Nguyễn Du đã chịu ảnh hưởng Phật giáo như
thế nào?
Đại Lãn
Viết
về cụ Nguyễn Du mà chúng ta không nói đến lòng thương vô hạn của cụ đối
với
chính mình đối với tha nhân, đối
với xã hội thì đó là một vấn đề thiếu sót; viết về Nguyễn Du mà không
nói đến Phật giáo thì đó cũng là một thiếu sót
quang trọng, vì toàn bộ sự
nghiệp văn thơ của cụ đều phát xuất từ hai quan điểm này để từ đó cụ gởi
gắm tâm sự của cụ lại cho người hậu thế. Vì vậy cho nên khi nghiên cứu
về văn thơ của cụ thì bắt buộc chúng ta phải biết về nhân sinh của chính
cụ và qua quan niệm khổ của Phật giáo. Theo giáo lý của đức Đạo sư thì
nền tảng căn bản của việc học Phật được đặt trên ba học Giới-Định-Tuệ,
cho nên Thiền định được coi như là một pháp môn tu học chung cho cả hai
thừa Đại và Tiểu trong việc hoàn thiện ba nghiệp thâ-khẩu-ý thanh tịnh
để chấm dứt khổ đau mà đức Đạo sư đã căn cứ vào những hiện tượng duyên
khởi-hiện hữu-vô thường-biến dịch của nhân sinh và vũ trụ mà xác nhận
rằng: “Thế gian là giả tạm, bất toàn, trống rỗng, là đau khổ”. Ngay đến
những trạng thái mà người đời cho rằng hạnh phúc an vui cũng luôn bị
luật vô thường chi phối nên chúng chỉ là những trạng thái có được giả
tạm không thật hữu, nên chúng cũng thuộc về đau khổ. Do đó, đau khổ bao
gồm tất cả mọi ý nghĩa được quan niệm có được phát xuất từ ba phương
diện: Khổ-khổ (Dukkha-dukkha), hoại-khổ (viparināma-dukkha), và hành-khổ
(samkhāra-dukkha) [ba phương diện này chúng tôi đã giải thích phẩn dẫn
nhập], bằng vào giải thoát khổ đau do ba nghiệp sinh ra, khi hành giả
đạt được giải thoát hoàn toàn khổ đau thì tự nhiên an lạc hạnh phúc hiển
bày.
Và theo cái học của Thiền thì gồm
có: Thiền Thế gian, và Thiền Tiểu thừa - Thiền Đại thừa (Như lai Thiền)
cuối cùng là Thiền của Tối thượng thừa (Tổ sư Thiền). Ba loại Thiền
trước được y cứ vào văn tự của kinh điển để học và thực tập, nhưng riêng
Tối thượng thừa Thiền thì không y cứ vào văn tự của kinh điển thông
thường mà chỉ tạm mượn những kinh nào khế họp với căn cơ bén nhạy tạo ra
những nghi tình bất hợp lý đối với thế trí biện thông của thế gian, cộng
với những duyên sống để khai mở những vướng mắc của vô minh khổ đau cho
hành giả mà thôi, nên Tổ sư Bồ-đề Đạt-ma đã chủ trương “Dĩ tâm truyền
tâm, bất lập văn tự.”
Ở đây Nguyễn Du tiên sinh cũng đã từng học Thiền và thực tập thiền qua
kinh Kim cương (một quyển Kinh mà Thiền tông Trung hoa mượn làm duyên,
để y cứ cho những người mới bước chân vào Tối thượng thừa Thiền thực tập
của Hoàng Mai ngũ tổ và, cũng nhờ Kinh Kim cương mà Tổ Huệ Năng thành vị
tổ sư thứ sáu của Thiền tông Trung hoa.
Nhưng vì sao tiên sinh đã từng thực tập Thiền bằng cách độc tụng tư duy
về kinh Kim cương hàng nghìn lần mà cũng vẫn chưa ngộ được chỗ rốt ráo
của kinh, trong khi chỉ qua cái nhìn lại “dưới chân đài phân kinh” của
Thái tử Lương Chiêu Minh xưa kia còn để lại, thì ngộ ra được cái bổn lai
diện mục rốt ráo của Kinh Kim Cương chính “Vô Tự” thị chân kinh (Tối
thượng thừa Thiền)? Thật ra ở đây cụ Tiên Điền, nếu trước đó đã không
độc tụng hàng nghìn lần kinh Kim Cương thì chưa chắc qua cái nhìn đó cụ
có thể ngộ ra được chỗ rốt ráo của kinh được! Nhưng chính nhờ đã huân
tập hàng nghìn lần về nghi tình “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm,
應無所住而生其心”
(nên sinh tâm mình vào nơi không có chỗ trụ). Vậy nơi nào là nơi không
có chỗ trụ? Đây chính là cái nghi tình được tạo ra bỡi thiền Công Án
hay Tham Thoại Đầu của Tổ sư Thiền mà cụ đã được huân tập kinh qua
đến mức vừa đầy; bây giờ chỉ cần giọt nước cuối cùng đổ vào nghi tình đó
thì cái nghi tình đó sẽ bùng vỡ. Ở đây chính cái nhìn lại “Dưới chân đài
phân kinh” là giọt nước cuối cùng để Tiên sinh ngộ ra được “Vô tự” chính
là chân kinh, cũng chính là không chỗ trụ. Giờ đây đích thị Nguyễn Du
tiên sinh đã trở thành một Thiền sư. Nhưng trước khi để trở thành một
Thiền sư thì Nguyễn Du tiên sinh trước đó cụ đã kinh qua những năm tháng
dài độc tụng tư duy, nghiền ngẫm về kinh Kim Cương, và trước đó nữa tuy
chúng ta không biết được cụ đã học tập những kinh sách nào được ghi lại
qua văn thơ, nhưng qua tư tưởng Phật giáo, mà cụ đã thể hiện trong văn
thơ để lại ngoài truyện Kiều ra, cho chúng ta thấy rằng Phật giáo Tiểu
thừa đã ăn sâu vào trong tiềm thức của cụ qua nhân quả báo ứng của mỗi
cá thể được thay thế bỡi mệnh Trời, thể hiện tư tưởng nhân duyên
sống của nhân sinh, qua đó chúng bị luật vô thường luôn chi phối đổi
thay. Mệnh Trời ở trong truyện Kiều chỉ là một tiền đề được cụ nêu lên
để đại diện cho một quan niệm của Nho giáo, bằng vào nhân bản tính qua
tác nhân tạo nghiệp của con người theo luật tắc nhân quả báo ứng của
Phật giáo mà phủ định đi tính siêu hình Định mệnh hay Thiên mệnh của Nho
giáo, điều này nếu không muốn nói là điều sai lầm của Nho giáo mà cụ
nhìn ra được. (việc này chúng tôi sẽ bàn kỹ qua nghiên cứu truyện Kiều).
1/ NGUYỄN DU VÀ
CUỘC ĐỜI.
Qua tiểu sử của cụ, ngoại trừ mười
năm của thời thơ ấu an ổn sống trong vòng tay của mẹ và gia đình tại
Thăng Long và quê nhà
Tiên Điền, Hà Tĩnh; nhưng
sau đó những biến cố cứ mãi dồn dập đổ lên đầu cậu bé Nguyễn Du: mười
tuổi cha mất, mười hai tuổi mẹ lại qua đời không gì bất hạnh và đoạn
trường hơn là làm đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ vào cái tuổi đang còn ham
chơi, đang cần chỗ nương tựa … và cũng từ đó bắt đầu cụ nếm mùi thăng
trầm khổ ải tủi nhục trong nương nhờ ở tạm từ nơi này qua nơi khác và,
cũng luôn tùy thuộc vào sự thăng trầm của những người thân. Việc đổi
thay triều đại, việc lên voi xuống chó chỉ trong tích tắc và, những hậu
quả đầy khổ đau tất yếu theo sau qua chánh báo (cá nhân) cùng y báo (gia
đình-xã hội), đã nói lên được tính vô thường khổ đau luôn hiện hữu qua
cuộc sống nhân sinh và riêng cá nhân cụ. Hơn bốn mươi ba năm còn lại
trên cõi đời, trong khoảng thời gian này, nhất là mười năm giang hồ cát
bụi, sống xa mái ấm gia đình lúc nào cụ cũng mang một nỗi buồn đau rộng
lớn, thương mình, thương những người thân, thương cho những đồng loại
phải chịu đày đọa khổ cực. Cửa nhà tan nát đổi thay trong kiếp người bên
cạnh những đổi thay của ngoại cảnh thiên nhiên, thời thế loạn lạc chia
ly, kế sinh nhai mịt mờ phía trước, thân phận ăn đậu ở nhờ tủi cực khôn
nguôi, nỗi lo lắng luôn dằn vặt trong nếp tư duy suy nghĩ, đến nỗi mới
ba mươi tuổi trên đầu mà tóc trắng bạc phơ, tư tưởng muốn sống nơi vắng
vẻ vô sự cũng bắt đầu xuất hiện:
“… Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán
vân.”
