32 Tướng Tốt Của Bậc Đại Nhân
Thích Thông Huệ
Sau khi Thái tử
Tất-Đạt-Đa đản sinh, vua cha Tịnh-Phạn triệu tập các vị tinh thông tướng
số đến tiên đoán vận mệnh cho Thái tử. Các vị xem tướng xong, đồng tâu
lên rằng: “Thái tử có đủ 32 tướng tốt của một Bậc Đại nhân, thật hiếm có
trên đời. Đây là những dấu hiệu báo trước Ngài sẽ là Bậc vĩ nhân đệ nhất
trong thiên hạ. Nếu Ngài làm vua, sẽ là vị Chuyển luân Thánh vương; nếu
xuất gia tu hành, Ngài sẽ là Bậc Đại Giác Ngộ”.
Trong mùa an cư
cuối cùng, Đức Phật báo trước sẽ lên cung trời Đao-Lợi thuyết pháp cho
chư Thiên và Thánh mẫu Ma-Gia. Vua xứ Kosala là Pasennadi, do lòng kính
ngưỡng Đức Phật, xin phép được họa chân dung Ngài trước khi Ngài tạm rời
nhân gian. Được Đức Phật chấp thuận, nhà vua thỉnh Ngài thọ trai tại
hoàng cung; ở đây có 12 vị họa sư nổi tiếng cùng tề tựu để quan sát và
vẽ lại chân dung Đức Phật.
Tuy nhiên, sau
đó tất cả các họa sư đều quỳ xuống xin nhà vua tha tội, vì “Hình tướng
Đức Thế Tôn đẹp lạ lùng, chúng thần sững sờ chỉ ngắm nhìn suốt buổi mà
không vẽ được nét nào cả”. Đức Phật nghe nói thương tình, cho in bóng
mình lên nền nhà để các họa sư đồ họa lại. Đây là bức vẽ chân dung đầu
tiên của Đức Phật.
Về sau, nhà vua
lại truyền lệnh cho các thợ điêu khắc tài giỏi trong nước tạc tượng Đức
Phật theo mẫu vẽ ấy. Nhưng không người thợ nào dám nhận nhiệm vụ, vì
“Sắc tướng Đức Thế Tôn vạn lần cao quý, siêu tuyệt trần gian; nếu không
chuyển tải được những đức tướng ấy trên tượng thì e đắc tội với Ngài”.
Có một vị Thiên
nhân chuyên về kiến trúc tên Tỳ-Thủ Yết-Ma hóa thân làm thợ mộc, yết
kiến nhà vua xin nhận việc. Chỉ sau một ngày, vị Trời ấy đã tạc xong pho
tượng Đức Phật bằng gỗ trầm hương, cao 7 thước mộc, mặt và tay chân đều
màu vàng tía. Nhà vua vừa trông thấy bức tượng, phát sinh đức tin thanh
tịnh, chứng Nhu thuận nhẫn, bao nhiêu nghiệp chướng phiền não đều được
tiêu trừ (kinh Đại thừa công đức tạc tượng Phật - Đại chính Tân tu Đại
tạng kinh).
Các tài liệu
Phật học mô tả 32 tướng tốt của Đức Phật có đôi chỗ khác nhau, nhưng tựu
trung có thể kể ra như sau:
1- Đỉnh đầu có
nhục kế.
2- Tóc màu xanh đậm, xoăn thành vòng theo chiều bên phải.
3- Trán rộng và bằng phẳng.
4- Khoảng giữa hai chân mày có một sợi lông trắng mịn.
5-Mắt xanh biếc, mi dài như mi ngưu vương.
6- Có đủ 40 răng.
7- Răng nhỏ và đều khít.
8- Răng trơn láng, trắng trong như ngọc.
9- Chân răng rất sâu, không khuyết hở.
10- Lưỡi rộng và dài, có thể chạm đến chân tóc trên trán.
11- Nước trong cổ họng có vị ngọt thơm.
12- Quai hàm như hàm sư tử
13- Giọng nói trong ấm và vang xa như tiếng Phạm vương.
14- Thân hình thon cao.
15- Da mịn màng, màu như vàng ròng, bụi không thể bám vào.
