12 Vấn đề xã
hội dưới cái nhìn Phật giáo
Nguyễn Thị Phương Thanh dịch
(Lược theo Au delà des dogmes)
Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo – Số 48
Trong một cuộc đàm thoại giữa
thính chúng thuộc nhiều thành phần xã hội, là nhà truyền thông, nhà giáo
dục, chính khách, …Đức Lạt Lai Lạt Ma đã trả lời các câu hỏi về nhiều
vấn đề đời sống xã hội tham của người tham dự một cách thẳng thắn và có
duyên. Với phong thái gần gũi, chân thật và giản dị, và qua những câu
trả lời này, phần nào đó trả lời câu hỏi: tại sao Đức Đạt Lai Lạt Ma
được nhiều người, đặc biệt là ở các nước phương Tây yêu mến đến thế.
1.Kính thưa Ngài, khi còn bé Ngài
đã tỏ ra phi thường. Những trẻ em lo âu cho tương lai của tinh cầu đã
thành lập một hội đoàn. Ngài có đều gì muốn nói với trẻ em ngày nay?
Tương lai là cái gì ở trước mặt
chúng ta, và vì vậy, nó rất quan trọng. Trẻ em có trách nhiệm về tương
lai ấy. Vì rằng bản tính con người căn bản là tốt, nên trẻ em, khi còn
rất nhỏ, không phân biệt lắm giữa người này và người nọ. Các em có một
tình thương và lòng nhân tự nhiên. Ví dụ đối với các em, nụ cười của
người đối diện quan trọng hơn chủng tộc, quốc tịch hay văn hóa của họ.
Điều này, theo tôi rất đáng quý và nó khiến tôi hy vọng ở tương lai.
Nhưng mặt khác thì tôi lại thấy hơi lo: trẻ em đương nhiên có tâm hồn
cởi mở và tốt bụng, nhưng một vài khía cạnh của nền giáo dục mà các em
hấp thụ làm tăng thêm mối chia rẽ giữa các em, điều này chung cục sẽ tạo
nên hố ngăn cách giữa trẻ em và những người khác.
Vì vậy,tôi thấy là song song với
giáo dục, điều tối cần là phải phát triển lòng nhân mà bẩm sinh các em
vốn có. Nghĩa là giáo dục phải hòa hợp với bản chất nhân hậu của trẻ.
Điều chính là nuôi dạy nó trong một môi trường thương yêu và trìu mến.
Mặc dù, lý tưởng mà nói rằng, nếu phải lựa chọn nhiều đức tính rất quý
khác và lòng nhân, chắc chắn tôi sẽ chọn lòng nhân.
Thật vậy, giáo dục cùng với trí
thông minh bẩm sinh của con người, dù quan trọng cách mấy cũng không đủ
để tạo dựng tương lai. Tâm hồn chúng ta phải thấm nhuần đức vị tha, bằng
cách cảm nhạn giá trị nhân bản nòng cốt như tình thương đồng loại. Hãy
tự tạo cho mình lòng nhân và tinh thần khoan dung; hãy cho trí thông
minh của ta phong phú lên nhờ đức tính ấy, và khai thác những đức tính
có được giáo dục, để cả chúng ta và xã hội quanh ta đều được mãn nguyện
và hạnh phúc.
2. Tại sao ở phương Tây cha mẹ và
con cái lại “thường bất hòa” nhu vậy?
Tôi cũng chẳng biết nữa. Có
nhiều yếu tố và đều kiện như: thói quen, phong tục và tấm gương cho trẻ
noi theo. Điều có thể tạo nên xung đột trong gia đình. Dĩ nhiên thật
đáng buồn khi mà giữa cha mẹ và con cái, tình thương yêu không còn nữa.
Tôi không thể giải thích những mối bất hòa như vậy bằng một nguyên nhân
duy nhất nào. Vì có nhiều nguyên nhân, nên khi tìm cách giải quyết văn
đề, phải nhận định chúng một cách bao quát, toàn diện.