何
能
落
髮
歸
林
去
臥
聽
松
風
響
半
雲
(Tự thán II)**
Dich:
… Làm sao xuống tóc về rừng ẩn,
Nằm nghe tùng hát gió đưa mây.”
Tư tưởng muốn xuống tóc vào rừng ở
ẩn làm một người vô sự trước cuộc sống là một dấu hiệu tự quy hướng vế
chính mình để dọn đường cho việc nghiên cứu Phật pháp và thực hành độc
kinh Phật, trở thành một hành giả tu tập thiền sau này của cụ. Tư tưởng
này xuất hiện trong khoảng thời gian mười năm lưu lạc giang hồ cát bụi
đã hình thành qua những kinh nghiệm sống, kinh qua trong những đắng cay
khổ nhục của cuộc sống lưu đày rày đây mai đó của một thân lữ thứ trên
quê hương rộng mà không có nhà, có thể đây là thời gian từ năm
1786-1795. Sau mười năm lưu lạc giang hồ cụ đã trở về sống với núi rừng
dưới chân núi Hồng Lĩnh bên dòng Lam giang và, cuối cùng cũng không
tránh được phải ra làm quan với một thái độ bất đắc dĩ, để từ đó cụ ghi
lại cuộc đời mình qua những vần thơ chữ Hán đầy thương đau và buồn chán,
nghiệt ngã cho chính mình và tha nhân cùng xã hội. Những hình ảnh cụ ghi
lại qua thơ văn không ngoài cái quan niệm vô thường-khổ-không của Phật
giáo như trên chúng tôi đã trình bày đối với cuộc đời qua khổ-khổ, hoại
khổ, hành khổ, đầy ngậm ngùi đớn đau, đầy xúc động trong một cái nhìn
sâu xa từ hiện tượng đến bản chất của chúng. Cái nhìn tận căn đẽ này
chính là cái nhìn chánh kiến của Phật giáo, từ mê qua ngộ. Khi là mê thì
các pháp trở thành pháp thế gian, pháp hữu lậu, pháp khổ đau; còn khi
chúng ta ngộ ra rồi thì các pháp này trở thành pháp xuất thế gian, pháp
vô lậu, pháp an vui giải thoát.
Từ một cậu bé tuổi vừa lên năm đã
theo gia đình về quê nội tại Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh dưới núi Hồng
Lĩnh, cạnh sông Lam, khi cha mình cáo lão từ quan về quê vào năm Tân mão
1771.
Đây là dấu hiệu mở màn của bước chân đầu cho những bước phong trần khổ
ải sau này của cụ. Sau khi cậu bé Nguyễn Du theo cha và gia đình về quê
thì, năm năm sau người cha mất đi và, tiếp hai năm nữa là mất luôn cả
người mẹ thân yêu. Bây giờ cậu bé Nguyễn Du thật sự đã trở thành trẻ mồ
côi cả cha lẫn mẹ; mới mười hai tuổi đầu mà cậu bé phải chịu một nỗi mất
mát đớn đau đoạn trường đến thế thì cuộc đời của cậu sẽ ra sao sau này?
Đây là những kí ức được Nguyễn Du tiên sinh ghi lại khi nhớ lại ngày mới
bước chân về lại làng quê nội trên bến Giang Đình cùng cha mình và gia
đình, trong đó có cậu bé Nguyễn Du lúc 5 tuổi và, từ đó cho đến những
năm biến động sau này cho cả gia đình và cá nhân cậu bé. Những hình ảnh
đó và những biến động trong cuộc sống của gia đình sau này được cụ ghi
lại một cách tổng quát, nhưng chúng nói lên được cái quan niệm vô
thường-khổ đau của đạo Phật luôn hiện hữu trong cuộc sống và, chính cụ
là người đã trải qua và kinh nghiệm trong cuộc sống của chính mình, của
gia đình, của xã hội qua bài thơ Giang Đình hữu cảm:
“Ức tích ngô ông tạ lão thì,
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi.
Tiên chu kích thủy thần long
đấu,
Bảo cái phù không thụy hạc phi.
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm
sự,
Cận nhật trường an đại dĩ phi.”
憶
昔
吾
翁
謝
老
時
飄
飄
蒲
駟
此
江
湄
仙
舟
激
水
神
龍
鬥
寶
蓋
浮
空
瑞
鶴
飛
一
自
衣
裳
無
覓
處
兩
隄
煙
草
不
勝
悲
百
年
多
少
傷
心
事
近
日
長
安
大
已
非
(Giang Đình hữu cảm)
Dịch:
Nhớ lúc xưa, cha ta cáo lão,
Tấp nập ngựa xe bến sông này.
Thuyền tiên rẽ nước rồng giao
đấu,
Lọng quý trên không hạc gieo
lành.
Từ khi xiêm áo không tìm thấy,
Khói cỏ đôi bờ chịu bi
thương.
Cận nhật kinh thành nhiều
khác lạ,
Trăm năm nhiều ít chuyện
thương tâm!
Qua bài thơ này Nguyễn Du tiên
sinh đã ghi lại những kí ức những cảnh tượng đã xảy ra khi cha cáo lão
từ quan về làng, khi mình còn là một cậu bé vừa lên năm nào ngựa xe trên
bến dưới thuyền, cờ lọng quý che phủ rợp trời cho đến khi áo xiêm lộng
lẫy không còn tìm thấy nữa và, những biến động gia đình xảy ra sau đó;
mọi việc vô thường đều đổi thay một cách nhanh chóng, từ hình thức trạng
thái tâm lý này đổi sang hính thức trạng thái tâm lý khác. Ngay đến khói
cỏ bên đôi bờ đê không còn xanh nữa mà đã theo lòng người bi thương
không kém và, những biến động khác thường nơi kinh đô cũng thay đổi.
Lòng người thay đổi, thế sự đổi thay. Từ những thay đổi này: nếu là
lìa xa những người chúng ta thương yêu quí mến
như cha mẹ, anh chị em, bà con
quyến thuộc bạn bè và,
những hoàn cảnh yêu thích của ta (thuộc
về ái biệt ly); cùng những
gì mà chúng ta mong muốn đạt được:
như mong cùng chung sống
với nhau, không chia lìa ngăn cách,
nhưng chúng không thuận tình với
mong ước của chúng ta (thuộc
về cầu bất đắc)
thì, tất cả những điều đó mang đến cho cá nhân Nguyễn Du tiên sinh và cả
cho chúng ta những đều đau khổ thương tâm hết.
Trên là những nét chấm phá về
cuộc đời long đong chìm nổi khổ đau mà Nguyễn Du tiên sinh đã kinh qua
và nhìn thấy ngay trong cuộc sống của chính mình và tha nhơn trong xã
hội. Trước hết cá nhân tiên sinh đối với với gia đình anh em họ hàng
thân thích và, nơi quê hương cố chủ; vì biến cố gia đình: cha mẹ mất sớm
sau đó mang đến tình trạng gia đình ly tán, thậm chí đến nơi ở cũng
không còn nữa. Ngay bản thân của Nguyễn Du tiên sinh phải cậy nhờ vào
anh em cùng những thân nhân khác mà sống lay lất qua ngày. Thời gian ly
tán này (ái biệt ly) là một thời gian tạo ra những biến động về tâm lý
cho cậu bé Nguyễn Du, một cảm thức đau khổ về nỗi chia ly và một mặc cảm
ăn nhờ ở đậu sinh ra đau buồn và hận cho chính thân mình không làm gì
được trong khi đầu đã bạc mà thời gian cứ qua đi:
“… Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ
tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên
…”
鴻
嶺
無
家
兄
弟
散
白
頭
多
恨
歲
時
遷
(Quỳnh Hải nguyên tiêu)
Dịch:
… Hồng Lĩnh không nhà anh em
vắng,
Bạc đầu hận lắm tháng năm
qua…
hay:
“ … Cố hương đệ muội âm hao
tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.”
故
鄉
弟
妹
音
耗
絕
不
見
平
安
一
紙
書
(Sơn cư mạn hứng)*
Dịch:
… Đệ muội quê nhà bặt âm tín,
Thư báo bình an chẳng thấy
nào!