16- Lông trên mình màu xanh và mềm mại, đều xoay tròn theo chiều bên
phải.
17- Mỗi lỗ chân lông chỉ có một sợi lông mọc.
18- Bảy chỗ bằng phẳng và đều đặn.
19- Nửa thân trên như thân sư tử.
20- Không có khuyết lõm giữa hai vai.
21- Hai tay buông thỏng dài đến đầu gối.
22- Đầu cánh tay trắng tròn.
23- Ngón tay thon dài.
24- Tay chân mềm mại.
25- Lòng bàn chân có đủ 1.000 xoáy trôn ốc.
26- Kẻ ngón chân có màng da lưới.
27- Âm tàng như mã vương.
28- Đùi như lộc vương.
29- Gót chân thon, tròn đẹp.
30- Mắt cá chân tròn, không lộ ra.
31- Mu bàn chân cao và đều đặn.
32- Lòng bàn chân bằng phẳng, có hình bánh xe.
Điểm qua 32
tướng tốt để chúng ta có thể nhận diện nhân dáng toàn mỹ của Đức Phật.
Thật ra, có một vài chi tiết khó hình dung nơi một con người thời nay,
như tướng lưỡi rộng dài quá mức hay màng da lưới ở kẻ ngón; hoặc một số
tướng tốt chỉ xuất hiện khi Đức Phật đã trưởng thành chứ không phải được
mô tả lúc Ngài đang ở tuổi sơ sinh, như tướng răng, giọng nói, thân
hình…
Tuy nhiên, chúng
ta không nên dùng ý thức phàm tình để xét đoán về một Bậc Thánh nhân, vì
đôi khi những chi tiết mô tả về Ngài có thể ẩn tàng một ý nghĩa sâu xa
nào đó. Ví dụ, tướng lưỡi rộng dài là kết quả bao nhiêu đời kiếp Ngài
không một lời nói hư dối; khối thịt vun trên đỉnh đầu (nhục kế) là tướng
của một người có trí tuệ tột đỉnh; lông trắng giữa hai chân mày (bạch
hào tướng quang) tượng trưng cho Trung đạo, lìa sự cố chấp hai bên; lòng
bàn chân có hình bánh xe biểu hiện một sứ mạng cao cả là lưu truyền
chánh pháp… Những tướng tốt hy hữu ấy đã minh chứng bao nhiêu công đức
tích lũy được trong vô lượng kiếp tu hành của một Bồ tát Nhất sanh bổ
xứ, chỉ còn một đời ở cõi Ta-bà là thành tựu Phật quả.
Thân tướng tốt
đẹp cũng là sự thị hiện của Ngài, do chìu theo sự ưa thích cái đẹp của
chúng sinh. Khi mới tiếp xúc lần đầu, chúng ta thường chú ý đến vẻ ngoài
của người đối diện, sau đó mới tìm hiểu về tính tình và đời sống nội
tâm. Đức Bổn Sư của chúng ta, với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp thật toàn mỹ
và phi phàm, đã khiến cho bất cứ ai, khi vừa gặp Ngài đều sinh lòng quý
kính. Đây là điều kiện thuận lợi để tiếp cận với người khác, sau đó Ngài
mới tùy duyên mà giáo hóa. Trong pháp hội của Đức Phật, được nhìn dung
mạo Ngài, nghe giọng nói Ngài trầm hùng như tiếng sóng biển, tiếng chim
Ca-lăng-tần-già, toàn thể đại chúng đều sinh lòng kính tín, tâm hoan hỷ
thanh tịnh lạ thường. Nhiều người đắc quả vị Hiền Thánh chỉ sau một lần
được diện kiến Đức Phật hoặc nghe Ngài thuyết pháp.
Nhưng thân tướng
đẹp đẽ vô song ấy, có phải không bao giờ đổi thay hoại diệt? Trong kinh
kể lại, một hôm Đức Phật ngồi sưởi ấm dưới nắng, Ngài A-Nan đến gần,
buồn rầu thưa rằng “Bạch Đức Thế Tôn, làn da ánh như vàng ròng của Người
nay còn đâu, chỉ có màu xám xịt nhăn nheo của tuổi già”. Đức Phật dạy:
“Này A-Nan, đây là sanh thân của Như-Lai, hữu hình ắt hữu hoại”.