3. Những quan điểm chính trị và
kinh tế của các nước phương Tây đã vận hành tương đối tốt trong thập
niên 1960, nhưng mọi sự không ổn trong thập niên này. Người ta không còn
thấy bằng lòng nữa. Làm sao chỉnh đốn lại tình thế?
Từ lúc hãy còn rất bé, tôi đã
ham thích kỹ thuật. Một số người cho rằng chính việc phát triển kỹ thuật
đã không hoàn toàn đáng mong muốn. Tôi thì không nghĩ vậy. Tôi nghĩ rằng
tất cả điều do ở thái độ chúng ta, và chúng ta có quyền sử dụng nó và
điều tốt hay điều xấu. Vậy nên, tất cả đều tùy thuộc vào động cơ thúc
đẩy chúng ta, vào cách chúng ta áp dụng kỹ thuật. Tôi nghĩ hiện nay
chúng ta đang chứng kiến một sự tăng gia kiến thức sâu rộng, nhưng người
ta lại không quan tâm phát triển lòng tốt, thiện tâm và tình thương yêu
đồng loại cho bằng quan tâm đến kiến thức.
Tuy vậy, tôi nghĩ rằng hiện nay
mọi sự đã rất rõ ràng. Con người không phải là sản phẩm của máy óc. cho
nên không mong gì có được hạnh phúc thật sự nếu chỉ tùy thuộc vào ngoại
cảnh. Dĩ nhiên, chúng ta cần có một tối thiểu tài sản vật chất, nhưng nó
không phải là nguyên nhân mang lại hạnh phúc. Những nguyên nhân thật sự
để được hài lòng mãn nguyện phải tìm trong nội tâm ta. Tôi nghĩ đều ấy
rất rõ.
Mặc dù khó giải thích tiêu này,
tôi xin cố gắng diễn tả ý nghĩa của lời giải quyết ấy. Trước hết phải
nhìn nhận hạnh phúc thể hiện trong tâm hồn chúng ta. Những kẻ chỉ suy
nghĩ bằng khoa học kỹ thuật, với chủ trương là có thể giải quyết và hoàn
tất mọi chuyện nhờ có tiến bộ, đều là cực đoan. Tôi phải nhìn nhận đâu
là giới hạn của một lối nhìn như vậy. Khởi đầu bằng cách định đường ranh
này khiến chúng ta khỏi phải ngỡ ngàng khi gặp những trở lực ngoại giới.
Theo ý tôi, khi gặp khó khăn chúng ta đừng nên quá gần mà quan sát chúng.
Ngược lại, hãy đứng xa ra một chút, nhìn với một tam hồn cởi mở hơn,
trong một bối cảnh bao quát hơn; khi ấy chúng ta sẽ tìm ra được giải
pháp dễ dàng hơn. Ví dụ chúng ta đang gặp vấn đề nan giải. Nếu cứ đứng
thật gần mà nhìn, ta sẽ thấy khổ đến không chịu nỗi, vì vậy cứ phải suy
gẫm toàn những mặt tiêu cực. Ngược lại, quan sát vấn đề từ một khoảng
cách, biểu lộ một cung cách thoải mái hơn, và xét vấn đề dưới những góc
độ khác nhau, thì giúp chúng ta tìm được những khía cạnh tích cực của
tình huống. Tôi thấy là cần phải kết hợp trí thông minh tự nhiên của mỗi
người với lòng can đảm, để tạo ra niềm tin thật sự. Kinh nghiệm riêng đã
dạy tôi rằng nhờ có thái độ này mà ta để đạt đến sự yên tĩnh của tâm hồn.
4. Các thính tri gia có thể có
biện pháp nào để cho người dân được sung sướng hơn?
Tôi nghĩ vai trò này không chỉ
giới hạn cho các chính trị gia mà thôi. Nó liên quan đến mọi người,
những nhà giáo dục, khoa học gia, những người thiết lập các lý thuyết
chính trị, các nhà tâm lý học, những người chuyên về khoa học tâm linh,
những nhà trí thức. Tóm lại, việc tìm kiếm những phương thức cho sự bình
an nội tâm là công việc của mỗi người. Ví dụ ngành y khoa ngày càng khám
phá thêm nhiêu tương quan giữa sự thanh thản tâm hồn và sự lành mạnh thể
xác. Đó là những công trình nghiên cứu đáng được phát triển thêm về
chiều sâu.