Từ ly tán cửa nhà, anh em mỗi
người mỗi ngả theo sự thăng trầm của chánh báo và y báo, vì vậy tin tức
quê nhà và cả anh em cũng bặt vô âm tín. Đây là một thứ tình cảm mong
muốn được tin nhau, được gặp lại nhau mà không được nên mang bộ mặt “Cầu
bất đắc”, thì sẽ sinh ra khổ đau, từ đó:
“ … Nhất phiến hương tâm thiềm
ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thinh
sơ…”
一
片
鄉
心
蟾
影
下
經
年
別
淚
雁
聲
初
(Sơn cư mạn hứng)**
Dịch:
… Bao năm lệ biệt đầu tiếng
nhạn
Một tấm lòng quê nhớ dưới
trăng…
Hay:
“ … Ky lữ đa niên đăng hạ lệ,
Gia hương thiên lý nguyệt trung
tâm…”
羈
旅
多
年
燈
下
淚
家
鄉
千
里
月
中
心
(Xuân dạ)**
Dịch:
… Bao năm làm khách đèn chong
lệ,
Nghìn dặm quê nhà trăng dõi
tâm …
Lệ nhỏ dưới đèn, dưới trăng biểu
hiện cho hình ảnh cụ Nguyễn Du đang là người lữ khách sống nương nơi quê
người, một thân một mình cô độc vào những lúc nhớ nhà, nhớ quê, nhớ
người thân mà không được toại nguyện trong việc gặp lại nên phải âm thầm
chịu đựng nỗi dày vò thương nhớ khổ đau. Nó là hình ảnh giải tỏa nỗi nhớ
nhung khổ nhục qua giọt lệ âm thầm rơi dưới đèn dưới trăng; chỉ có đèn
và trăng là vật chứng giám nỗi niềm riêng tư cho lữ khách. Cho dù cụ lúc
nào cũng nghĩ nhớ đến quê nhà, nhưng không có cách nào để giải quyết nỗi
nhớ thương đó nên đành chấp nhận nó như chấp nhận nỗi bất hạnh của chính
mình:
“… Hành nhân hồi thủ xứ,
Vô ná cố hương sầu.”
行
人
回
首
處
無
那
故
鄉
愁
(Tái du Tam Điệp sơn)**
Dịch:
“… Người đi quay đầu nhìn quê
cũ,
Đành vậy! thương sầu cố hương
thôi.”
Đành chấp nhận thân tàn xin gởi
quê người, vì thân xác này trở thành trở ngại cho việc đi đứng trở về
thăm quê, nhưng hồn người, tư tưởng người không phải là vật có chất ngại
nên tự do tự tại trong việc đi về thăm viếng cố hương. Đây cũng là một
hình thức để an ủi và chia sẻ làm vơi đi nỗi thương nhớ vì xa quê:
“… Đỗ vũ nhât thinh xuân khứ hỉ,
Hồn hề quy lai bi cố hương.”
杜
宇
一
聲
春
去
矣
魂
兮
歸
來
悲
故
鄉
(Ngẫu thư công quán bích I)**
Dịch:
… Một tiếng cuốc kêu xuân đã
qua,
Hồn ơi về lại, thương cố
hương.”
Và cứ như vậy nỗi thương nhớ quê
nhà cứ dày vò tâm hồn và thân xác cụ như vậy là mười năm trường, vẫn là
kẻ khách lữ phong trần tha phương cầu thực, sống bám nhờ vào người,
trong khi trên đầu tóc bạc lại bạc thêm:
“Thập tải phong trần khứ quốc xa,
Tiêu tiêu bạch phát ký nhân
gia…”
十
載
風
塵
去
國
賒
蕭
蕭
白
髮
寄
人
家
(U cư II)**
Dịch:
Mười năm gió bụi quê xa cách,
Tóc bạc phất phơ cậy nhà
người…”
Mười năm gió bụi khổ đau thương
nhớ cũng đủ đề cho cụ nhìn rõ ra được chân tướng của cuộc đời qua khía
cạnh “ái biệt ly” là khổ, “cầu bất đắc” là khổ. Đây chỉ mới là hai khía
cạnh của tám khía cạnh khổ theo đức Đạo sư đã dạy. Trong thời gian mười
năm giang hồ cát bụi và, những năm còn lại trên cõi đời cụ còn có những
nỗi khổ khác nữa được thể hiện qua trong cuộc sống như: Sống, già, bệnh,
tử,
oán thù đối mặt nhau, năm uẩn không đều hòa. Đây là những hiện tượng tất
yếu phải kinh qua của đời người cho bất cứ một cá nhân nào hiện hữu thì
phải bước qua và, chúng cũng trở thành những nguyên nhân đưa đến những
kết quả khổ đau khác trong cuộc đời mà cá nhân cụ và mọi người phải gánh
chịu: Hoàn cảnh loạn lạc của chiến tranh cũng đưa đến chia lìa chết chóc
người thân, tan nát nhà cửa về gia đình cũng như xã hội về măt kinh tế,
chúng là hậu quả của “Oán tắng hội” sinh ra đau khổ đổ lệ u hoài cho
kiếp người;
“… Tang tử binh tiền thiên lý lệ,
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư
Ngư long lãnh lạc nhàn thu da,
Bách chủng u hoài vị nhất sư.”
桑
梓
乒
前
千
里
淚
親
朋
燈
下
數
行
書
魚
龍
冷
落
閒
秋
夜
百
種
幽
懷
未
一
攄
(Bát muộn)**
Dịch:
… Bà con dưới đèn vài tin
nhắn,
Quê nhà binh lửa, lệ rơi xa
Đêm thu tịch mịch cá rồng
lặng
Trăm mối u hoài một chưa
vơi.”
Ai trong chúng ta không lo không
sợ cho những người thân yêu của mình trước cơn binh lửa nơi quê nhà, khi
chúng ta từ nghìn dặm xa không giúp gì được cho họ, chỉ biết cầu nguyện
và dùng nước mắt của mình để tạm vơi đi niềm đau khổ đang dày vò; trong
khi đó cụ ở xa quê cũng phải kiên dè và sợ sệt lẫn nhau khi ở quê người.
“… Dị hương dưỡng chuyết sơ
phòng tục,
Loạn thế toàn sinh cửu úy nhơn
…”
異
鄉
養
拙
初
防
俗
亂
世
全
生
久
畏
人
(U cư I)**
Dịch:
… Quê người tỏ vụng phòng thế
tục,
Đời loạn luôn sanh sợ mọi
người…”
Đây là một kế sống an toàn dành
cho những nạn nhân tha hương của thời thế loạn lạc, kẽo không vô tình sẽ
làm đối tượng cho mọi sự đối đầu thù địch nghi ngờ. Hay chiến tranh loạn
lạc cũng có thể đưa người về cõi chết hay tù tội, điều đó chúng ta không
thể nào lường trước được. Ngay bản thân cụ Tiên điền Nguyễn Du cũng là
nạn nhân của tù tội do oán ghét chế độ Tây sơn đang hiện hữu trước mắt
cụ vào lúc bấy giờ mà ra:
“ … Tứ hải phong trần gia quốc
lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm
…”
四
海
風
塵
家
國
淚
十
旬
牢
獄
死
生
心
(Mỵ trung mạn hứng)**
dịch:
Gió bụi khởi khắp nơi, lệ
nước nhà,
Lao ngục mười tuần, lòng lo
sống chết …”
Chỉ có ngục tù Nguyễn Du tiên
sinh mới có đủ thời gian để ngồi tư duy suy nghĩ về nỗi sống chết. Con
người thì ai cũng có tâm lý ham sống sợ chết, đó là một thứ tâm lý bình
thường, nhưng đối với cụ vì một chút tâm sự không biết ngõ cùng ai, vì
nó sâu thẳm như dòng Quế giang dưới chân núi Hồng Lĩnh, đó chính là nỗi
khổ tâm của cụ:
“… Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ,
Hồng sơn sơn hạ Quế giang thâm.”
我
有
寸
心
無
與
語
鴻
山
山
下
桂
江
深
(Mỵ trung mạn hứng)**
Dịch:
Ta có tấc lòng không biết bày tỏ
cùng ai,
Vì nó sâu thẳm như sông Lam dưới
núi Hồng.
