăng Nghiêm thì chú của Tiên Phạm Thiên vô hiệu
nghiệm ? Vì nhờ oai lực của năm đại tâm chú. Năm đại tâm chú đó là
tâm chú căn bản phá vỡ tất cả chú thuật của thiên ma ngoại đạo. Dù
chúng có chú thuật gì, một khi quý vị tụng câu chú đó thì khiến vô hiệu
hóa tà thuật của chúng. Nếu muốn ra giá pháp này, cả triệu đô cũng
chưa xứng. Song, vì thấy quý vị có chút ít tâm thành, tôi truyền pháp
này mà không lấy một xu.
Kết luận, dẫu tu pháp nào, phải
nên giữ tâm Bồ Đề vô thượng, tâm đại từ đại bi, đại hỶ đại xả.
Chớ dùng oai lực để trấn áp người khác hay yêu ma quỶ quái.
Pháp Kiết Tường: Tụng trì thần
chú này thì tất cả sự việc đều tùy tâm như ý, kiết tường may mắn.
Tôi sẽ giải thích rõ những pháp này cho quý vị.
Tuy giảng nhiều năm nhưng vẫn không
thể giảng hết những điểm hay của thần chú này. Tất cả 10 phương
chư Phật đều xuất sanh từ thần chú này, nên có thể gọi thần chú Lăng
Nghiêm là mẹ của chư Phật. Mười phương các đức Như Lai đều nương y
thần chú này mà thành tựu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Các
ngài ứng thân nhiều như số bụi vi trần ở các cõi nước để chuyển bánh
xe pháp, giáo hóa chúng sanh, thọ ký cho chúng sanh trong 10 phương, cứu độ
chúng sanh thoát khổ, khiến tất cả chúng sanh đại, tiểu, quyền, thừa
đều được giải thoát; tất cả các ngài đều nhờ nương y vào oai lực
của tâm chú Lăng Nghiêm. Nếu muốn chứng đắc quả A La Hán, phải tụng
trì thần chú này thì mới tránh ma sự. Trong thời mạt pháp, nếu có ai học
thuộc thần chú này hay khuyến khích người khác học thuộc, thì lửa
không thể đốt người đó và nước không thể làm họ chết đuối. Tuy
thuốc độc nặng nhẹ đến đâu cũng không thể hại được họ. Đối với
những ai thường tụng trì thần chú này, thuốc độc sẽ biến thành nước
cam lồ khi vừa vào miệng. Người tụng trì thần chú này sẽ không tái
sanh vào những chỗ xấu xa; họ có muốn cũng không được. Tại sao ? Vì
thần chú này giữ quý vị lại mà không cho đi đến những nơi đó. Nếu
chưa bao giờ tích tụ được công đức khi tụng trì thần chú, nhưng chư
Phật trong 10 phương sẽ gia hộ công đức lành cho quý vị. Có phải đáng
giá chăng ? Đó là do thường trì tụng thần chú này thôi. Ngoài ra, nếu
thường trì tụng, quý vị sẽ luôn luôn được sanh vào nơi và lúc chư Phật
ra đời cũng như huân tu dưới sự giáo huấn của các ngài.
Giả sử tâm niệm thường bị tán
loạn không thể chuyên nhất hay phát sanh định lực, nhưng nếu tâm tưởng
về thần chú Lăng Nghiêm, rồi dùng miệng để trì tụng thì Bồ Tát Kim
Cang Tạng Vương sẽ âm thầm hộ trì quý vị cho đến khi tâm tán loạn
tiêu dần và phát khởi định lực. Các ngài sẽ thầm hỗ trợ quý vị
khai mở trí huệ và chuyên tâm nhất ý đến độ tỏ ngộ hoàn toàn về tất
cả sự tình trong 84.000 hằng hà sa số kiếp.
Nếu quý vị tụng thần chú Lăng
Nghiêm đến độ tụng thuộc lòng để hòa nhập vào với thần chú thì
tâm của quý vị là thần chú và thần chú cũng là tâm của quý vị, tức
là đắc được tam muội trì chú; nghĩa là sự tụng đọc trôi như nước
chảy cuồn cuộn không ngừng. Nếu hành được như thế thì tệ lắm là
trong bảy đời thường được giàu sang như những trùm tư bản có các mỏ
dầu ở MỸ. Quý vị có thể bảo: Ồ ! Thật tuyệt hảo ! Tôi sẽ học thần
chú Lăng Nghiêm ngay lập tức ! Bảy đời trở thành nhà tỶ phú thì tuyệt
quá !.
Nếu ích kỶ như thế, không nên học
thần chú Lăng Nghiêm để làm gì. Bảy đời trôi qua mau như chớp mắt.
