- Ái ngữ
- Cư sĩ Chính Trực
Lời
nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Tâm buồn chẳng nói lời nào,
Tâm vui lời nói ngọt ngào dễ thương.
Có thương yêu, bao nhiêu cũng được,
Hết thương rồi, nói ngược nói xuôi.
Trong cuộc sống
hằng ngày, để có thể hiểu nhau biết nhau, trao đổi tin tức, phổ biến
văn hóa, con người dùng ngôn ngữ, tức là: chữ viết và tiếng nói. Đôi
khi, không cùng chữ viết, cũng không cùng tiếng nói, nhưng con người cũng
có thể hiểu biết nhau qua dáng điệu, cử chỉ, nét mặt, thái độ, hay
giọng nói. Một vấn đề lớn đối với các gia đình người Việt sống
ở hải ngoại chính là: Vấn Đề Ngôn Ngữ. Đối với thế hệ trước,
tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ, cho nên rành rẽ rõ ràng, còn tiếng địa
phương thì không thông thạo. Đối với thế hệ sau, tiếng địa phương
thì thông thạo, tuy tiếng Việt cũng là tiếng mẹ đẻ, nhưng nói thì vấp
váp, gượng gạo, ngọng nghịu. Tại sao như vậy? Bởi vì thế hệ sau hấp
thụ văn hóa tây phương, tiếp xúc với xã hội bên ngoài nhiều hơn, còn
trong gia đình, thế hệ trước muốn tập nói tiếng địa phương với thế
hệ sau, cho nên thế hệ trước quên lửng chuyện dạy dỗ tiếng Việt cho
thế hệ sau, dù người mẹ đẻ là người Việt. Hai thế hệ nói hai thứ
tiếng khác nhau, tiếng Việt và tiếng địa phương, cho nên không thể
thông cảm nhau dễ dàng. Chuyện không cảm thông nhau thường đưa tới việc
đổ vỡ hạnh phúc gia đình, tức nhiên cuộc sống phiền não khổ đau, không
sao tránh khỏi được.
Hai người nói hai thứ tiếng khác
nhau, thực khó cảm thông nhau như vậy. Còn hai người cùng nói một thứ
tiếng thì sao, có dễ cảm thông nhau chăng, hoặc là ngược lại, có dễ
đụng chạm nhau chăng? Tại sao như vậy? Bởi vì, tuy cùng nói một thứ tiếng,
nhưng tùy theo lời nói, tùy theo giọng nói, hay tùy theo cách nói, hai người
có thể cảm thông nhau, hoặc là đụng chạm nhau. Lời nói có ảnh hưởng
rất nhiều đến sinh hoạt đời sống của mọi người trên thế gian này.
Dù quen biết trước, hay chưa quen biết, khi gặp mặt nhau, con người thường
hay: chào hỏi với nhau. Một lời chào hỏi, khéo léo lịch thiệp, vui vẻ
cởi mở, có thể khởi đầu, một mối quan hệ, tốt đẹp lâu dài. Có người
mở miệng nói, dù chỉ một lời, người nào cũng ưa, cũng thương cũng mến,
cũng có cảm tình, cũng tin tưởng được, cũng đều nghe theo. Cũng có người
mở miệng nói, dù có nói nhiều, cũng không ai tin, cũng không ai nghe, cũng
không ai ưa, cũng không ai thích. Có những lời nói đem lại sự mát dịu
trong tâm hồn người nghe. Người nghe có cảm giác như vừa uống được một
ngụm nước cam lồ tươi mát. Cũng có những lời nói khiến người nghe phải
đi xức dầu cù là, hoặc là, phải uống thuốc nhức đầu, có khi ngất xỉu,
hay là, nghỉ thở luôn!
* * *
Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ xét vấn đề lời nói,
qua giáo pháp của nhà Phật mà thôi. Trong giáo lý của đạo Phật, vấn đề
lời nói được đề cập đến trong Tứ Nhiếp Pháp, đó là "Ái Ngữ".