Tấc lòng sâu thẳm như thế nào mà
không biết đem nó ra để bày tỏ cùng ai? Cái sâu thẳm ở đây vì nguy hiểm
khó nói ra, hay là cái sâu thẳm không ai dò biết được như đáy dòng sâu
Lam dưới núi Hồng? Ở đây đối với cụ Nguyễn Du chúng ta có thể hiểu theo
nghĩa nào cũng được, vì hiện thực một nghĩa và cũng có thế: “Bất tri tam
bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.” Đó là những nỗi đau của
riêng cá nhân cụ Nguyễn Du; nhưng cũng có thể là nỗi đau chung của mọi
người qua kiếp người. Thật ra cuộc đời đâu chỉ giới hạn trong những
trạng huống có thể gây ra đau khổ như vậy đâu (nhơn tai), mà còn nữa:
Nào là cái đau khổ vỉ thiên nhiên (thiên tai) có thể ập đến cho chúng ta
bất cử giờ phút nào:
“… Cố hương
hạn cửu phương nông,
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng …”
故
鄉
亢
旱
久
妨
農
十
口
孩
兒
菜
色
同
(Ngẫu hứng IV)**
Dịch:
… Cố hương hạn hán hại nhà nông,
Mười đứa con thơ mặt xanh rờn…
Một thân một mình nơi tha hương đất
khách, nhưng cụ vẫn canh cánh bên lòng về mười đứa con thơ tại quê nhà
lâm vào thiên tai hạn hán mất mùa, không đủ cái ăn cái mặc,
thân thể xanh như lá rau, không sắc tố hồng cầu do thiếu ăn. Và có gì
đau khổ lo lắng hơn khi thân đang mang bệnh nặng nằm liệt giường, còn
phải lo cái ăn cho mười miệng trẻ đang đói chờ ăn từ nơi quê nhà đang
réo gọi nữa!
“… Thập khẩu đề cơ hoành lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh đế thành động
…”
十
口
啼
饑
橫
嶺
北
一
身
臥
病
帝
城
東
(Ngẫu đề)**
Dịch:
… Mười miệng đòi ăn, bắc hoành
sơn,
Một thân nằm bệnh, đông kinh
thành …
Một thân một mình nơi đất khách lại
bị bệnh, người thân không có, bạn bè mới nơi ở cũng không nhiều nên đành
âm thầm chịu đựng với con bệnh cũ dằn dai, cô đơn buồn khổ trong những
ngày xuân:
“Trường đồ nhựt mộ tân du thiểu,
Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa…”
長
途
日
暮
新
遊
少
一
室
春
寒
舊
病
多
(U cư II)**
Dịch:
Đường dài chiều tối, bạn mới ít,
Xuân lạnh một nhà bệnh cũ mang…
Trong khi sống nơi đất khách quê
người thân thì nhiều bệnh tật, tâm thì lúc nào cũng buồn bực, nhưng khi
cụ đã về lại quê nhà rồi mà bệnh tật càng ngày càng tăng chứ không giảm
và nổi buồn đau cũng theo đó mà tăng thêm, càng ngày bệnh càng trầm
trọng hơn:
“Đa bệnh đa sầu khí bất thư,
Thập tuần khốn ngọa Quế giang cư …”
多
病
多
愁
氣
不
舒
十
旬
困
臥
桂
江
居
(Ngọa bệnh I)**
Dịch:
Mười tuần nằm khổ bên sông Quế
Nhiều bệnh nhiều sầu khí chẳng
thông…
Không có buồn nào bằng cái buồn
người bị bệnh nặng mà không người chăm sóc hỏi han và, như vậy bệnh càng
nặng hơn. Nhiều lúc buồn quá cụ Nguyễn Du phải nghĩ đến làm sao tìm loại
thuốc tiên nào để cụ uống cho mau lành bệnh, hoặc xin thấy được ánh sáng
vi diệu hiển hiện chiếu xuống cõi trần gian phá tan màng u ám cho nhân
loại được nhờ:
“… Thập niên túc tật vô nhân vấn,
Cửu chuyển hoàn đan hà xứ tầm.
An đắc huyền quang minh nguyệt
hiện,
Dương quang hạ chiếu phá quần âm.”
十
年
夙
疾
無
人
問
九
轉
還
丹
何
處
尋
安
得
玄
關
明
月
見
陽
光
下
照
破
群
陰
(Ngọa bệnh II)**
Dịch:
Mười năm tật bệnh không người
hỏi,
Tìm đâu thuốc tiên luyện chín
lần?
Mong hiện ánh sáng trăng màu
nhiệm,
Ánh dương chiếu xuống phá
quần âm.
Qua những bài thơ trích đoạn ở
trên, chúng tôi chỉ trích ra một ít trong những số bài thơ chữ Hán được
cụ Nguyễn Du gởi gắm tâm sự của mình vào những khổ đau buồn thương nỗi
nhớ mà cụ đã trải qua trong những biến động của gia đình trong loạn lạc
chia ly, nhà tan cửa nát, con thơ nheo nhóc đói khổ, thiên tai hạn hán,
chiến tranh, tù tội, tật bệnh vây quanh suốt kiếp người cụ Nguyễn Du
cũng như mọi người trong chúng ta. Chúng là những nguyên nhân đưa đến
khổ đau cho nhân thế. Ở đây là những nguyên nhân trực tiếp giáng xuống
đầu người, chúng có thể nhìn thấy rõ được:
“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên.
xuân lan thu cúc thành hư sự,
hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên.”
壯
士
白
頭
悲
向ẻ
天
雄
心
生
計
兩
茫
然
春
蘭
秋
菊
成
虛
事
夏
暑
冬
寒
奪
少
年
(tạp thi I)**
Dịch:
Nhìn trời tráng sĩ buồn đầu
bạc,
Kế sống, hùng tâm vẫn mịt mờ.
Xuân lan thu cúc thành chuyện
huyễn,
Hạ nóng đông hàn cướp tuổi hoa.”
Những điều đó cụ Nguyễn Du cũng
không ngoài ngoại lệ. Cụ buồn đau vì chí lớn, kế sống riêng cá nhân mình
vẫn còn mờ mịt, cộng thêm gia đình ly tán mỗi người vì miếng cơm manh áo
mà phải lầm than phiêu bạc khắp nơi nên đầu đã bạc lại bạc thêm. Đây là
những điều mà chính Nguyễn Du tiên sinh đang kinh qua và chứng kiến
trong chính cuộc đời của cụ, nỗi khổ đau buồn lo đến đỗi mới ba mươi
tuổi mà đầu đã bạc trắng, trong khi công danh sự nghiệp chưa thành qua
bài thơ “tự thán” cụ viết;
“Sinh vị thành danh thân dĩ suy,
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy.”
生
未
成
名
身
已
衰
蕭
蕭
白
髮
暮
風
吹
(Tự thán I)**
Dịch:
Sống chưa thành danh thân đã suy
Lưa thưa tóc bạc gió chiều lay.
Chính vô thường mang lại cho chúng
ta cái khổ đau. Qua đó, vì tâm tư ý nghĩ vô thường luôn luôn thay đổi
(tâm vô thường), vì hoàn cảnh hiện tượng, vật chất chung quanh cuộc sống
chúng ta vô thường luôn thay đổi (vật vô thường) chúng ta không giữ
được, nên sinh ra đau khổ cho mọi người như chúng ta đã thấy qua những
lời dạy của đức Đạo sư. Nguyễn Du tiên sinh thời gian nương nhờ nơi
Quỳnh Hải, Cụ đau lòng khi nhìn đám cỏ xanh nơi quê người khi mùa xuân
đến mà liên tưởng nhớ về Nam Phổ, nhìn nụ hàn mai mà nghĩ đến mùa xuân
qua bài Xuân nhật ngẫu hứng.
“… Nam phố thương tâm khan lục
thảo,
Đông hoàng sinh ý lậu hoàng mai
...”
南
浦
傷
心
看
綠
草
東
皇
生
意
漏
寒
梅
(Xuân nhật ngẫu hứng)**
Dịch:
Nhìn cỏ xanh thương tâm Nam Phổ,
Nhú mai vàng chớm ý Đông Quân…
Nhưng còn những nguyên nhân giáng
tiếp mà chúng ta trong nhất thời khó hình dung ra được, đối với Cụ, Cụ
nhìn thấy tất cả từ hiện tượng bên ngoài đến bản chất bên trong, đó
chính là vô thường biến hoại, là thủ phạm chính cho mọi bất toàn trong
cuộc sống của chúng ta, tạo ra không biết bao nhiêu là khổ nạn cho kiếp
người:
“… Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,
Hình thế không lưu bách chiến danh.
Mạc hướng thanh hoa thôn khẩu vọng,
Điệp sơn bất cải cựu thời thanh.”
古
今
未
見
千
年
國
形
勢
空
留
百
戰
名
莫
向
清
華
村
口
望
疊
山
不
改
舊
時
青
(Vị Hoàng doanh)**
Dich:
Nước nghìn năm xưa nay chưa
thấy,
Hình thể mất, còn danh trăm
trận.
Đừng ngóng nhìn thôn Thanh Hoa
nữa,
Điệp sơn như ngày nào vẫn xanh.