Người thường trì tụng thần chú Lăng Nghiêm phải hy vọng đạt được
những gì ? Phải hy vọng đạt được quả vị Phật vô thượng chánh đẳng
chánh giác. Chớ tự khinh mình. Thật ra, những ai thường trì tụng thần
chú Lăng Nghiêm chính là hóa thân Phật. Không những là hóa thân Phật mà
còn là hóa thân Phật ngay trên đảnh nhục kế của Ngài, nghĩa là hóa
thân Phật ngay trong hóa thân. Do đó, chỗ vi diệu của thần chú Lăng Nghiêm
thật không thể nghĩ bàn. Bất cứ nơi nào có người chân thành trì tụng
thần chú Lăng Nghiêm thì nơi đó sẽ có một cây dù trắng lớn che đỉnh
đầu của hành giả đó. Nếu công phu thâm sâu, cao tột thì khi vừa khởi
niệm trì tụng thần chú, cây dù trắng lớn đó sẽ hiện ra trong khoảng
ngàn dặm che trên đỉnh đầu của quý vị để bảo hộ tránh khỏi thiên
tai hoạn nạn. Nếu chỉ có công phu chút ít thì dù trắng sẽ che trên đỉnh
đầu để bảo vệ quý vị. Nếu là vị đại đức cao tăng tụng trì thần
chú này, thì cả quốc gia đều được thanh bình, không gặp những thiên
tai. Hoặc giả nếu không tránh được thì thiên tai hoạn nạn lớn sẽ
chuyển thành nhỏ, và thiên tai hoạn nạn nhỏ sẽ không xảy ra.
Nếu quốc gia có bị nạn chiến
tranh, đói khát, bịnh dịch, hay giặc cướp, tất cả đều sẽ được tránh
khỏi. Giả sử quý vị viết và dán thần chú Lăng Nghiêm tại bốn cửa
thành, hoặc trên ụ gác, hoặc những đài cao; giả sử quý vị có muốn
dân chúng kính ngưỡng và mến thích thần chú Lăng Nghiêm, để họ cung kính
đảnh lễ và nhất tâm cúng dường thần chú này, thể như cúng dường
chư Phật; giả sử có thể khiến dân chúng mang thần chú này trong mình,
hoặc trì giữ trong nhà. Nếu làm được như thế, tất cả thiên tai hoạn
nạn sẽ tan biến. Bất cứ nơi nào có thần chú Lăng Nghiêm, trời rồng
đều vui mừng. Thế nên, những nơi đó sẽ tránh khỏi bão lụt; mùa màng
ngũ cốc đều được phong phú; dân chúng sẽ sống an lạc thanh bình. Đó
là lý do tại sao tôi nói rằng công đức và diệu dụng của thần chú
này thật không thể nghĩ bàn, không thể tưởng tượng. Đó là sự vi diệu
của thần chú này.
Nếu phá giới trọng thì không thể
kết lại. Tuy nhiên, nếu tụng trì thần chú Lăng Nghiêm thì sẽ được
thanh tịnh trở lại. Song, khi tôi nói rằng tụng trì, không có nghĩa là tụng
qua loa mà phải đạt đến trì chú tam muội. Thần chú phải được lưu xuất
từ tâm niệm và quy về nơi tâm niệm. Đó là thần chú là tâm và tâm là
thần chú. Tâm và thần chú đều nhất như, hợp thành một thể mà không
có sự phân biệt. Nếu muốn quên thần chú đi, nhưng không thể nào quên
được. Đó gọi là không niệm mà niệm hay niệm mà không thấy mình niệm.
Nếu dẹp trừ hết tất cả tạp niệm thì đó là tâm niệm trì tụng thần
chú Lăng Nghiêm; tâm niệm hợp nhất với thần chú mà không còn vọng niệm
thứ hai nào. Bấy giờ, muôn vật diễn thuyết nghĩa Đại Thừa: Tiếng gió
hiu hiu và dòng nước chảy róc rách đều là tâm chú của thần chú Lăng
Nghiêm. Nếu đạt đến cảnh giới đó, dù có phạm giới, thì giới thể
vẫn được thanh tịnh trở lại; nghĩa là không cần thọ giới trở lại.
Nếu không muốn tu hành tinh tấn hay không muốn nghiên cứu Phật pháp, nhưng
trì tụng thần chú trong một thời gian thì tự nhiên quý vị sẽ phát tâm
tu hành tinh tấn; những ai thiếu trí huệ, tụng trì thần chú này thì sẽ
khai mở trí huệ. Nếu sự tu hành chưa được thanh tịnh vì hủy phạm
trai giới, nhưng nếu không quên trì tụng thần chú này thì tịnh giới sẽ
mau chóng được phục hồi. Nếu phạm giới trước lúc trì tụng thần
chú này, thì một khi nhất tâm tụng trì thần chú, dẫu là tội khinh hay
trọng đến đâu, bao gồm những tội không thể sám hối như bốn tội Ba
La Di, ngũ nghịch, bốn hay tám tội bị đuổi khỏi tăng đoàn, sẽ đều
được tiêu trừ hoàn toàn mà không còn một mảy may tội lỗi nào. Do đó,
tôi nói rằng năng lực của thần chú Lăng Nghiêm thật không thể nghĩ bàn.
Có người nhận biết sự linh ứng
và diệu dụng của thần chú Lăng Nghiêm nên chỉ chú tâm trì tụng nhưng
lại bỏ qua tất cả những phương pháp tu hành khác; đó thật là thái
quá. Đối với việc tu đạo, khi tu pháp môn nào, phải y theo trung đạo,
chớ tu hành giãi đãi hay thái quá. Tuy thần chú Lăng Nghiêm rất linh nghiệm,
nhưng cũng phải tu thiền định. Kinh Lăng Nghiêm giảng thuyết về sự nhiệm
mầu của thần chú Lăng Nghiêm, nhưng cũng giảng giải về pháp môn Nhĩ
Căn Viên Thông: Phản văn văn tự tánh (nghe lại tánh nghe của mình); đó cũng
là pháp môn tối trọng yếu. Đang lúc trì tụng thần chú, quý vị cũng nên
nghe lại tánh nghe hay phản chiếu lại ánh sáng tự tâm của mình. Có phải
bên trên tôi đã nói rằng khi trì tụng, thần chú là tâm niệm và tâm niệm
là thần chú chăng ? Thần chú và tâm niệm không thể tách rời nhau được;
tâm niệm và thần chú tuy là hai nhưng chẳng phải hai. Nếu đạt đến đó
thì có cầu mong điều gì, tất cả sẽ được thành tựu và như ý nguyện.