Tứ Nhiếp Pháp là pháp môn có công năng nhiếp phục nhân tâm, gồm có bốn
điều: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Chúng ta hãy xét qua: Thế
nào là "Ái Ngữ"? Ái ngữ chính là: lời nói dịu dàng, êm ái
ngọt ngào, dễ nghe dễ thương, phát xuất từ lòng từ bi hỷ xả, phát xuất
từ tâm thanh tịnh, phát xuất từ tấm lòng thương người như thể
thương thân. Ái ngữ không phải là lời nói đầu môi chót lưỡi, không
phải là lời nói hoa mỹ, không phải là lời nói tâng bốc khách sáo, cốt
sao cho đẹp lòng người nghe, một cách không thực, đôi khi hàm chứa dụng
ý bên trong. Ái ngữ có tác dụng đem lại an vui, bình yên thanh thản cho người
nghe. Ái ngữ có tác dụng an ủi vỗ về những tâm hồn nhiệt não, âu lo
sợ sệt. Bởi vậy, chúng ta biết lời nói, cũng như tiếng cười, có khi
gây được cảm tình tốt đẹp, cũng có khi gây nên ác cảm, oán thù giữa
con người với nhau. Chỉ cần lỡ một lời nói, có khi hư hỏng việc lớn.
Chỉ cần lỡ một lời nói, có khi bị vạ lây, bị thưa kiện, thậm chí,
bị tù tội, chỉ vì người nghe không vừa tai, cho nên đặt điều đi cáo
gian! Điều này cũng tùy người, tùy lúc, tùy tâm trạng, hay tùy cảm giác
của người nghe nữa. Trong sách có câu: "Bệnh tòng khẩu nhập. Họa
tòng khẩu xuất". Nghĩa là các bệnh, thường từ cửa miệng, nhập
vào cơ thể, gây nên tác hại. Tai họa xảy đến, thường do lời nói, từ
cửa miệng ra, gây nên tác hại.
Chúng ta biết rằng, ngoài danh và lợi,
trên thế gian này, con người thường hay, tranh chấp với nhau, chỉ vì lời
nói. Hai người nói chuyện, với nhau một lúc, không nhường nhịn nhau, không
nhượng bộ nhau, chắc chắn đưa tới, tranh chấp cãi vã. Người có trí
tuệ là người thực hiện được điều sau đây:
Lời nói chẳng động tâm ta.
Dù lời nói ngọt hay là đắng cay.
Người có trí tuệ là người không
bị lầm lẫn, không bị mê hoặc, vì những lời nói ngọt ngào, đầu môi
chót lưỡi, không bị bực bội vì những lời nói trực ngôn thẳng thắn.
Những lời nói đường mật ngọt ngào, chót lưỡi đầu môi, đôi khi dẫn
dắt chúng ta đến cạm bẩy không ngờ, đến chỗ tan nát hạnh phúc gia đình,
đến chỗ thân tàn ma dại, đến chỗ thân bại danh liệt, đến chỗ tán
gia bại sản, đến chỗ tiêu tan sự nghiệp, có khi chết chẳng kịp ngáp,
chẳng kịp hiểu tại sao! Những lời nói trực ngôn ngay thẳng, tuy không
khéo léo, nhưng thường giúp đỡ chúng ta tỉnh ngộ, thoát khỏi những cơn
mê lầm, không còn vướng vòng tà đạo! Khi tâm bình tĩnh thản nhiên trước
mọi hoàn cảnh, chúng ta mới có thể làm chủ được lời nói, kiểm soát
được hành động và chế ngự được tư tưởng của mình. Còn khi tâm loạn
động, chúng ta càng nói càng tức giận thêm, càng làm càng sai trái thêm,
càng suy nghĩ càng rối trí thêm. Bởi vậy cho nên, trong sách có câu:
Muốn nói bớt bảy còn ba.
Bớt hai còn một, mới là an vui.