Tôi phải nói rằng, quý vị trong
hệ thống thông tin báo chí ở thời điểm này đóng vai trò rất quan trọng.
Hệ thống thông tin báo chí hiện nay thuộc về một thời đại tân tiến và
trong một phương diện, tôi tin ngành báo chí hành động như một nhà giáo
dục, như một nhân tố kích thích tâm hồn con người. Như vây quý vị có một
vai trò rất đặc biệt. Về điều này, tôi xin trình bày với quý vị một vài
ý kiến: Tôi có cảm tưởng là ngành báo chí thông tin chú ý quá nhiều đến
mặt xấu của những hoạt động của con người, khiến cho quần chúng có cảm
tưởng là bản tính con người hoàn toàn xấu. Khi nghĩ như thế, tự nhiên
người ta chán nản và thật sự có nguy cơ mất hết hy vọng. Loài người có
bao nhiêu chuyện để đau khổ, dù chỉ trong phạm vi hạn hẹp của gia đình.
Dù có muôn vàn vấn đề mà con người gặp phải, vẫn có một tiềm năng để
biến đổi: vẫn có thể làm cho hoàn cảnh đó tốt đẹp hơn, vì thương cảm và
từ bi ở trong bản tính của chúng ta. Bằng cách liên kết thông minh của
con người với một động cơ thúc đẩy tốt lành, chúng ta có thể thay đổi
cuộc đời của chúng ta, và cải tạo xã hội. Đối với tôi, đây là điều then
chốt. Vì vậy tôi nghĩ rằng khi trình bày những vấn đề có quan hệ đến con
nguồn thì quý vị nên trình bày một cách quân bình hơn. Dĩ nhiên tất cả
những mặt xấu này của cuộc đời cũng đều quan trọng, chúng cho báo chí
những chất liệu tốn nhưng cúng đừng quên đưa ra những mặt tốt của cuộc
đời, căn bản trên bản chất con người và trí thông minh của ta.
Gần đây, trong một số quốc gia
người ta bàn cãi nhiều về vai trò của báo chí. Có nên nói hoạch toẹt hết
mọi chuyện không? Phải nói cách nào? Chỗ nào trong đời tư, báo chí không
được đụng đến? Tôi có vài ý kiến về vấn đề này, nhất là đối với những
nhân vật lãnh đạo. Có trường hợp mà một số vị này không cư xử đúng đắn
trong cương vị của họ, không tỏ ra có nguyên tắc hay kỷ luật tự giác.
Trường hợp này tôi nghĩ rằng chỉ có báo chí mới có quyền năng kiểm điểm,
và đưa ra ánh sáng, những cung cách hành động như vậy; do đó, tôi ủng hộ
hành động của nhà báo và đánh giá cao khía cạnh lục lọi dò xét. nơi nào
cũng xen vào của họ. Không nên có khoảng cách chênh lệch giữa thể thống
bên ngoài và đời tư của một người lương thiện. Tôi nghĩ báo chí phải cho
công chúng thấy rằng một số khía cạnh hấp dẫn khác hẳn. Chính trong
chiều hướng đó mà tôi hơi khuynh về sự can thiệp vào đời tư của người
ta, nhưng không phải vì vậy mà quên rằng chủ đích chung của chúng ta là
phục vụ con người để kiện toàn xà hội. Đừng hành động sai lạc, do những
động cơ xấu thúc đẩy. Tôi tin là, nếu người ta không phơi trần hết thảy
những tệ nạn xã hội như nghiện thuốc, giết người, hãm hiếp và lạm dụng
trẻ em, thì những kẻ vô tội sẽ cứ hàng ngày chịu khổ. Nếu báo chí giải
thích rõ ràng, công chúng rốt cục phải chú ý và tìm ra cách giảm bớt khổ
đau.