Một khi thể nhập thần chú vào tâm niệm thì chính là đạt được thiền
định tam muội và định lực chân chánh. Đó là điều mà mỗi chúng ta phải
nên biết rõ.
Mỗi câu trong thần chú Lăng Nghiêm
đều có vô lượng ý nghĩa; mỗi nghĩa đều có vô lượng công năng. Nên
biết rằng thần chú Lăng Nghiêm là Linh Văn (ngôn ngữ nhiệm mầu) trong trời
đất, là pháp bảo vô thượng, là châu báu cứu mạng tất cả chúng sanh,
là linh văn giữa các linh văn, và bí mật trong các sự bí mật. Thần chú
này bao trùm muôn vật, trên thì đến mười phương chư Phật, dưới thì tới
địa ngục A Tỳ; tất cả bốn hàng thánh vị (Phật, Bồ Tát, Thanh Văn,
Duyên Giác) và sáu loài phàm phu (trời, người, địa ngục, ngạ quỶ, súc
sanh, A Tu La) đều tôn kính thần chú này. Không có một pháp giới nào
trong mười pháp giới vượt ngoài phạm vi của thần chú này. Tất cả
loài quỶ, thần, chư Thiên hộ pháp, Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến Phật
Thừa đều nằm trong thần chú Lăng Nghiêm. Khi những danh tự của các quỶ
thần trong thần chú Lăng Nghiêm được tụng đọc lên, tất cả quyến thuộc
của những loài quỶ thần đó đều quy phục, tuân thủ quy củ, không dám
tùy tiện phá phách. Tụng trì thần chú Lăng Nghiêm mỗi ngày sẽ khiến
cho yêu ma quỶ quái trên thế gian không dám xuất hiện hại người mà phải
sống nghiêm chỉnh. Đại dụng của thần chú Lăng Nghiêm là bao trùm toàn
thể tánh và có thể nói rằng bao quát tất cả giáo nghĩa Phật pháp. Nếu
hiểu rõ thần chú Lăng Nghiêm thì sẽ hiểu rõ tất cả tinh hoa bí mật của
Phật giáo. Mọi sự thâm sâu áo diệu và những sự không thể nghĩ bàn
trong trời đất, tất cả đều nằm trong thần chú này. Nếu hiểu thần
chú này thì không cần phải học Mật Tông, Bạch-giáo, Hắc-giáo,
Hoàng-giáo, Hồng-giáo. Đây là pháp tam muội căn bản và bí mật rốt ráo
nhất. Không ai hiểu rõ và nhận ra pháp bí mật này. Dẫu có tu học nhưng
hầu hết mọi người đều chưa thâm nhập được, chỉ biết tụng niệm,
mà không hiểu ý nghĩa. Thật ra, không cần phải hiểu ý nghĩa của thần
chú, chỉ biết rằng thần chú này là Linh Văn không thể nghĩ bàn cũng đủ
rồi.
Có khả năng tụng trì thần chú
này tức là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, bằng ngược lại thì
không giúp được gì cả. Quý vị hãy mau học, ghi nhớ, quán sát, và hiểu
thần chú này ! Nếu được như thế thì hoàn thành trọng trách của người
Phật tử. Cách hay nhất của việc trì tụng thần chú này là phải vì sự
lợi lạc chung cho cả toàn thế giới; hồi hướng tất cả công đức cho
toàn thế giới. Trong Phật giáo, không có gì quan trọng bằng thần chú Lăng
Nghiêm vì thần chú này là biểu tượng chân chánh cho chánh pháp. Sự hiện
hữu của thần chú này bảo đảm cho sự hiện hữu của chánh pháp. Một
khi không còn thần chú này thì chánh pháp cũng sẽ biến mất. Những ai
chưa có thể tụng đọc thần chú này thì không đáng làm người Phật tử.
Thần chú Lăng Nghiêm có biệt danh là Lăng Bán Niên (trong nửa năm mới học
thuộc thần chú này) vì dẫu ngày ngày có tinh tấn tụng niệm, nhưng đến
nửa năm mới nhớ hết. Những người trì tụng thuộc lòng thần chú Lăng
Nghiêm như chúng ta hiện nay vốn là những người đã từng trồng căn lành
trong vô số kiếp; thuộc nhớ mà mãi mãi không quên, chính là sự biểu hiện
của căn lành. Nếu không có căn lành, ngay cả danh tự còn không thể xem
thấy còn nói chi đến việc tụng niệm. Hoặc giả có nghe qua danh tự của
thần chú, nhưng sẽ không thể thường trì tụng được. Thật vậy, những
ai tụng thuộc thần chú này chính là những người có căn lành sâu xa.