Chư Tổ có dạy: "Nội cần
khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức". Nghĩa là bên
trong, chúng ta luôn luôn, chế ngự khắc phục, thúc liễm tâm niệm, lăng
xăng lộn xộn. Mỗi khi những niệm, lăng xăng lộn xộn, khởi lên trong
tâm, chúng ta liền biết, bỏ đi không theo. Mọi chuyện sẽ yên, an vui lợi
lạc. Lúc đó gọi là: "Bản tâm thanh tịnh". Còn thế nào
là: Tâm niệm lăng xăng? Đó là tâm niệm: phân biệt kỳ thị, tranh chấp
hơn thua, tự cao tự đại, tự đắc tự ái, tự phong tự mãn. Nói chung,
những niệm do tâm: chấp ngã và chấp pháp, đều là vọng niệm, lăng
xăng lộn xộn. Hiểu biết như vậy, chính là công phu, tu tập thực sự, của
người Phật Tử, tại gia xuất gia. Đối với bên ngoài, chúng ta luôn
luôn, giữ hạnh nhẫn nhịn, luôn luôn thực hành, hạnh nguyện lắng nghe,
không lời phê phán, không hề tranh cãi, dù là chuyện lớn, chuyện nhỏ cũng
vậy. Hiểu biết như vậy, chính là đức độ, tu tập thực sự, của người
Phật Tử, tại gia xuất gia. Người nào muốn có, công đức thực sự, phải
nên triệt để, thực hành lời dạy, của chư Tổ Sư, chứ không phải
là: đi chùa thiệt nhiều, cúng kiến thiệt nhiều, lễ lạy thiệt nhiều,
làm phước thiệt nhiều, tưởng rằng như vậy, được nhiều công đức,
phước đức hàng đầu. Thực chẳng phải đâu!
Trong sách có câu: Lời nói đổi
trắng thay đen.
Thiên đàng địa ngục bon chen lối
nào?
Trực ngôn tâm chẳng lao xao.
Giữ tâm thiền định, biết bao an
lành.
Người đời gọi mình: là Ngài là
Thầy, Cụ Ông Cụ Bà, Cô Bác Cậu Mợ, Chú Thím Dì Dượng, là gì chăng nữa,
thậm chí là "Thằng", thực cũng chẳng sao, người có lòng nào, tự
họ biết lấy, mình chẳng bận tâm, an nhiên tự tại, dại gì lại giận,
người dửng người dưng, không thân không thích, cũng chẳng mích lòng,
lòng vòng thêm mệt! Người đời thường nói: "Cái lưỡi không xương,
nhiều đường lắc léo". Nghĩa là: cái lưỡi của con người không
có xương, cho nên con người muốn nói kiểu nào, muốn nói cách nào, muốn
nói thế nào, tùy theo trường hợp, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo nhân cách
của mỗi người. Những người thường hay, nói ngược nói xuôi, không giữ
uy tín, không giữ tư cách, không giữ lời hứa, người ta mỉa mai: đó là
hạng người, trở mặt nuốt lời, như người đời trở bánh tráng! Trong
sách có câu: "Một người nói ngang, ba làng không cãi lại".
Nghĩa là: khi có một người, nói năng ngang tàng, bất kể lẽ phải, bướng
bỉnh cố chấp, đi khắp ba làng, chẳng ai đếm xỉa, chẳng ai thèm cãi,
chẳng ai ngu dại, phí công phí sức, phí cả thời gian, hơn thua với họ.
Chứ không phải: ba làng cãi không lại!