Thân xác do tứ
đại hợp thành, đủ duyên thì hiện hữu, hết duyên lại trở về cát bụi. Vô
thường có tha ai bao giờ? Vô thường là quy luật tất yếu của cuộc sống,
nhưng cũng là điều kiện cần thiết cho sự tiến hóa của vũ trụ vạn loại.
Hoa nở rồi tàn, rụng xuống thành rác, từ rác có cây khác mọc lên, và hoa
lại nở, tạo thành vòng biến chuyển không dừng trụ. Sanh thân của Đức
Phật, dù đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp cũng do tứ đại duyên hợp tạm
có, tồn tại trên thế gian trong 80 năm và cũng chịu sự chi phối của luật
vô thường, cũng ở trong vòng biến chuyển của luân hồi sinh tử. Thế thì,
ý nghĩa cao cả của sự tu hành là Giác Ngộ - Giải Thoát phải được hiểu
như thế nào?
Kinh Phạm Võng
Trường Bộ tập I, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ-kheo, thân của Như-Lai
còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt.
Khi thân Như-Lai còn tồn tại, thì chư Thiên và loài người coù thể thấy
thân ấy. Khi thân hoại mạng chung, thì chư Thiên và loài người không thể
thấy được”. Động lực khiến tái sanh vào kiếp khác là phiền não tham sân
si đã bị chặt đứt thì dù sanh thân còn tồn tại nhưng đã thoát khỏi vòng
kiềm tỏa của luân hồi.
Chư Thiên và
loài người chỉ có thể thấy được sanh thân của Đức Phật, tức thân có 80
vẻ đẹp và 32 tướng tốt, thân có sinh ra, có bệnh tật, có già nua và có
hoại diệt. Nhưng khi sanh thân không còn nữa, thì mắt của Trời người
không thể thấy Như-Lai. Bởi vì Như-Lai chính là Pháp Thân vô tướng, là
Thật tướng thường trụ. Pháp thân vô tướng nên không bao giờ sinh diệt,
vì không có chỗ trụ nên thường hiện hữu khắp cõi Tam thiên, vắng lặng mà
chiếu soi, không thể dùng ý thức suy lường mà sẵn đủ nơi tất cả chúng
sanh.
Đức Bổn Sư đã
nhận ra và hằng sống với tánh giác sẵn đủ ấy nên Ngài là Phật; còn chúng
sanh do quên tánh giác, mãi đuổi theo trần cảnh, tạo nghiệp, nên vẫn còn
lang thang trong sáu nẻo luân hồi. Chư Phật thị hiện nơi đời cũng chỉ có
một mục đích duy nhất là chỉ cho chúng ta thấy và trực nhận tánh giác
nơi mình, từ đó gột rửa dần tập khí phiền não, cuối cùng thể nhập Pháp
thân. Đó là ý nghĩa của sự tu hành, cũng là bản hoài của chư Phật, Chư
Bồ tát.
Cuộc đời của Đức
Bổn Sư, từ lúc còn trên ngôi vị Thái tử đã không màng đến danh lợi hạnh
phúc thế gian, đến khi thành đạo vẫn vì chúng sanh giáo hóa suốt 45 năm
ròng, là một cuộc đời vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Ngài cũng là người,
nhưng là một người phi thường từ thể chất đến tinh thần, từ hình tướng
đến tâm linh, từ trí tuệ đến lòng từ bi ban rải bình đẳng đến chúng sanh
vạn loại.
Chỉ phác thảo về
những đặc điểm bên ngoài của Đức Phật, cũng đủ cho chúng ta phát khởi
lòng tôn kính đối với Ngài - Bậc giáo chủ vĩ đại, Bậc Tôn sư của Trời
người, như kinh Nikaya viết: “Một chúng sinh duy nhất, một con người phi
thường xuất hiện trong thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì hạnh
phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc
cho Chư Thiên và loài người!” Những người con Phật chúng ta, muốn làm
tròn chữ hiếu đối với Đức Bổn Sư, phải nguyện đời đời tinh tấn tu hành
theo lời Ngài chỉ dạy để cuối cùng, thành tựu quả vị Phật như Ngài!