Thần chú Lăng Nghiêm là pháp môn
khó gặp được trong trăm ngàn muôn kiếp. Học và hiểu mỗi câu thì hiệu
nghiệm hóa một phần năng lực của thần chú, nhưng phải hành trì thực
tiễn. Song, không phải nghe rằng thần chú này có linh nghiệm và năng lực
rất lớn để rồi xử dụng những điều đó. Nếu xử dụng pháp này mà
không giữ giới như hầu hết những người không hiểu rõ gì và buông
lung tạo nghiệp giết hại, ăn cắp, tà dâm, nói láo, uống rượu và những
người chỉ tụng năm tâm chú chính khi gặp hoạn nạn, thì đó là làm ô
uế pháp này, chứ không tạo công đức gì cả. Nếu cố ý muốn sai sử
quỶ thần và chư thần hộ pháp thì chỉ tự khiến nghiệp xấu tăng trưởng
và sẽ tự mang lại tai họa cho chính mình. Do đó, đối với việc tu đạo,
đầu tiên là phải giữ giới luật, chú trọng đức hạnh, không tranh,
không tham, không mong cầu, không ích kỶ, không tự lợi, không nói láo. Nếu
không đủ đức độ mà giả dạng làm thánh hiền truyền thánh chỉ, hay
giả dạng làm nhà lãnh đạo, thì hành vi đó không thể nào chấp nhận
được. Ngày nay, nhiều người chỉ chú trọng việc tụng chú để có thần
thông linh ứng, mà không chú trọng phẩm hạnh của mình, thì khiến vô hiệu
hóa sự tụng niệm thần chú này.
Do đó, muốn tu học pháp môn của
thần chú này thì hành vi và động cơ phải chân chánh, chớ nên khởi vọng
tưởng hay làm những việc không thanh tịnh. Phải chú tâm tu hành hạnh
thanh tịnh. Nếu có ai một bên thì trì tụng thần chú, còn một bên thì
không giữ đúng quy củ, họ sẽ gặp những vấn đề khó khăn. Mọi người
phải hiểu rõ điểm này. Nếu không giữ chánh niệm và không hành theo
chánh hạnh, Bồ Tát Kim Cang Tạng sẽ không kính phục và bảo hộ quý vị.
Chư Phật và chư Bồ Tát có lòng đại từ bi, nên không biết làm hại
chúng sanh vì sân hận. Tuy nhiên, tất cả trời, rồng, quỶ thần hộ pháp
đều sẽ tức giận. Những ác quỶ, ác thần khi thấy quý vị đang trì tụng
thần chú Lăng Nghiêm mà lại tạo lỗi lầm, họ sẽ mang tai họa đến và
làm hại quý vị; hoặc họ sẽ khiến quý vị bất an, gặp những điều
phiền toái lớn lao; hoặc khiến quý vị phải chịu hoạn nạn, thọ bao quả
báo xấu. Đây không phải là việc dễ khinh lờn. Do đó, tất cả quý vị
phải nên ăn chay và thanh tịnh hóa thân tâm, không hành pháp nhiễm ô, chớ
phạm bất cứ quy củ nhỏ nhoi nào.
Tụng trì thần chú Lăng Nghiêm còn
giá trị hơn bất cứ vàng bạc nào. Tụng một biến thì đáng giá bằng
muôn vạn cân vàng. Tuy nhiên, chớ tụng niệm chỉ vì vàng ! Nếu trì giới
thì sẽ không có tâm đố kỴ ganh ghét, chướng ngại. Nhờ không tham lam
hay sân hận khi trì tụng thần chú mà sẽ phát khởi sự cảm ứng và lợi
ích lớn lao. Lúc tu hành, nếu có những hành vi trái quy củ thì sẽ không
đạt được sự cảm ứng hay linh nghiệm gì cả vì chư thiện thần hộ
pháp tránh xa; nếu có việc gì xảy đến chư thiện thần hộ pháp chẳng
màng đến quý vị. Do đó, đối với người trì tụng thần chú này, chớ
nên có tâm gian xảo hoặc có những hành vi bất chánh như tạo tác nghiệp
xấu. Bất cứ lúc nào cũng phải có hành vi chánh chân quân tử và chỉ biết
làm lợi ích cho người, chứ không nghĩ về mình, giữ tâm hạnh và hành hạnh
Bồ Tát.
Pháp tu trì thần chú Lăng Nghiêm rất
mực linh nghiệm, nhưng không phải dễ dàng. Trước hết, chớ nên có tâm
ích kỶ. Kế đến, chớ nên có tâm tự lợi mà phải giữ tâm rộng lượng
không thiên vị; phải có tâm xả mình vì người, cứu độ hết tất cả
chúng sanh. Nếu giữ tâm niệm như thế, sự tu hành mới mau đạt thành tựu.
Quý vị phải chú ý giữ năm giới cho nghiêm cẩn và thường hành mười
điều lành, vì đó là những phép tắc căn bản nhất.
Không thể tu hành mà chẳng giữ giới.
Nếu tâm niệm đầy cả vọng tưởng ô uế, chẳng những tu hành không
được cảm ứng hay thành tựu, mà chỉ mang lại tai họa. Do đó, lúc tu
pháp trì tụng thần chú Lăng Nghiêm, đặc biệt phải chú ý giữ ba nghiệp
thân, khẩu, ý cho thanh tịnh thì mới có cảm ứng. Chớ nên tùy tiện nói
nhảm khiến tạo sự chia rẽ, hoặc khiến đại chúng trong đạo tràng tu
hành cảm thấy không an lạc. Trong mọi cử chỉ hành động, như đi, đứng,
nằm, ngồi nhất định phải chú ý. Chớ nên giặt y phục cho người khác
mà phải quán chiếu lại chính mình.