Ngày xưa có chuyện: Một người vô
minh, chưa hiểu Chánh Pháp, cho nên luôn luôn, buông lời chỉ trích, gièm
pha mạ lyﬠphỉ báng đủ điều. Cho đến ngày kia, nhờ đủ nhân duyên, bỗng
dưng hiểu biết, người đó ăn năn, hối hận vô cùng. Người đó nghĩ rằng:
chỉ còn có cách, cắt đứt vứt đi, cái lưỡi của mình, mới mong có thể,
chuộc lại lỗi lầm, quá sức to lớn, đã làm trước đây. May mắn lắm
thay, khi sắp thực hiện, ý định cắt lưỡi, người đó gặp lại, anh ruột
của mình, vốn là một vị, thiền sư đắc đạo. Người anh khuyên rằng:
Ngày ngày trước kia, vì không hiểu biết, đã dùng cái lưỡi, phỉ báng
Chánh Pháp, tạo tội tạo nghiệp. Giờ đây hiểu được, mọi sự mọi việc,
hãy dùng cái lưỡi, xiển dương Chánh Pháp, đem lại ích lợi, cho thực
nhiều người. Cũng một cái lưỡi, giúp người hại người, tùy theo tâm
tánh, của mỗi cá nhân: Con người thực ra, sống với tâm ma, hay là tâm
Phật?
Trong sách có câu: Tại mình thường
nói đâm hơi.
Làm sao tìm được người chơi với
mình.
Hoặc: Tại mình kênh kiệu điêu
ngoa.
Thì đừng trách móc người ta chơi
mình!
Nghĩa là: Bởi vì lời nói của
mình khó nghe, người đời thường gọi là nói đâm hơi, nói móc họng,
cho nên không có ai muốn kết bạn với mình, không có ai dám làm thân với
mình, không có ai dám tâm sự với mình. Tại sao như vậy? Bởi vì, sống
ở trên đời, đâu có ai thích, bị người khác chơi, bới móc đời tư,
bươi móc dòng họ, tổ tiên của mình, khai ra lý lịch, đưa lên mặt báo,
bàng dân thiên hạ, mọi người đều biết. Cũng vậy, nếu mình kênh kiệu
điêu ngoa, đốp chát thẳng thừng, chẳng ngưng chửi bới, lên mặt thầy
đời, khuyên người lương thiện, hiền lành dễ thương, còn mình thì
không, chơi người không ngừng, tưng bừng đăng báo, làm thơ lếu láo, nhắn
gửi chửi người, chắc chắn có ngày, người ta chơi lại, chết chẳng kịp
ngáp, chẳng kịp niệm thầm: Mô Phật, cứu con!
Lời nói đôi khi có những tác dụng
không thể lường trước được. Có những lời nói có thể đem lại an
vui, hạnh phúc cho người. Có những lời nói có thể đem lại sự ly tán,
tan nát hạnh phúc của người khác, đôi khi đổ vỡ hạnh phúc của chính
người nói nữa. Có những lời nói, làm cho người nghe, mỉm cười tươi
tắn, vui vẻ khỏe khoắn. Có những lời nói, khiến cho người nghe, nhăn mặt
nhíu mày, đau đầu nhức óc, lộn gan lộn ruột, nhói tim mất ngủ! Có những
lời nói có thể cứu người, cũng có những lời nói có thể hại người,
một cách dễ dàng. Thí dụ như là: Lời nói của vị, luật sư lương tâm,
khó kiếm khó tầm, chức nghiệp cao quí, có thể cứu người, thoát khỏi
tội oan, còn như mưu toan, khai gian lời nói, của một nhân chứng, làm cho
người khác, phải bị tù tội. Một vị bác sĩ, khéo lựa lời nói, khuyến
khích khuyên lơn, an ủi động viên, làm dịu tinh thần, giúp được bệnh
nhân, yên tâm dưỡng bệnh, chóng qua hiểm nghèo, sớm được bình phục. Bằng
như ngược lại, lời nói vô ý, có thể làm cho, bệnh nhân kích động, bệnh
tình trầm trọng, tắt thở tức thì.