Triều đại nào tồn tại nghìn năm
chúng ta chưa thấy! Ngay đến doanh trại Vị Hoàng ngày xưa là nơi đóng
quân trấn giữ đời nhà Lê; nhưng nay hình thể quân trại không còn nữa, mà
chỉ còn trên cái danh là nơi xưa kia đã từng xảy ra trăm trận chiến
thôi. Đừng nhìn những cảnh đổi thay đó nữa mà hãy nhìn rặng Điệp sơn vẫn
còn xanh như ngày nào! Bản chất của màu xanh thì không bao giờ thay đổi,
nhưng chỉ thay đồi nơi hiện tượng hình dáng bên ngoài thôi. cũng giống
như Triều đại thì có thể thay vua đổi chúa, thay đổi chế độ, chứ còn dân
tộc đất nước thì muôn đời không đổi vì nó là bản chất. Trong cuộc sống
có những thay đổi bình thường về hình thức chúng ta thấy được, nhưng
cũng có những biến đổi tinh thần chúng ta không nhìn thấy được, vì nó
thuộc về vô hình. còn hiện tượng thì luôn tùy thuộc vào thời gian mà
thay đổi như:
“ Đào hoa đào diệp lạc phân phân,
Môn yềm tà phi nhất viện bần.
Trú cửu đốn vong thân thị khách,
Niên thâm cánh giác lão tùy thân…”
桃
花
桃
葉
落
紛
紛
門
掩
斜
扉
一
院
貧
住
久
頓
忘
身
是
客
年
深
更
覺
老
隨
身
(U cư I)**
Dịch:
Hoa lá cây đào rơi lác đát,
Nhà nghèo cổng đóng cửa liêu
xiêu.
Ở lâu quên hẵn mình là khách,
Năm tháng càng qua thân càng
già…”
Những hiện tượng như lá đào hao
đào, cổng đóng, cửa liêu xiêu chúng ta có thể dùng mắt để thấy được cái
thay đổi của nó; nhưng thời gian qua đi thì chúng ta khó mà hình dung
được sự thay đổi này trong nguyên nhân, mà chỉ nhìn được qua kết quả của
nó chúng ta mới nhận thấy được sự thay đổi của chúng. Thời gian vô
thường đã tác hại và biến hoại tất cả từ con người đến mọi vật xung
quanh trong cuộc sống, không gì là không bị lệ thuộc vào chúng: Hoa lá
cây trái, nhà cửa, thân người nói chung là chỉ cho vật chất vật lý v.v…
không gì không bị biến hoại thay đổi:
“Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ bán hoang khư…”
十
載
塵
埃
暗
玉
除
百
年
城
府
半
荒
墟
(Bát muộn)**
Dịch:
“Mười năm bụi phủ mờ thềm ngọc,
Thành quách trăm năm nửa hoang
tàn…”
Hay:
“…Thành quách suy di nhận sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến thương hải…”
城
郭
推
移
人
事
改
幾
處
桑
田
變
滄
海
(Long Thành cầm giả ca)**
Dịch:
Thành quách đổi thay việc
người đổi,
Bao cảnh ruộng dâu biến biển
khơi…
Vô thường biến đổi luôn tạo ra
những cú sốc đau cho những người cố chấp luôn muốn sở hữu mọi thứ về cho
mình, cho bản ngã, cho cái ta trường tồn bất diệt mà nuôi lớn lòng tham
lam, sân hận, si mê; biến chúng ta thành những kẻ nô lệ cho chúng mà đẻ
ra không biết là bao nhiêu đau khổ đắng cay cho chúng ta, nhưng cuối
cùng chúng ta sẽ được gì khi chúng ta nhắm mắt buông tay, cũng chỉ hai
bàn tay trắng. Nguyễn Du tiên sinh đã nhìn ra được bản chất của mọi sự
vật là vô thường mang đến khổ đau nên đã khuyên chúng ta:
“Cổ
thời minh nguyệt chiếu tân thành,
Do thị Thăng Long cựu đế kinh.
Cù hạn tứ khai mê cựu tích,
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh.
Thiên niên phú quý cung tranh đoạt,
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh.
Thế sự phù trầm hưu thán tức,
Tự gia đầu bạch diệt tinh tinh.”
古
時
明
月
照
新
城
由
是
昇
龍
舊
帝
京
衢
巷
四
開
迷
舊
跡
管
弦
一
變
雜
新
聲
千
年
富
貴
供
爭
奪
早
歲
親
朋
半
死
生
世
事
浮
沈
休
嘆
息
自
家
頭
白
亦
星
星。
(Thăng Long 2)
Quách Tấn dịch:
Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
Thăng Long nghìn trước chốn kinh
đô
Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
Ðiệu mới xô bồ nhịp trúc tơ
Danh lợi mồi ngon đua cướp giựt
Bạn bè lớp trước sống lưa thưa
Nổi chìm thế sự đừng tham nữa
Mái tóc mình đây cũng bạc phơ
Danh lợi quyền lực là những món mồi
khá hấp dẫn đối với những ai ham danh lợi và quyền lực; rốt cuộc những
thứ đó cuối cùng cũng để nuôi lớn lòng tham lợi, tham danh, tham quyền
lực nuôi lớn bản ngã chúng ta mà thôi. Nhưng có ai trong chúng ta được
cái này rồi mà không muốn đạt được cái nhiều hơn, cao hơn để bỏ đầy túi
tham của mình không? Tâm lý thông thường của chúng ta là “được voi đòi
tiên,” hay “đứng núi này trông núi nọ”, cũng với mục đích là để thõa mãn
lòng thanh danh, tham lợi, muốn biến mọi vật chung quanh thuộc về sở hữu
cá nhân mình, gia đình mình … Nhưng càng chạy theo nó thì những khổ nhọc
cay đắng càng theo sau và, những oán đối củng tùy theo đó mà hình thành
tạo thành nghiệp nhân oán đối với tha nhân theo sau đó. Chúng ta còn
được gì sau khi nhắm mắt xuôi tay? cũng chỉ:
“… Bá đồ dẫn diệt thiên niên hậu,
Cổ mộ hoàn lương tam xích thu…”
伯
圖
泯
滅
千
年
後
古
墓
荒
涼
三
尺
秋
(Á phụ mộ)
Dịch:
Mộ xưa ba thước thu cỏ lạnh
Nghiệp bá tan tành sau nghìn
năm.
Theo Nguyễn Du tiên sinh thì, sự
nghiệp đồ vương cũng tan tành theo mây khói nghìn năm sau, xác thân nằm
đưới ba thước đất, cỏ lạnh úa tàn bao phủ mùa thu chỉ còn lại là một nấm
mồ cổ, nhiều khi không người coi sóc hoang phế điêu tàn, không một ai
thấy mà không khởi lên tấm lòng hoài cổ thương tâm, đối với những đổi
thay biến hoại của những vật thể có hình thì có hoại diệt, không có gì
tồn tại mãi trên thế gian này. Tuy chúng tạo cho mọi người trong chúng
ta những cú sốc, những vết thương lòng nhức nhối, những nỗi đau khổ
triền miên; nhưng chúng ta phải nhìn lại chính chúng ta đã làm được gì
trước định luật vô thường biến đổi luôn luôn đó, trong khi mỗi ngày qua
đi tóc trên đầu chúng ta lại bạc thêm giỏi lắm cũng chỉ đến trăm năm!:
“… Thế sự phù trầm hưu thán tức,
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh.”
世
事
浮
沈
休
嘆
息
自
家
頭
白
亦
星
星
(Thăng Long II)**
Dịch:
… Thôi đừng than thở chuyện
đời chìm nổi,
Tóc bạc đầu mình từng sợi bạc
phơ.
Cũng cái nhìn lại chính mình này
đã cảnh tĩnh được chính cụ trong cuộc sống tang thương đầy khổ cực này.
Cho dù cái khổ về vật chất hay tinh thần đến đâu đi nữa cũng không làm
cho cụ biến được bản chất chính con người cụ:
“… Phong trần đội lý lưu bì cốt
Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mấn
bồng.”
風
塵
隊
裏
留
皮
骨
客
枕
蕭
蕭
兩
鬢
蓬
(Trệ khách)**
Dịch:
… Tóc rối hai màu bơ phờ, gối
khách
Vẫn giữ thân trong gió bụi
muôn ngàn.
Sở dĩ cụ Nguyễn Du tiên sinh đã
giữ được thân mình trong cát bụi phong ba là chính nhờ vào cụ có một cái
nhìn tinh tế và sâu thẳm đối với cuộc đời cũng như đối với các sự vật
chung quanh cuộc sống, đó là cái nhìn trong vô thường bến dịch vẫn còn
có cái thường còn không biến đổi, nó chính là bản thể của sự vật. Tuy
mọi hiện tượng bên ngoài của sự vật luôn bị vô thường biến khác nhung
bản chất của chúng vẫn trường tồn trong cái không trường tồn. Chúng vẫn
trong sáng như ngày nào, chúng vẫn xanh như ngày nào, chúng vẫn hồng như
mọi buổi chiều ráng hạ, chỉ
có sắc màu (của ráng chiều thì lúc nào cũng màu hồng, lá của
cây
rừng thì lúc nào cũng là một màu
xanh, ánh sáng mặt trời
mặt trăng vẫn sáng như ngày nào)
là không đổi:
“Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng.”