Như trên đã bàn, thần chú Lăng
Nghiêm vốn là linh văn (ngôn ngữ linh nghiệm); mỗi câu có mỗi sự hiệu
nghiệm riêng. Song, chớ nên nghĩ: Tại sao tôi trì tụng thần chú Lăng Nghiêm
nhưng lại không có hiệu nghiệm ? Chớ màng đến việc có hiệu nghiệm
hay không, chỉ nên trì tụng; giống như tập võ, ngày ngày đều đánh quyền
mà không màng công phu như thế nào. Có võ thuật là do có công phu tập luyện,
bằng ngược lại thì không thể có được. Cũng như thế, ngày ngày phải
trì tụng pháp này không ngừng nghỉ, dẫu có bận rộn đến đâu hay sự
việc gì xảy ra. Chớ nên trì tụng thần chú Lăng Nghiêm một thời gian rồi
sanh tâm giãi đãi vì không còn thích thú vào pháp này. Không chắc chắn
quý vị sẽ có được sự cảm ứng ngay vừa lúc trì tụng. Dẫu có được
cảm ứng hay không, ngày ngày phải thường trì tụng. Công phu tu hành phải
ngày càng thâm sâu. Sự thành tựu không phải xảy ra trong một ngày một
đêm. Điển hình, phải học tập suốt mười năm, hai mươi năm, hoặc ngay
cả ba mươi năm trước khi thật sự có trình độ học vấn như ý; việc
tu hành cũng phải như thế. Phải luôn luôn giữ tâm niệm trì tụng thần
chú liên tục mà không gián đoạn, giống như việc mặc y phục, ăn cơm,
ngủ nghỉ. Có cảm ứng hay không cũng chẳng quan trọng vì nhờ trì tụng
hằng ngày mà quý vị từ từ sẽ có điểm tựa căn bản và tự nhiên cảm
nghiệm được diệu dụng của thần chú.
Nếu mong cầu sự diệu dụng và thần
thông không thể nghĩ bàn của thần chú thì chớ giữ tâm vọng tưởng
như ngủ mớ vào ban ngày với bao tâm niệm lăng xăng. Nếu sự trì chú bị
gián đoạn thì không thể đạt tam muội. Lúc hành trì pháp môn thần chú
Lăng Nghiêm phải dùng tâm chân thật và thành khẩn. Tại sao gọi là tâm
chân thật ? Nghĩa là vì việc trì tụng thần chú Lăng Nghiêm mà quên tất
cả thời gian, không gian, ngày đêm, ăn uống, ngủ nghỉ. Mọi việc đều
tan biến; một niệm dài như vô lượng kiếp và vô lượng kiếp cũng dài
bằng một tâm niệm. Phải có tinh thần hy sinh sự ăn uống ngủ nghỉ cho
mục đích tu hành. Nếu được như thế, nhất định sẽ đạt thành tựu
Lăng Nghiêm tam muội, bằng ngược lại thì không phải chân thật tu hành
pháp môn trì thần chú Lăng Nghiêm. Không những lúc tu trì thần chú Lăng
Nghiêm phải như thế, mà lúc hành trì các pháp môn khác cũng phải hành như
vậy. Đi mà không biết đang đi; ngồi mà không biết đang ngồi; khát mà
không biết đang khát; đói mà không biết đang đói. Quý vị có thể nói:
Vậy thì trở thành người ngu si sao ? Vâng, điều này rất đúng. Có câu:
Dưỡng thành đại chuyết phương vi xảo, học đáo như ngu thủy kiến kỳ
(Dưỡng thành vụng dại mới có thiện xảo, học đến như ngu mới thấy
lạ kỳ).
Nếu có thể học đến lúc như
người ngây dại thì tu pháp môn nào cũng đều có thể đắc tam muội và
đạt thành tựu. Vì chưa được ngu si nên chưa chân chánh thâm nhập vào cảnh
giới thiền định, và sự tu hành chưa được tương ưng với đạo.
Lúc dụng công trì thần chú Lăng
Nghiêm, hoặc có thể mộng thấy lễ Phật, hoặc có thể mộng thấy Phật
phóng ánh hào quang, hoặc có thể mộng thấy mình cùng Phật giảng kinh
thuyết pháp, hoặc mộng thấy Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Thánh Tăng hay
thiên tướng trên trời, hoặc mộng thấy tự thân thăng lên hư không, hoặc
mộng thấy tự mình biết bay, hoặc mộng thấy cỡi ngựa, vượt sông, hoặc
thấy bao loại ánh sáng kiết tường, hoặc thấy dị tướng phi thường lạ
kỳ xuất hiện, đó là những điềm mộng lành. Nếu đạt được những
điềm cảm ứng linh nghiệm như thế, phải nên cẩn thận, phải nên phát
tâm Bồ Đề, phải thanh tịnh hóa ba nghiệp thân, khẩu, ý, và phải khẩn
thiết gia tăng sự dụng công trì tụng thêm nữa. Song, chớ nên kể cho người
khác nghe những cảm ứng hay linh nghiệm gì mà quý vị đã cảm nhận được
với mục đích muốn khiến người khác tin tưởng và kính trọng mình. Tự
biết về những cảm ứng mà mình đã cảm nhận cũng đủ quá rồi. Nếu
mãi quảng cáo công đức của mình và đi dạo rao sự tu hành thì hoàn
toàn sai lầm. Nếu làm như thế thì để lỗ hổng cho ma thừa cơ hội xông
vào, cũng giống như không cất giữ châu báu trong hộp kín. Nếu bỏ châu
báu trước cổng nhà thì nhất định sẽ bị người trộm lấy. Do đó, tu
hành theo đạo Phật, chúng ta phải cẩn thận, chớ để thiên ma ngoại đạo
thừa cơ hội quấy phá. Tuy nhiên, có thể kể lại kinh nghiệm tu hành của
mình cho các bạn đồng tu nếu không vì mục đích tham danh lợi, được
người cung kính, ca ngợi.