Cũng như lời nói, của nhà ngoại
giao, hay các sứ thần, hoặc các sứ giả, có thể đem lại, hòa bình hai nước,
hoặc gây chiến tranh, binh lửa lan tràn, khắp cả mọi nơi. Nhiều khi lời
nói, của một con người, sức mạnh lớn hơn, cả một đoàn quân. Có người
thường nói năng ngọt ngào với người dưng bên ngoài, nhưng đối với những
người thân thích, bên trong gia đình, không bao giờ lời nói được ngọt
ngào như vậy. Con người thường thường, không ưa thích nhau, làm mích
lòng nhau, chỉ vì lời nói, ngay cả bạn thân, hay giữa vợ chồng, cha mẹ
con cái. Tuy nhiên đến khi, một người bất hạnh, chẳng may qua đời, người
khác kể lể, dài dòng văn tự, khóc lóc thảm thiết, nói lời tha thiết,
nhớ nhung da diết, dù có hối hận, cũng quá muộn màng! Có chuyện lạ đời,
trên thế gian này, chuyện đó chính là: con người thường chỉ, có thể
nói chuyện, ngọt ngào dễ thương, với người nằm xuống, chỉ còn nằm
yên, bất động để nghe, không còn đối đáp, cãi cọ được nữa, hoặc
là nói chuyện, hằng ngày hằng giờ, với tấm mộ bia, ở ngoài nghĩa địa.
Nhưng khi người đó, còn sống hiện tiền, con người chẳng thể, mở miệng
nói ra, nói được lời nào, cho thiệt dễ nghe, cho thiệt dễ thương! Tại
sao như vậy? Có lẽ bởi vì, con người thường không, sợ người còn sống,
nhưng hay sợ người, đã chết trở về, bóp cổ mình chăng?
Con người có thể, thương yêu súc
vật, chó mèo chim chuột, cho đến côn trùng, nhưng có lắm khi, không thể
chịu đựng, không thể nhịn được, những người chung quanh, cha mẹ anh
em, vợ chồng con cái, bạn bè gần xa, hàng xóm láng giềng, chỉ vì một
điều: Lời Nói Của Họ. Tại sao như vậy? Bởi vì súc vật, không hề biết
nghe, không nói tiếng người, cho nên không bị, con người mích lòng! Người
đời thường nói: Hai gà ghét nhau, chỉ vì tiếng gáy. Hai chó ghét nhau, chỉ
vì tiếng sủa. Hai cô ca sĩ, bao giờ thương nhau! Có câu chuyện của hai
con chim như sau: Một hôm, con chim cú vọ, sửa soạn dọn tổ, dời sang nơi
khác. Con chim bồ câu, thấy vậy hỏi thăm: Chẳng hay chị định, dọn tổ
đi đâu? Cú vọ đáp rằng: Con người ở đây, ác ôn quá xá, cứ hễ thấy
tôi, đậu ở nơi đâu, họ liền ném đá, hoặc lấy cây đập. Tôi không
chịu nổi, định dọn tổ đi, qua ở phương tây, hy vọng bên đó, dân
chúng hiền lành, không như ở đây. Bồ câu bèn nói: Ở chỗ hàng xóm,
thân tình lâu nay, nói thiệt chị nghe, đừng giận tôi nhé. Nếu chị
không sửa, tiếng kêu ghê rợn, đinh tai nhức óc, thực là khó nghe, dù chị
đến đâu, cũng bị bạc đãi!
Ở những xứ có nhiều sắc dân
khác nhau cùng chung sống. Người ta có thể không hiểu người khác nói
gì, vì bất đồng ngôn ngữ, nhưng người ta có thể đoán được người
khác muốn nói gì, qua sắc mặt, cách nói và giọng nói. Cho nên sắc mặt,
cách nói và giọng nói của chúng ta cũng đóng một vai trò quan trọng,
trong các cuộc giao thiệp, hay tiếp xúc hằng ngày. Giọng nói êm ái, lễ
độ tế nhị, ngọt ngào từ tốn, sắc mặt hiền hòa, dễ thương dễ mến,
nhiếp phục lòng người, hơn là giọng nói, ồn ồn ào ào, ồm ồm rào
rào, chanh chua khế chát, the thé khó nghe, mặt mày đỏ ké, khoa tay múa
chân. Lời nói hiền từ, hòa nhã thanh tao, thân thiết thành thật, ngay thẳng
rõ ràng, sáng suốt khôn khéo, cởi mở vui vẻ, rất là dễ dàng, cảm hóa
lòng người, có thể hướng dẫn, người vào chánh đạo. Trong sách có
câu:
Chim khôn hót tiếng thanh nhàn.