無
窮
今
古
傷
心
處
依
舊
青
山
夕
照
紅
(Mạn hứng II)**
Dịch:
Điều thương tâm xưa nay vô cùng
tận
Núi biếc như xưa chiều chiếu
ráng hồng.
2/ NGUYỄN DU VÀ
PHẬT GIÁO.
Độc qua thơ chữ Hán của cụ Nguyễn
Du chúng ta gặp những bài thơ Cụ thường nói đến, trong vô thường biến
hoại luôn có cái thường còn bất biến mà đạo Phật thường gọi là “Vô
thường tức thị thường”. Qua hai câu thơ trên Nguyễn Du tiên sinh cho
chúng ta thấy rằng trong vô thường biến hoại của hiện tượng giới của sự
vật theo nhân quả luôn luôn có sự hiện hữu của thường tồn bất biến của
bản thể sự vật đó chính là thật thể: Như vầng trăng sáng không bao giờ
thay đổi bất cứ nơi đâu bất cứ thời đại nào, lúc nào nó cũng sáng như
màu nguyên thỉ; hay lá cây xanh, ráng chiều hồng cũng là những hình ảnh
của những ẩn dụ cho những chân lý bất biến theo giáo lý Tiểu thừa giáo
nhà Phật, hay:
“… Ðạt nhân tâm cảnh quang như
nguyệt
Xử sĩ môn tiền thanh giả sơn…”
達
人
心
境
光
如
月
處
仕
門
前
青
假
山
(Tạp ngâm 2)**
Dịch:
Tấm lòng đạt nhân vầng trăng
sáng,
Trước nhà ẩn sĩ núi giả, xanh.
Chính nhờ có cái nhìn muôn vật giữa
cuộc đời này nó mang ý nghĩa “Vô thường tức thị thường” của Phật giáo
nên cụ Nguyễn Du cho dù lúc nào cũng sống trong khổ đau của cuộc đời mà
cụ vẫn không bị cuộc đời quật ngã, vẫn hiên ngang sống. Người đạt đạo,
nhà ẩn sĩ được cụ Nguyễn Du đem sánh với vầng trăng sáng, với màu xanh
của núi xanh là những hình ảnh cụ lấy làm ẩn dụ cho chân lý, cho tấm
lòng trong sáng của ý đạo mà theo thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo gọi
là: “Tâm vô phân biệt” là “Chân tâm” là “Tâm vô sự”.
Từ cái nhìn đạt lý này, đã đưa cụ
về với Phật một cách tự nguyện và tự biến thành mình là hành giả tu tập
thiền định sau này. Qua mười năm biến động xa quê nhà, những gì mà cụ đã
kinh qua trong đau thương tiếc nhớ khi lăng lóc giữa cát bụi phong ba
của cuộc đời: Một mặc dù cụ nhìn thấy rõ bộ mặt thật của cuộc đời trong
khổ đau qua vô thường-khổ-không theo quan điểm của Phật giáo và mặc khác
cũng từ đây cụ đâm ra không thích sống với đời nữa, muốn xuống tóc vào
rừng ẩn tu làm người vô sự và, cũng từ đó cụ quyết tâm học Phật và thực
hành trong tu tập như trong bài Đề Nhị Thanh động:
“ … Mãn cảnh giai không hà hữu
tướng…”
滿
境
皆
空
何
有
相?
(Đề Nhị Thanh động)**
Dịch:
… Mọi cảnh đều không, có tướng
sao?
Trước hết, từ khi cụ nhìn ra được
hiện tượng và bản chất của mọi sự vật trên cõi đời này rồi thì, tư tưởng
muốn xuống tóc ẩn tu làm người vô sự đã đưa cụ đến việc học Phật và thực
hành theo những lời Phật dạy tùy căn cơ có được của mình. Thật ra ở đây
không ai biết được cụ đã học Phật từ bao giờ và học ở đâu? để đẻ ra cái
kết quả là cụ đã trở thành một hành giả tu tập Thiền, đề có thời gian
huân tập và ngộ đạo qua bài thơ: “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh
thạch đài” nhân chuyến làm sứ đi Trung Quốc. Việc học kinh Phật cũng
giống như cụ đã học Nho giáo vậy. Không biết cụ học Nho giáo vào lúc nào
và học những kinh sách nào, học ở nơi đâu? với cuộc đời năm chìm bảy nổi
lênh đênh từ nơi này đến nơi khác, lo toan vì miếng cơm manh áo cũng đủ
đứt hơi rồi huống chi là học hành; thế mà theo như tiểu sử của cụ cho
chúng ta biết rằng cụ đã từng đi thi và đỗ tam trường trong một kỳ thi
Hương và sau đó cụ không đi thi tiếp nữa! Thì việc học Phật của cụ cũng
vậy, chỉ biết qua bài thơ chính cụ làm ra qua bài “Lương Chiêu Minh Thái
tử phân kinh thạch đài” Như vậy cụ đã tập Thiền Công án qua hàng nghìn
lần độc tụng về Kinh Kim Cương và cũng đã ngộ được bản Kinh này qua “Vô
tự” thị chân kinh. Theo chúng tôi nghĩ thì có thể cụ bắt đầu học Phật
Khoảng thời gian từ 1786-1795, đây là khoảng thời gian mười măn giang hồ
gió bụi của cụ. Vì bài thơ cụ làm ra để tỏ tâm sự chán đời muốn xuống
tóc vào rừng ẩn tu cũng trong khoảng thời gian này.
“… Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán
vân.”
何
能
落
髮
歸
林
去
臥
聽
松
風
響
半
雲
(Tự thán II)**
Dich:
… Làm sao xuống tóc về rừng ẩn,
Nằm nghe tùng hát gió đưa mây.”
Có lẽ đây là giai đoạn quyết định
chuyển mình cho một bươc đi mới sau này của cụ. Theo chúng tôi trong
hiện tại hoặc sau này, việc cụ không tiếp tục theo đuổi con đường thi cử
để thực hiện “chí cỡi mây” của mình theo cái học của Nho gia vào lúc bấy
giờ, như bài thơ người anh ruột Nguyễn Nễ gởi cho cụ khi cụ còn lưu lạc
trong đó có câu: “Tự hữu lăng vân chí” (Người vốn có chí cỡi mây)
có hai lý do: Thứ nhất nhờ cụ đã nhìn rõ được cả hai bộ mặt thật của
hiện tượng (vô thường-khổ đau) cùng bản chất của mọi sự vật là không, do
nhân duyên hòa hợp mà hiện hữu ở trên đời này nên đã quyết định không
tiếp tục con đường khoa hoạn nữa. Thứ hai có lẽ cụ không muốn cộng tác
với triều đình Tây Sơn nên không tiếp tục ra thi cử nữa. Dù là lý do nào
đi nữa thì đây vẫn là quyết định không muốn “cỡi mây” nữa mà muốn làm
người vô sự: “nằm nghe tùng hát gió đưa mây”. Từ đây cuộc đời của cụ
cũng bắt đầu chuyển đổi cho việc học Phật và thực hành sống theo nếp
sống vô sự của Phật, vì cụ đã nhận thức rằng:
"Trướng vọng hồng trần diễu vô tế
Bất tri nhật nhật thử trung hành".
悵
望
紅
塵
渺
無
際
不
知
日
日
此
中
行
(Từ Châu Đê Thượng Vọng)**
Dịch:
Trông xuống bụi hồng xa mờ mịt
Sớm
chiều trong
đó bước quẩn quanh.
Vì lợi danh quyền lực cuối cùng
cũng chỉ mang đến
khổ đau và trói buộc
chân chúng ta vào vòng dây oan nghiệt chạy quanh suốt đời mãn kiếp trong
chốn hồng trần không bao giờ thoát ra khỏi được chúng; chỉ vì chúng ta
không biết bước đi như thế nào để mang đến sự giải thoát khổ đau của
vòng luân hồi lẩn quẩn đó. Giờ đây cụ quyết theo bước đi vô sự như một
vị Tăng an nhiên thả giấc ngủ dưới những làng mây cô đọng chung quanh
giấc cô miên lãng đãng trong rừng núi hoang vu vắng vẻ. Một cảnh quan
biểu hiện lên sắc thái tự tại thong dong trong cuộc sống:
"… Đình vân xứ xứ tăng miên định
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai".