Kinh Lăng Nghiêm thuyết: Nếu thường
tụng trì thần chú Lăng Nghiêm cho đến khi có công phu và đạt diệu dụng,
thì 84.000 Bồ Tát Kim Cang Tạng và quyến thuộc của các ngài sẽ thường
đi theo và bảo hộ quý vị, khiến tất cả sở cầu đều được như ý
nguyện. Song, ma vương không ngừng tìm chỗ hở để gieo rắc rối nhiều
hơn khả năng quý vị có thể chịu đựng được.
Xưa kia, tại vùng Hồ Bắc ở Đông
Sơn, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn tu hành và giữ giới đặc biệt rất tinh nghiêm.
Lần nọ, một bọn cướp vây quanh thành Hồ Bắc. Ngũ tổ Hoằng Nhẫn không
thể nhẫn chịu nhìn cảnh đó, nên quyết định xuống núi cứu dân chúng
trong thành. Ngài xuống núi Đông Sơn và đi vào thành Hồ Bắc. Vừa thấy
Ngài đến, bọn cướp run sợ, hạ gươm giáo và bỏ chạy. Tại sao ? Tuy
Ngài chỉ vào thành một mình, nhưng bọn cướp thấy thiên binh và thiên tướng
mang kiếm vàng cùng áo giáp vàng uy dũng từ trên trời bay xuống, nên bọn
chúng liền bỏ chạy tán loạn. Không dùng một cây gươm, giáo, cung tên,
Ngài đánh bại bọn cướp, vì Ngài thường trì tụng thần chú Lăng Nghiêm,
nên vừa thấy Ngài thì bọn cướp liền run sợ. Có thể nói rằng chư Bồ
Tát Kim Cang Tạng hiển oai linh hoặc đó là do oai đức tu hành của Ngũ tổ
Hoằng Nhẫn mà nhiếp phục bọn cướp. Đó là cách mà hành giả không
dùng một quân binh hay khí giới nào để hàng phục bọn cướp. Nếu không
chân chánh tu hành hoặc không có công phu chân thật thì làm sao có những sự
cảm ứng đạo giao như thế ?
Phật Thích Ca tuyên thuyết thần
chú Lăng Nghiêm để gia hộ và hỗ trợ định lực cho tất cả những người
phát tâm tu đạo như chúng ta hiện nay, khiến cho thân tâm của chúng ta
được an lạc, không bị phiền muộn. Do đó, trong mọi thời mọi khắc,
chúng ta chớ quên pháp trì tụng thần chú này. Nếu có thể thành tâm
chuyên chú trì tụng thần chú Lăng Nghiêm thì chính là hỗ trợ Phật pháp
được hưng thạnh và chánh pháp được trụ lại thế gian dài lâu.
- Kinh
Lăng Nghiêm đại biểu chánh pháp Như Lai [^]
- (giảng vào tháng giêng, năm 1983)
Trong tam tạng kinh điển của Phật
giáo Đại Thừa, kinh Thủ Lăng Nghiêm là bộ kinh ví như tấm gương chiếu
rõ yêu ma quỶ quái. Tất cả thiên ma ngoại đạo, ly, mị, võng, lượng, một
khi nhìn đến kinh Thủ Lăng Nghiêm, thì hình tướng của chúng sẽ hiện
rõ, không thể ẩn hình, hoặc chạy trốn khỏi. Vì vậy, xưa kia khi đại
sư Trí Giả nghe đến bộ kinh này, liền hướng về Ấn Độ thành tâm khẩn
thiết, lễ bái mười tám năm trường, cầu mong bộ kinh này qua đến nước
Tàu.
Tất cả chư đại đức cao tăng đại
trí huệ, ai ai cũng đều tán thán kinh Thủ Lăng Nghiêm. Do đó, bộ kinh Thủ
Lăng Nghiêm tồn tại thì Phật pháp mới còn tồn tại. Ngược lại, Phật
pháp sẽ bị hủy diệt. Tại sao gọi là đời mạt pháp ? Gọi là đời mạt
pháp vì kinh Thủ Lăng Nghiêm bị hủy diệt. Ai hủy diệt bộ kinh này ?
Thiên ma ngoại đạo sẽ hủy diệt. Chúng thấy kinh Thủ Lăng Nghiêm như
đinh trong mắt, như gai trong thịt, nên ngồi không yên, đứng không an. Vì
vậy, bắt buộc chúng phải sáng chế tà thuyết, bảo rằng kinh Thủ Lăng
Nghiêm này là giả.
Phật tử chúng ta phải nhận rõ
điều này. Mỗi lời trong bộ kinh này đều là chân kinh, chân điển. Lời
lời đều giảng về chân lý. Vì vậy, hiện tại chúng ta nghiên cứu năm
mươi loại ấm ma, mới thấy rõ kinh Thủ Lăng Nghiêm quan trọng như thế nào.