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ
nghe.
Khi thực hành hạnh bố thí, đồng
thời, chúng ta nên thực hành ái ngữ. Nghĩa là: Khi cho vật gì, giúp đỡ
việc gì, chúng ta nên làm, với cả tấm lòng, từ bi bình đẳng, và dùng
lời nói, êm ái dịu dàng, khuyên nhủ an ủi, khuyến khích động viên.
Chúng ta hiểu rằng: người cho nên cám ơn người nhận, chứ không mong cầu
người nhận nhớ ơn. Tại sao như vậy? Bởi vì, nhờ có người nhận,
người cho mới có cơ hội làm phước. Hiểu được như vậy, chúng ta đã
thực hành hạnh bố thí một cách thanh tịnh, bất cần vụ lợi, bất cầu
báo đáp, bất kể ơn nghĩa, trong kinh sách gọi là "Bố Thí Ba La Mật".
Trong sách có câu:
Miếng khi đói gói khi no.
Của tuy tơ tóc nghĩa so ngàn trùng.
Ơn nghĩa ngàn trùng đó, chẳng qua
do lời nói ái ngữ, khi đem cho một miếng vậy. Nói một cách khác, ơn
nghĩa tạo được từ cách đem cho, và, lời nói khi cho, chứ không phải
hoàn toàn do của đem cho. Sách cũng có câu: "Cách cho hơn của
cho", chính là nghĩa đó vậy.
Bằng như ngược lại, người nào
bố thí với tâm mong cầu sự đền đáp, hay trông đợi việc báo ơn, hoặc
luôn miệng kể lể chuyện ơn nghĩa đã làm, với nhiều người khác, người
đó chắc chắn sẽ nhận sự phủ phàng từ kẻ thọ ơn. Và việc làm phước
như vậy mất đi ý nghĩa cao đẹp. Phước báo nếu có, cũng rất hạn hẹp,
như tâm nhỏ hẹp, của người làm ơn. Người đời mỉa mai, như vậy gọi
là: Bố thí ba la làng, hay: Bố thí la ba làng. Nghĩa là: người đó bố
thí tiền bạc, hay đem của cải cho người khác, rồi la to lên cho cả ba
làng, làng trên hay xóm dưới, xóm giữa, đều biết. Nhiều khi không khéo
dùng lời nói, trong khi bố thí, thay vì được nhớ ơn, trái lại, người
cho bị thù oán, mà chẳng hề hay biết! Trong nhiều trường hợp, việc đó
xảy ra, ngay trong gia đình, giữa những người thân, ngay cả vợ chồng,
cha mẹ con cái, hay anh chị em!
Trong các gia đình, nếu không thông
cảm, vợ chồng xung khắc, chỉ vì lời nói, không ai nhịn ai, nên kiếm người
ngoài, mời về đãi tiệc, tiệc lớn tiệc nhỏ, có dịp chuyện trò, nhỏ
to đủ chuyện, trên trời dưới biển, thực phí thời gian, đáng lẽ dành
cho, tu tâm dưỡng tánh. Có những lời nói, trong các bửa tiệc, trà dư tửu
hậu, tác hại vô cùng, nguy hại khôn lường! Sách có câu: "Nhất
ngôn ký xuất, tứ mã nan truy". Nghĩa là một lời nói ra, bốn ngựa
khó đuổi theo kịp. Có những lời nói nhẹ tựa lông hồng, có những lời
nói nặng tựa núi non. Có những lời nói như vậy, nhưng thực không phải
vậy. Sửa đổi được lời nói, sửa đổi được giọng nói, sửa đổi
được cách nói, tức là chúng ta đã sửa đổi được tâm tánh, giảm bớt
được khẩu nghiệp.