停
雲
處
處
僧
眠
定
落
口
山
山
猿
咡
哀
一
炷
檀
香
消
慧
業
回
頭
已
隔
萬
重
崖
(Vọng Quan Âm miếu)**
Dịch:
Mây
đọng
nơi nơi
Thầy
an giấc,
Chiều
xuống
non non vượn kêu
thương.
Ðốt nén hương đàn tiêu nghiệp
tuệ,
Quay đầu đã cách vạn
trùng nhai.
Ở đây chỉ cần biết quay đầu lại là
bờ giác ngộ giải thoát, chúng cách xa bờ sinh tử luân hồi muôn trùng
trên mặt sự tướng; nhưng trên mặt lý thể thì sinh tử tức là Niết-bàn,
khác nhau chỉ có mê và ngộ mà thôi. Quay đầu tức là ngộ, là Phật, là vô
lậu, là giải thoát, là an vui; không quay đầu tức là mê, là chúng sanh,
là hữu lậu, là trói buộc, là khổ đau. Đem tâm mê chúng sanh mà hiểu Phật
thì Phật cũng thành ma, như cụ đã từng viết:
“ … Sắc không cảnh giới mang bất
ngộ,
Si tâm quy Phật Phật sinh ma
…”
色
空
境
界
茫
不
悟
癡
心
歸
佛
佛
生
魔
(Phân Kinh thạch đài)**
Dịch:
… Cảnh giới sắc không, mê
chẳng biết,
Tâm mê hiểu Phật, Phật thành
ma…
Nhờ cụ đã nhìn ra được chỗ ách
yếu của phương cách tu hành và, cũng từ đó hành giả theo Phật có thể
thực hành để đạt được sự thể ngộ chân lý qua cuộc sống bằng vào thực
hành tu tập để đạt đến trạng thái hư linh không tịch rỗng rang này, chứ
không phải mang kiến thức mê muội nhị nguyên để nói về cảnh giới Phật,
cảnh giới thiền là có được. Sự có được này theo cụ cũng chỉ là kiến thức
mê; khi mê mà nói về Phật thì Phật đó cũng trở thành mê như Kinh Viên
Giác đức Đạo sư đã dạy ngài
Kim Cang Tạng rằng:
Kim Cang Tạng đương
tri Như Lai tịch diệt tánh
Vị tằng hữu chung
thỉ Nhược dĩ luân hồi tâm
Tư duy tức toàn
phục Đản chí luân hồi tế
Bất năng nhập Phật hải
Thí như tiêu kim khoáng
kim phi tiêu cố
hữu Tuy phục bản lai kim
Chung dĩ tiêu thành tựu
nhất thành chân kim thể
Bất phục trùng vi khoáng
Sanh tử dữ Niết-bàn
Phàm phu cập chư Phật
Đồng vi không hoa tướng
Tư duy do huyễn hóa
Hà huống kết hư vọng
Nhược năng liễu thử tâm
Nhiên hậu cầu Viên Giác.
金
剛
藏
當
知
如
來
寂
滅
性
未
曾
有
終
始
若
以
輪
迴
心
思
惟
即
旋
復
但
至
輪
迴
際
不
能
入
佛
海
譬
如
銷
金
鑛
金
非
銷
故
有
雖
復
本
來
金
終
以
銷
成
就
一
成
真
金
體
不
復
重
為
鑛
生
死
與
涅
槃
凡
夫
及
諸
佛
同
為
空
花
相
思
惟
猶
幻
化
何
況
詰
虛
妄
若
能
了
此
心
然
後
求
圓
覺
“
Kim Cang Tạng nên biết
Như lai tánh vắng lặng
Chưa từng có chung thỉ
Nếu dùng tâm luân hồi
Suy nghĩ cảnh giới
Phật Cảnh Phật thành luân hồi
Phật tánh tuy sẵn
có Phải tu mới hiển hiện
Cũng như vàng sẵn
có Phải lọc quặng mới thành
Khi đã thành vàng y
Không trở lại làm quặng
Sanh tử và Niết
bàn Phàm phu cùng chư Phật
Thảy đều như hoa đớm
Tâm suy nghĩ đã huyễn
Nên lời nói cũng
huyễn Làm sao nhập được chơn
Nếu rõ được tâm
này Mới cầu được Viên giác.”
Nếu muốn có cuộc sống bình an vô sự
theo cụ Nguyễn Du thì cần phải đạt đến chỗ tâm linh rỗng rang (hư linh),
sau đó chúng ta làm gì cũng không có lỗi với Đạo; nhưng trước hết chúng
ta phải thực hành ngay trong cuộc sống:
“ … Tiện sát bắc song cao ngọa giả,
Bình cư vô sự đáo hư linh.”
羨
殺
北
窗
高
臥
者
平
居
無
事
到
虛
靈
(Ký hữu)**
Dịch:
… Muốn làm người nằm cao nơi cửa
bắc
Sống yên vô sự đạt đến hư linh.
Khi mà con người sống bình an vô sư
thì chính đó là cuộc sống của người đạt đến chỗ tâm linh rỗng rang,
không bị cái gì trói buộc được. Đó là một điều mà ai là người tu Phật
cũng mong muốn đạt đến cảnh giới như vậy và, ở đây cụ Nguyễn Du cũng
vậy, mong muốn rằng cá nhân cụ có một cuộc sống bình yên vô sự như hình
ảnh của vị sư và trẻ mục đồng mà cụ đã từng thấy qua:
“… Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng,
Mục thụ kỵ ngưu nhất bất như …”
山
僧
對
竹
兩
無
恙
牧
豎
騎
牛
一
不
如
(lạng sơn đạo trung)**
Dịch:
… Sư bên khóm trúc vô sự cả,
Đệ nhất mục đồng cưỡi lưng
trâu…
Cụ đưa ra bốn hình ảnh: Nhà sư
núi và khóm trúc bên nhau nhưng cả hai đều vô sự, trên mặt hình thức
khác nhau không liên quan, trên mặt tinh thần cũng không can hệ với nhau,
sư có nếp sống vô sự của sư, khóm trúc có cái thể hiện vô sự của nó;
cũng vậy hai hình ảnh mục đồng và trâu cũng vậy mục đồng đang nghiêu
ngao trên lưng trâu, mặc cho trâu thong thả trên đường về. Đây là những
hình ảnh vô sự không can hệ lệ thuộc vào nhau để trở thành trói buộc, mà
ngược lại nó là những hình ảnh vô ngại tự tại dung thông trong cuộc sống.
Vì sống bình an vô sự chính là lối sống không bị lệ thuộc trói buộc vào
bất cứ điều kiện nào, mặc dù người sống vẫn sống chung với các duyên
sống chung quanh, nhưng người đó không bị nhiễm vào những tác nhân tạo
ra nghiệp của thế gian. Ở đây cụ Nguyễn Du cũng đang thực hành cách sống
vô sự này qua:
“Bất sầu cửu lộ triêm y duệ
Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần".
不
愁
久
露
霑
衣
裔
且
喜
鬚
眉
不
染
塵
(Dạ hành)**
Dịch:
Tay áo dầm sương không ngại ướt
Mày râu, mừng chẳng nhiễm trần
ai.
Những hình ảnh ẩn dụ của cụ đưa ra
cho chính bản thân mình, đó chính là bước đi giải thoát vô ngại của đạo
Phật. Vẫn bước đi trong cuộc đời chứ không phải lánh đời, mà vẫn sống,
vẫn ăn, vẫn uống, vẫn hít thở, nói chung là vẫn làm tất cả mọi chuyện
như người thế gian không khác; nhưng chỉ khác với người thế gian là sống
với nó mà không bị đời làm nhiễm, không bị đời trói buộc qua tác nhân
không chấp ngã, không chấp pháp, làm với quan niệm vô ngã, vô pháp thì
đó chính là hành động vô sự, không bị nhiễm, không bị trói buộc. Đó
chính là lối sống của cụ:
“… Tiếu đề tuẫn tục can qua tế,
Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư.
笑
啼
徇
俗
干
戈
際
緘
默
藏
生
老
病
餘
(Tạp
Thi II)**
Dịch:
…Theo đời cười khóc qua thời
loạn,
Già bệnh rồi im lặng yên thân.”