Tà ma quỶ quái sợ nhất bộ kinh này.
Đại lão hòa thượng Hư Vân trụ
thế 120 năm. Suốt đời tu hành, đại lão hòa thượng Hư Vân rất quý trọng
bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, nên chỉ chú giải bộ kinh này, và đặc biệt bảo
tồn những lời chú giải cả vài thập niên. Tuy nhiên, điều nuối tiếc
nhất trong đời của đại lão hòa thượng Hư Vân là quyển chú giải bị
đốt mất, do biến cố tại Vân Môn. Đại lão hòa thượng Hư Vân chủ trương
rằng là người xuất gia như chúng ta phải nghiên cứu tu học cho đến khi
thuộc lòng bộ kinh này từ đầu đến cuối và từ cuối đến đầu.
Được người khác thưa rằng có kẻ
bảo kinh Thủ Lăng Nghiêm là giả tạo, đại lão hòa thượng Hư Vân bảo:
Hiện tại là đời mạt pháp; yêu
ma quỶ quái muốn lừa bịp người tu hành, nên bảo rằng mắt cá là hạt
châu, khiến người người mê mờ, không phân biệt đúng sai. Chúng khiến
người khác đui mù để không còn nhận ra Phật pháp. Chúng cho thật là giả
và giả là thật, nên bảo: Xem kìa ! Người này viết quyển sách này, ai
ai cũng đọc. Người khác viết quyển sách kia, ai ai cũng đọc. Tuy nhiên,
đối với kinh điển chân chánh do Phật thuyết, hãy đặt trên gác sách,
để vĩnh viễn không ai có thể đọc được.
Vì vậy, mới thấy rõ chúng sanh
nghiệp chướng nặng nề. Nếu nghe tà tri tà kiến, thì họ liền tin tưởng
ngay. Giảng giải chánh tri chánh kiến, họ không tin tưởng. Tại sao họ không
tin ? Vì không đủ căn lành và không có nền tảng đạo đức căn bản. Do
đó, đối với chánh pháp, họ hoài nghi bất tín.
Tại Vạn Phật Thành, chúng ta kiến
lập đạo tràng Thủ Lăng Nghiêm. Mỗi ngày, có ai phát tâm tụng đọc hay
học thuộc lòng bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm thì thật rất hay. Ngày ngày, quý
vị thường đọc tụng hoặc học thuộc lòng kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh
Pháp Hoa, và ngay cả kinh Hoa Nghiêm, như đến trường học thì rất tuyệt.
Nếu có ai học được như thế thì chánh pháp mãi trường tồn trên thế
gian. Thế nên, tại đạo tràng Vạn Phật Thành thanh tịnh, mọi người phải
phát tâm hành những hạnh này. Tuy nhiên, chớ nên tranh với nhau. Chúng ta
phải vượt trên mọi thế tình để hành hạnh này.
Xưa kia, tâm nguyện của tôi là: Học
thuộc lòng kinh Pháp Hoa và kinh Thủ Lăng Nghiêm. Tại Hồng Kông, tôi có đệ
tử là Hằng Định, học thuộc lòng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Tôi cũng dạy Thầy
ta học kinh Pháp Hoa. Tại đạo tràng vi diệu này, chúng ta phải phát tâm Bồ
Đề, tu học nghiên cứu và học thuộc lòng kinh luật của Phật đà như
kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa, Tứ Phần Luật, và kinh Phạm Võng. Nếu
làm được như thế thì chánh pháp mới tồn tại lâu dài trên thế gian.
Kinh Hoa Nghiêm, mẹ của chư Phật
(giảng vào năm 1979).
Kinh Hoa Nghiêm là kinh của pháp giới
và là kinh của hư không. Tận hư không khắp pháp giới, nơi nơi đều có
kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm ở nơi đâu thì có chư Phật, chư pháp, và chư
hiền thánh tăng ở nơi đó. Vì vậy, vừa giác ngộ, thành chánh đẳng chánh
giác, đức Phật liền thuyết kinh Hoa Nghiêm để giáo hóa chư đại Bồ Tát.
Vì là bộ kinh vi diệu bất khả tư nghị, nên kinh Hoa Nghiêm được bảo tồn
tại Long Cung. Sau này, Bồ Tát Long Thọ xuống Long Cung, học thuộc lòng, rồi
đem trở lại thế gian.
Kinh Hoa Nghiêm như vầng mây lành
trong hư không, biến chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, như mưa pháp
cam lộ thấm nhuần hết tất cả chúng sanh. Kinh Hoa Nghiêm ví như vầng mặt
trời, soi chiếu khắp đại thiên thế giới, khiến tất cả chúng sanh đều
được ấm áp. Bộ kinh này cũng như cõi đất, có khả năng sanh trưởng tất
cả vạn vật. Do đó, còn kinh Hoa Nghiêm thì chánh pháp còn tồn tại lâu
dài.
Vào mỗi khi giảng giải, nghiên cứu
kinh Hoa Nghiêm, chúng ta phải y chiếu theo lý kinh mà tu hành, và dùng kinh
điển để đối trị những tật xấu của mình. Khi nghe qua kinh Hoa Nghiêm,
tâm tham sân si liền bị diệt trừ.