Thực hành được "ái ngữ"
tức là tăng trưởng tâm Phật, tức là tâm từ bi hỷ xả. Thực hành được
"ái ngữ" tức là dẹp được tâm ma, như là: tâm tham lam, tâm sân
hận, tâm ganh ghét, tâm đố kyﬠtâm ganh tị, tâm hiềm khích, tâm tật đố,
tâm hơn thua, tâm ngã mạn, tâm khinh người, tâm khen mình. Thực hành được
"ái ngữ" tức là tu tập theo hạnh nguyện đại từ đại bi của
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, tầm thinh cứu khổ chúng sanh. Chúng sanh thường
đau khổ vì những lời nói của nhau. Cho nên thực hành được "ái ngữ"
tức là đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi người chung quanh, đem nước
cam lồ trong bình thanh tịnh của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, rưới vào những
tâm hồn đang nhiệt não, rót vào tai những âm thanh êm ái dịu dàng, có
công năng chuyển hóa những con người đang phiền muộn, những tâm hồn
đang phiền não khổ đau, thành những con người vui tươi, những tâm hồn
an lạc hạnh phúc.
Tất cả những thứ hạnh phúc
trên đời đều bắt đầu từ lời nói của chính chúng ta. Chúng ta khởi
đầu tất cả mọi sự mọi việc. Chúng ta sinh sự thì sự sẽ sinh. Chúng
ta hòa bình thì bình yên tự tại. Đừng mong người khác nói lời dễ
nghe, trong khi chính mình chưa làm được như vậy.
Tây phương có câu: "Nothing
will change if we do not change anything".
Các bậc cha mẹ, thường dùng ái
ngữ, tử tế dịu dàng, ngọt ngào dễ thương, để dễ cảm thông, cùng với
con cái. Nhưng cũng đôi khi, cha mẹ phải dùng, những lời cứng rắn,
nghiêm cấm khắt khe, không có bao che, để mà khuyên dạy, cho con nên người.
Như vậy đó cũng là một dạng khác của ái ngữ, thực hiện với tâm từ
bi của bậc Bồ Tát. Nói một cách khác, người không có lòng từ bi bác
ái, không thể nào có "ái ngữ" được. Thực hành được "ái
ngữ" tức là dùng lời nói để an ủi, trấn an những tâm hồn âu lo
sợ sệt. Đó là hạnh vô úy thí của Bồ Tát Quán Thế Âm. Muốn được
Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ, trước tiên chúng ta phải thực hiện theo
hạnh nguyện của Ngài. Chứ không phải chỉ van xin cầu khẩn mà được
toại nguyện đâu! Chúng ta thích nghe, lời nói thế nào, thì hãy nói ra, lời
nói thế ấy, cho người khác nghe.
* * *
Tóm lại, ái ngữ
là pháp môn rất thiết yếu, rất thực tế, rất thông dụng, cho bất cứ
ai, không riêng Phật Tử, trên thế gian này, muốn xây dựng được, cuộc
sống ý nghĩa, muốn được sống trong, an lạc hạnh phúc. Ái ngữ giúp con
người cải thiện tự thân. Con người do mê mờ nên hành vi bất chánh,
ngôn ngữ đảo điên, ý niệm tà vạy, chạy theo dục vọng, sống theo tà
đạo, làm chuyện bất lương. Trái lại, nếu con người biết thực hành
ái ngữ, chánh ngữ, và y nghĩa bất y ngữ, sẽ chuyển hóa được phiền não
khổ đau, kiến tạo được đời sống chân chánh ích lợi. Cổ nhơn có dạy:
"Điều ác thiên hạ nói về ta, đối với tâm hồn ta, cũng như lưỡi
cày đối với mặt đất. Lời nói ác cày xới tâm hồn ta, nhưng làm cho
tâm hồn ta thêm phì nhiêu". Chúng ta nên nhớ: các bậc thánh hiền,
kim cổ đông tây, thường bị lời nói, phê phán thị phi, thậm chí kết
án, gièm pha phỉ báng, tuy nhiên các ngài, nhân cách cao quý, bình tĩnh thản
nhiên, cho nên giữ được, bản tâm thanh tịnh.