Tôi cũng nghĩ rằng, khi nói đến
luân thường đạo lý thường thì người ta gắn liền với nó với những khái
niệm tôn giáo. Theo tôi, tách rời hai khái niệm luân lý và tôn giáo là
điều quan trọng. Tôn giáo, lẽ di nhiên giúp chúng ta hiểu được đạo đức
theo chiều sâu duy trì và phát triển nó, nhưng khi nói đến lòng vị tha
hay tình thương yêu đồng loại chẳng hạn, phải biết tha thứ đạo đức này
tự nó mà có. Không phụ thuộc vào tôn giáo, vì nó bắt nguồn từ bản tính
thâm sâu của con người, đó là lòng nhân và tình thương yêu.
5. Ngài có thể nói khái niệm
nghiệp tập thể, nghiệp chung của một quốc gia? Nghiệp chung này mô tả
cái gì ?
Nói về nghiệp chung của một quốc
gia là một đều dễ hiểu. Tuy nhiên, mặc dù sự chín muồi nghiệp quả của
những người trong cùng một nhóm được gánh chịu trong cùng một lúc, điều
này không có nghĩa là những nghiệp này được tích lũy trong cùng một thời
gian. Tôi không tin là những duyên của một nghiệp chung được tạo ra cùng
một lúc, mà chúng được tạo ra trong từng cá thể vào những thời đềm khác
nhau. Sức mạnh của những hành động này và nhiều yếu tố khác nữa có thể
tạo nên một sự nghiệp chung mà một nhóm người hay cả một nước phải gánh
chịu.
6. Những tội nhân chiến tranh
trong phần gương những xứ Âu Châu, Đông âu, và những quốc gia khác tại Á
Châu như Cam Bốt và Việt Nam đã không hề được xét xử, và có khi còn được
ân xá ngay cả trước khi được xét xử. Ngài nghĩ thế nào về việc này?
Thật đáng buồn, trong nhiều nước
vừa mới thoát khỏi chế độ đàn áp, người ta thường biểu lộ lòng
căm hờn và ý muốn trả thù trong
khi đáng lẽ phải biết tha
thứ và chấp nhận. Đây không phải là lúc trả thù và thanh toán trong
những nước đã được dân chủ này. Ngược lại, đây là lúc tái thiết quốc
gia, xã hội. Tôi đã bày tỏ điều này khi được viếng thăm một số trong
những nước đó.
Tôi rất quý trọng và ngưỡng mộ
những nghĩa cử của các tổ chức như cơ quan ân xá Quốc tế, họ làm việc
một cách chân thành, có hiệu năng và tích cực trong lĩnh vực vi phạm
nhân quyền.
7. Ngài nói đến sự giải giới nội
tại mà phải kèm theo giải giới ngoại tại. Xin Ngài nói rõ thêm giải giới
nội tại là gì trước thù hận của kẻ địch, trước lòng căm hận của chính
mình. Trong tác phẩm Les Voies du Coeur, Ngài cho thấy có thể thành lập
trong tương lai mộ đạo quân quốc tế. Vì Ngài chủ trương bất bạo động,
thì họ sẽ hoạt đóng cách nào đây? Họ sẽ được vũ trang không?
Ai cũng biết ràng khả năng chém
giết vẫn tồn tại chừng nào người ta còn vung gươm múa kiếm trong những
bang giao quốc tế, hay cả trong phạm vi mỗi quốc gia. Mặt khác, phải xét
lại vấn đề mua bán vũ khí vì tình thế hiện nay vừa khủng khiếp vừa vô
trách nhiệm. Chúng ta suy nghĩ rất nghiêm chỉnh đến vấn đề vũ trang mà,
một khi đã phân tích cặn kẽ, cho thấu rõ cơ chế quân đội là yếu tố chính
dẫn đến tình trạng suy thoái của tình trạng hiện nay, mà nạn khủng bố là
do vũ khí mà có. Vì vậy nguy cơ chiến tranh vẫn còn tồn tại ngày nào mà
những cơ chế quân đội vẫn còn, ở phe này cũng như phe kia. Thế nên, cần
phải dẹp bỏ quân đội, từ từ thôi. Dĩ nhiên, bắt đầu là giải giới nguyên
tử, tiếp theo loại bỏ khí giới hóa học và vũ khí vi trùng, cuối cùng dẹp
luôn vũ khí thông thường. Trước hết cần có sự bảo đảm quốc tế cho công
cuộc giải giới này, nó cũng kiểm soát việc mua bán vũ khí, mà một số
người đại diện là kẻ bất lương. Để giám sát việc giải giới này, có thể
đưa vào những lực lượng nho nhỏ giống như một loại cảnh sát quốc tế.