Giảng giải lý lẽ của bộ kinh
này, nhằm mục đích đối trị tập khí xấu xa của chúng ta. Tuyệt đối
chớ bảo rằng kinh này Phật thuyết cho chư Bồ Tát, chư A La Hán tu hành,
chứ không liên hệ gì với chúng ta. Không nên nói: Ô ! Phàm phu chúng ta chỉ
có thể lắng nghe kinh này thôi, chứ không thể nhận ra cảnh giới của chư
thánh hiền.
Nếu nghĩ như thế, tức là tự
khinh rẻ và tự cách biệt với chư thánh hiền.
Trong kinh Hoa Nghiêm, từ đầu đến
cuối, lời văn nào cũng đều là pháp bảo vô thượng. Nếu cung hành thật
tiển, tức y chiếu theo lời kinh mà tu trì, thì chúng ta nhất định sẽ thành
Phật. Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm được gọi là mẹ và là pháp thân của chư
Phật. Đức Phật tán thán kinh Kim Cang: Nơi nào có bộ kinh này thì nơi đó
có chư Phật.
Cũng như thế, kinh Hoa Nghiêm này
ở đâu, thì nơi đó có chư Phật. Chư Phật đang ở nơi đây. Vì nghiệp
chướng chúng sanh quá thâm trọng, nên đối diện mà không thể thấy được
các ngài. Thế nên bảo: Đối diện mà không thể nhận ra Bồ Tát Quán Thế
Âm.
Quý vị hãy nhìn xem tượng Quán Thế
Âm ngàn tay ngàn mắt. Ngài thường phóng ánh sáng vô ngại, chiếu khắp
chúng sanh hữu duyên trong ba ngàn đại thiên thế giới. Song, ngày ngày lễ
bái, tụng niệm danh hiệu chư Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm, mà chúng ta
không nhận ra các Ngài. Chúng ta chỉ làm theo đại chúng. Người khác lễ
lạy, mình cũng lễ lạy. Người khác tụng niệm, mình cũng làm theo. Chúng
ta bị cảnh giới chuyển, mà thật không thể nhiếp thọ thân tâm.
Thế thì tụng niệm lễ bái Bồ
Tát Quán Thế Âm như thế nào mới đúng cách ? Nếu còn giữ tánh nóng giận,
tập khí xấu xa mà không chịu sửa đổi, thì dầu quý vị có lễ lạy
cho đến tận đời vị lai, không thể nào thấy được Bồ Tát Quán Thế
Âm. Đó là lý do mà có người tu hành cả bao năm, nhưng vẫn chưa khai mở
trí huệ, đắc biện tài vô ngại. Nếu thường chuyển nghiệp ác để hành
việc thiện, chân thật dẹp trừ thói quen tật xấu, hết mình cố gắng sửa
đổi tánh tình, thì nhất định Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ gia hộ cho quý vị.
Vì vậy, chúng ta, bậc sa môn, phải cần tu giới định huệ, để tẩy trừ
tham sân si. Nhất cử nhất động đều phải xoay lại chính mình, thì mới
có phần tiến bộ. Nếu chúng ta thường tụng niệm, giảng giải, lắng
nghe kinh Hoa Nghiêm mà không y chiếu theo lời kinh để hành trì thì mình là
mình, kinh là kinh, tôi vẫn là tôi, quý vị vẫn là quý vị, nên không thể
trở thành một hợp nhất. Nếu muốn hợp nhất với kinh điển thì phải
hành trì theo lời kinh dạy; đó mới chân thật là hợp nhất.
Nếu không chân thật hành trì y
theo lời kinh, không đủ tâm từ bi, hỶ xả, mà chỉ chạy theo vô minh phiền
não, thì không thể hiểu rõ và thâm nhập vào kinh. Nghe được một câu
kinh, phải tự hỏi: Mình phải hành như thế nào ? Mình phải chạy theo
thói quen tật xấu, hay y chiếu theo lời kinh mà tu hành ?
Nếu thường tự hỏi như thế, thì
mới thật sự đạt được lợi ích. Vì sao chưa đạt được lợi ích? Chỉ
vì mình thấy kinh là kinh, mình là mình. Mình không có liên hệ gì với
kinh điển. Đức Phật thuyết ra bộ kinh này cho tất cả chúng sanh, bao gồm
quý vị, tôi, và mọi loài. Mặt đối mặt với chúng sanh, đức Phật dùng
kim khẩu thuyết pháp. Khi lắng nghe giảng kinh thuyết pháp, phải cảm giác
như đức Phật thuyết đạo lý kinh điển ngay bên tai, nhắc nhở mình phải
y chiếu kinh điển mà tu hành.
Dù là pháp nào, tất cả đều không
vượt ngoài tự tánh. Tự tánh này bao trùm tận hư không, khắp pháp giới.
Thế nên, nếu quý vị có thể khai mở tâm mình rộng lớn, thì sẽ hợp
nhất cùng với kinh Hoa Nghiêm. Tuy gọi là hai nhưng không phải hai. Người
người đều nên dùng cảnh giới kinh Hoa Nghiêm làm cảnh giới của mình;
đây là cách thu nhiếp trí huệ. Nếu được như thế thì tâm lượng và cảnh
giới của mình rộng lớn đến ngần nào !
- Tâm này rộng lớn và tinh vi
- Phóng xả, sẽ hòa cùng vũ trụ
- Cuộn lại, tức dấu nơi mật tạng.
- Thật vi diệu không thể diễn bày.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/044-TuyenHoa-canban2.htm