Trong kinh sách có câu: "Nam
Mô Nhất Thiết Chúng Sanh Hoan Hỷ Kiến Bồ Tát". Nghĩa là: Người
nào muốn sống cuộc đời an lạc, không phiền não, chẳng khổ đau, như các
bậc Bồ Tát, hãy thực hành ái ngữ, chánh ngữ, và y nghĩa bất y ngữ, vào
trong đời sống hằng ngày, tất nhiên sẽ được mọi người hoan hỷ khi
gặp mặt. Trong nhà Phật, mỗi câu niệm hồng danh chư Phật, hoặc chư Bồ
Tát, như câu nói trên, đều có ý nghĩa dạy chúng ta một hạnh tu, một
pháp môn tu, một công phu tu tập, chứ không phải chỉ để chúng ta đọc
tụng rầm rầm, mà chẳng hiểu gì hết, cho nên chẳng thực hành được
trong đời sống hằng ngày, để đem lại an lạc và hạnh phúc. Ngày xưa,
một nhà hiền triết có bà vợ, thường ngày nói nhiều. Một hôm, bà vợ
bị bệnh, không nói chuyện được, nhà hiền triết than, hôm đó ông mất,
cơ hội thực hành, hạnh tu nhẫn nhịn, và hạnh lắng nghe.
Chư Tổ có dạy: Tu mà không học
là tu mù.
Học mà không tu là đãy sách.
Nghĩa là: Người phát tâm thực
hành việc tu tập, sửa đổi tâm tánh của mình, nhưng không chịu học hỏi
giáo lý, không chịu tìm hiểu Chánh Pháp, ai nói gì cũng nghe, ai bảo gì cũng
tin, người đó dễ bị dụ vào ngoại đạo, dễ bị lạc vào tà đạo, đúng
là mù quáng. Còn người nào chỉ biết lo nghiên cứu tìm tòi, học rộng
hiểu nhiều, không lo tu tâm dưỡng tánh, không chịu quán sát tự tâm, chỉ
lo phê bình chỉ trích người khác, chỉ thấy lỗi người, không thấy lỗi
mình, đúng là cái tủ, cái đãy, hay cái bị đựng sách mà thôi, chẳng
ích lợi gì cho ai cả. Thí dụ như có người suốt ngày đếm tiền ở nhà
băng của chủ, có người suốt ngày chăn trâu ngoài đồng cho chủ, chiều
về đến nhà, tiền không có, trâu cũng không!
Chẳng hạn như người, phát tâm tu
hành, nhận thấy nói nhiều, chỉ gây phiền não, gặp nhiều khổ đau, không
ích lợi gì, bèn thực hành theo, pháp tu tịnh khẩu, nhưng không chịu học,
kinh sách giáo lý, nhắm mắt nín thinh, bất cứ ai hỏi, bất cứ điều gì,
đều không trả lời, nhứt định ngậm miệng, không hề hé môi, dù nửa
lời thôi, cũng không chịu nói. Bên ngoài trông qua, có vẻ khá lắm, bên
trong rối rắm, nội tâm xáo trộn, bão táp tơi bời, tức giận cành hông.
Tại sao nông nổi? Bởi vì người đó, còn nghe biết hết, nhưng không nói
được, lại không chịu xả, chất chứa lâu ngày, kho tàng tâm thức, đầy
tràn ắp lẫm, những chuyện thị phi, những chuyện chánh tà, những chuyện
lớn nhỏ, đủ moi mọi thứ, có ngày ứ hự, không thể nhịn được, không
thèm tu nữa! Hành mà không học, đáng sợ như là: nọc độc chết người!
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/146-chinhtruc-aingu.htm