Liên Hiệp Quốc đã tham gia rất nhiều trong hành động quân sự để giải
phóng; chúng ta có thể một lực lượng đa phương hay quốc tế giám sát một
nước đã hoàn toàn giải giới, ý chính tôi muốn đưa ra, là những lực lượng
tập thể này sẽ hoạt động như những lực lượng bảo vệ trị an. Lúc ấy mọi
người sẽ thành Bồ tátm, chẳng cần vũ trang gì nữa! Nhưng tôi chắc là sẽ
khó thực hiện.
Một số người có lẽ không biết
giải giới nội tại là gì? Tôi cho rằng căm hận là kẻ thù độc địa nhất. Đó
là kẻ thù của sự thanh thản tâm hồn, tình hữu nghị và sự hòa hợp, ba yếu
tố then chốt cho một sự phát triển tích cực để thực hiện một thế giới
tốt đẹp hơn. Vậy phải tiết giảm hận thù và phát huy đức từ bi, lòng
thương cảm. Đó chính là điều mà tôi gọi là giải giới nội tại.
8. Giận và ghét khác nhau thế
nào?
Riêng tôi thường phân biệt hai
loại tâm lý vẫn đục này như sau. Ghét gắn liền với sự oán hận người
khác, không bao giờ có động lực là lòng xót thương. Vậy cần phải hủy
diệt nó hoàn toàn. Giận bộc lộ một phản ứng cảm xúc tức thì, mà trong
Mật tông, có thể sử dụng được để tu hành. Cũng có khi vì thương mà người
ta nổi giận. Ví dụ như để thúc giục kẻ khác phải tiến hành một hành động
khẩn trương.
9. Xin Ngài định nghĩa thế nào là
một kẻ thù ?
Khi thấy mình giận ai đến tím
mặt, thì biết ngay kẻ thù là gì. Chương bàn về lòng khoan dung và sự
kiên nhẫn trong Bồ tát hạnh của Shantideva định nghĩa kẻ thù là
người hăm dọa mạng sống ta hay bạn hữu ta, của cải ta hay của cải họ
v.v… Bạn của kẻ thù được xem như kẻ thù. Trong pháp môn chuyển hóa tư
tưởng (Tạng ngữ Iodjong) có mục quan sát tính bình đẳng giữa mình và
người, dẫn đến ý niệm không còn thù hay bạn. Không phải phủ nhận sự hiện
hữu của họ: kẻ thù và bạn vẫn còn đó; đúng hơn, sự tu tập này cho thấy
không có lý do nào để giận những kẻ xem mình là thù, hay quyến luyến một
số người vì họ là bạn hay bà con ta, nhưng từ một góc độ khác nhau, có
thề xem kẻ ấy là bạn, vì đã cho ta cơ hội để tập tính nhẫn nhục, khoan
dung. Nếu nhìn ở khía cạnh này thì anh ta không còn là kẻ thù nữa, mà
thật hữu ích và có lợi.
10. Một người Tây Tạng giết chết
một con trâu để nuôi sống gia đình có hành động tiêu cực không? Câu hỏi
cũng đặt ra nhu vậy đối với những người cận vệ, vì để bảo vệ tính mạng
cho Ngài, phải biết giết người?
Chúng ta phải biết hiểu những
trường hợp này như thế nào? Dĩ nhiên đây là những hành động tiêu cực.
Cường độ tạo nghiệp của mỗi hành động tùy thuộc vào nhiều yếu tố như ý
định thúc đẩy hành động, ngay chính hành động và suy nghĩ tiếp theo sau
hành động.
11. Trong lúc theo giáo lý nhà
Phật, làm sao sống trong nhũng biến cố tàn bạo như chiến tranh ?
Điều quan trọng hơn hết phải
tránh chém giết: tự cho mình có quyền cướp mạng sống của ai là một điều
dứt khoát không bao giờ chúng ta được nghĩ đến.
12. Không bám víu khác với thờ ơ
lãnh đạm như thế nào?
Rất khác: lãnh đạm là hoàn toàn
không quan tâm đến đối tượng đang đề cập, trong khi không bám víu hàm ý
còn có một liên hệ.
Để sáng tỏ ý tôi nói, hãy xét sự
bám víu là gì? Nó có hai loại: loại thứ nhất cần từ bỏ, đó là khi sự bát
víu phát sinh do tâm trí bị khuấy động vì nỗi thèm muốn hay do bất kỳ
động cơ tâm lý tiêu cực, loại thứ hai là tình cảm hướng đến những đối
tượng đáng thương khuynh hướng này không xuất phát từ những xúc động
tiêu cực thì phải được đào sâu và tăng trưởng.
Khi quán tưởng tính
Không (vacuité) chúng ta được thúc đẩy phải nới rộng sự bám giữ sai
lạc các hiện tượng và sự cố, tưởng rằng chúng có một sự hiện hữu chắc
chắn, biệt lập. Buông thả sự bám giữ sai lầm đều thiết yếu, nhưng vẫn
phải có ý thức phân biệt cái gì phải vun trồng cái gì nên từ bỏ, và cố
gắng phát huy tiềm năng của những đức tính lành mạnh và tích cực đồng
thời dẹp bỏ sức mạnh của những khuynh hướng tiêu cực và độc hại. Khả
năng phân biệt của ta vẫn còn nguyên vẹn. Trong cùng chiều hướng suy
nghĩ đó. Bồ tát phải hủy tận gốc sự kiêu ngạo, tự hào, Tính khiêm cung
tự nhiên đặt vị ấy ở sau mọi người. Tuy nhiên, điều này không thể ảnh
hưởng đến niềm tin vô song và lòng can đảm tuyệt vời của Bồ tát khi dấn
thân giải thoát chúng sinh khỏi khổ ách. Gương từ bi rộng lớn không lẫn
bám víu tiêu cực nào, chứng tỏ rằng trọng hạnh phúc người khác hơn hạnh
phúc riêng
Chính nhờ trí tuệ và sự tu tâm
luyện tính trong trong phương tiện khéo léo cũng như khả năng sáng tạo
của tâm hồn điều cần thiết mà ta có thể thấy sự khác biệt rất vi tế giữa
yếu tố nuôi dưỡng bản ngã, tức sự bám víu, và những đức tính tích cực
lợi tha. Chỉ có sự kết hợp phương tiện và trí tuệ mới phân biệt đúng
được. Tôi thường nói rằng nhắc đến cái "tôi" đương hàm một ý thức mạnh
mẽ về tự ngã. Một trong những hình thức biểu lộ bản ngã là không cần để
ý đến kẻ khác, không đếm xỉa đến hạnh phúc của họ, thậm chí có thể vì tư
lợi mà khai thác bất kỳ điều gì làm cho mình sung sướng. Thái độ tâm lý
là rất tiêu cực cần phải đánh đổ. Ngược lại một khía cạnh khác của cái "tôi"
có thể biểu thị bằng lòng tự tin rộng lớn, khiến ta có thể nói: "Mình có
thể hoàn tất điều này điều nọ. Mình có thể làm việc cho mọi người được
sung sướng. Mình sẽ đạt đến toàn giác (eveil parfait) để làm lợi cho
chúng sinh”. Cảm thức ấy thì đừng dẹp bỏ mà ngược lại, phát huy nó, tăng
cường nó! Trên con đường tu tập, tâm trí ta bề ngoài vẫn thảnh thơi,
thoải mái, nhưng tự thẳm sâu trong tâm hồn phải thật minh mẩn tỉnh giác,
luôn sử dụng một cách sáng suốt sự phản tỉnh và chú tâm.
-
Nguyễn Thị Phương Thanh dịch
-
(Lược theo Au de là des dogmes)
***