Vậy muốn cho cõi lòng chúng ta lúc
nào cũng trong sáng qua cuộc sống thì, chỉ có cách im lặng mà sống hay
sống bằng cách vô sự, không nhiễm ô đời, không để chuyện đời vướng mắc
vào tâm mình, tức là chúng ta sống với tâm vô phân biệt. Đó là lối sống
với tâm không còn phân biệt chấp trước vào sự vật; tùy duyên mà sống
không cưỡng lại duyên, không cưỡng lại đời như chuyện khóc cười theo
đời, theo thời cuộc thăng trầm, hưng phế; nhưng không để cho đời và thời
cuộc trói buộc cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta để tâm chúng ta bị trói
buộc vào những việc đó của đời, vào thời cuộc của đời thì chúng ta sẽ bị
đau khổ vì sự trói buộc đó. Đau khổ là hậu quả của mọi tác nhân tạo ra
nghiệp do cuộc sống của chúng ta mang lại. Theo đó cụ Nguyễn Du đã để
lại cho chúng ta một kinh nghiệm sống của chính cụ qua tâm không sau khi
nghiệp chướng đươc tiêu trừ:
“ … Lão khứ vị tri sinh kế chuyết,
Chướng tiêu thời giác túc tâm không
…”
老
去
未
知
生
計
拙
障
消
時
覺
夙
心
空
(Thôn Dạ)**
Dịch:
… Già rồi vẫn còn vụng về sinh
kế
Khi nghiệp tiêu mới biết tâm
không…
Tâm không ở đây chính là tâm trong
sáng, tâm vô sự, tâm chân thật, khi nghiệp của chúng ta đã tạo ra đã
được tiêu trừ rồi thì chính ngay lúc đó chúng ta giải thoát được khổ đau
và, cuộc sống của chúng ta cũng trở nên tự tại an lạc được thể hiện, nên
cụ lúc nào cũng ao ước là phải thực hiện cho bằng được tâm vô sự này.
Bài thơ “Thôn dạ” ở trên, cụ nói
đến cái quả khi chúng ta tiêu trừ được nghiệp chướng thì tâm không còn
gì để trói buộc, tâm trở nên rỗng rang, hay bảo là tâm không, hiện tiền;
nhưng bằng cách nào để tiêu nghiệp nói chung, riêng cái nghiệp trí tuệ
tức là cái nghiệp của thế trí biện thông, là nghiệp của trí tuệ thiện
thuộc pháp hữu lậu.
Như kinh nghiệm ở trên cụ Nguyễn Du
đã cho chúng ta biết rằng: Khi nghiệp chướng tiêu trừ thì tâm chúng ta
trở nên rỗng rang không gì trói buộc, đó là một kinh nghiệm tâm linh có
được từ nơi cuộc sống đã dạy cho cụ, để từ đó cụ bắt đầu cho cuộc sống
của chính mình qua:
“ … Vị hữu văn chương sinh nghiệt
chướng,
Bất dung trần cấu tạp thanh hư
…”
未
有
文
章
生
孽
障
不
容
塵
垢
雜
清
虛
(Ngọa bệnh I)**
Dịch:
… Chưa thấy văn chương sinh
nghiệt chướng,
Không để bụi nhơ vấy rỗng
trong.
Vì bụi nhơ chính là chướng
nghiệp chúng có khả năng làm mờ đi bản tính rỗng rang thanh tịnh của
chúng ta, và mặc khác chúng kéo chúng ta vào con đương sinh tử khổ đau.
Vì vậy cho nên cụ Nguyễn Du dứt khoát đoạn trừ với bụi nhơ bằng cách
không để chúng vấy vào tâm không rỗng rang của chúng ta và, lấy văn
chương để tiêu khiển.
Vì chính văn chương không phải
tự nó sinh ra chướng nghiệt, mà chính tâm vọng động của chúng ta tạo ra
những nghiệp chướng bằng vào thân-khẩu-ý làm công cụ cho ba độc tham
lam, sân hận, si mê phát triển nuôi lớn ngã chấp và pháp chấp tạo ra mọi
thứ đau khổ ràng buộc mà đức Đạo sư gọi là nghiệp và, khi nghiệp đã trừ
đi hết rồi thì tâm sẽ trở nên vắng lặng trong sáng, tinh thần nhẹ nhõm
an lạc tự hiện ra:
“… Tam lan song hạ ngâm thinh
tuyệt,
Điểm điểm tinh thần du thái sơ.”
三
蘭
窗
下
吟
聲
絕
點
點
精
神
遊
太
初
(ngọa bệnh I)**
Dịch:
… Dưới cửa tam lan im bặt
tiếng,
Tinh thần nhẹ nhõm dạo thái
sơ.
Tức là chỉ cho trạng thái tinh
thần lân lân nhẹ nhõm rỗng rang vô tận nguyên sơ chưa bị nhiễm ô. Khi mà
mọi duyên trần cảnh bên ngoài bị cắt đứt thì, tâm thần trở nên nhẹ nhàng
thư thái lân lân, vì tâm lúc này không bị ràng buộc bỡi các duyên trói
buộc, dù là duyên tốt hay là duyên xấu cũng ảnh hưởng đế sự ràng buộc lệ
thuộc làm cho tâm mất đi sự rỗng rang trong sáng vắng lặng. Đối với cụ
Nguyễn Du lúc này cụ đã làm chủ được tâm mình nên đối những cảnh sắc bên
ngoài không làm ảnh hưởng đến cõi lòng của cụ nữa, cho dù đó là việc hoa
nở hay hoa tàn lá vàng hay lá xanh, lá rụng hay đâm chồi nẩy lộc, cũng
không còn ảnh hưởng tác động làm cho nó lay động nữa:
"…
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền
sự
Tứ thời tâm kính tự như như".
葉
落
花
開
眼
前
事
四
時
心
鏡
自
如
如
(Tạp thi II)*
Dịch:
… Lá rụng hoa khai ngay trước
mắt,
Cõi làng năm tháng vẫn không
thay.
Tức là tấm lòng của cụ vẫn trong
sáng rỗng rang như cái bản lai diện mục của nó từ nguyên thỉ chưa nhuốm
bụi trần phiền não sinh tử vậy. Vì trong hiện tại cõi lòng cụ được như
như, như vậy là nhờ cụ đang trụ tâm mình vào thiền định. Có lẽ cụ đang
tham công án thiền: “Làm thế nào để tâm có thể trụ vào nơi không có chỗ
trụ?” Đây là một Công Án Thiền cụ rút ra từ cốt tủy của bản kinh Kim
Cương, một bản kinh nền tảng của Thiền Trung Quốc nói riêng cũng như
Thiền của các nước Đại thừa Phật giáo khác nói chung, kể từ Ngũ Tổ Hoàng
Nhẫn trở xuống. Cụ Nguyễn Du đã đang nổ lực thực hành nó, cho nên tâm
của cụ lúc nào cũng ở trong nghi tình thiền định này:
"… Mãn cảnh giai không hà hữu tướng
Thử tâm thường định bất ly
Thiền...”
滿
境
皆
空
何
有
相
此
心
常
定
不
離
禪
(Đề Nhị Thanh Động)**
Dịch:
… Mọi cảnh đều không, có tướng
sao?
Tâm này thường định, chẳng lìa
Thiền…”
Thời gian mà cụ bắt đầu có ý muốn
xa lánh đời để xuống tóc ẩn tu là thời gian cuối những năm từ 1786-1795,
lúc này cụ gần 30 tuổi và thời gian mà cụ sống không lìa thiền đã thể
hiện ra trong bài thơ này là vào những năm 1802-1804 tức là khoảng 36
hay 37 tuổi. Như vậy, việc chuyển hướng về với đạo Phật là khá sớm và,
việc cụ tự nói lên sự tu tập độc tụng kinh Kim Cương đến hàng nghìn lần
không phải là những lời nói ngoa. (Ở đây chúng tôi xin mở ngoặc một tí,
vấn đề tu tập của Phật giáo nó không mang bất cứ một hình thức nào nhất
định hết, vì bản thân của sự tu tập này nền tảng căn bản và mục đích
cuối cùng của nó là làm thanh tịnh ba nghiệp thân-miệng-ý, để mọi người
không tạo ra nghiệp khổ đau mà thôi, cho nên việc tu tập cũng có rất
nhiều cách: độc, tụng, học hành, lễ bái hay làm bất cứ phương cách nào
như chúng ta thường nghe là vô lượng pháp môn tu, ở bất cứ nơi đâu, ở
chùa hay ở tại thế gian cũng có thể tu tập được hết, với mục đích là để
làm cho ba nghiệp của thân-miệng-ý không tạo ra tác nhân nghiệp và, dành
cho bất cứ ai muốn thực hành điều đó, chứ không phải chỉ dành cho các vị
xuất gia vào chùa làm một tỳ kheo hay một tỳ kheo ni mới gọi là tu theo
đạo Phật, còn những người không mang hình thức này không phải là người
của Phật giáo. Vì quan niệm sai lầm này chúng tôi gặp rất nhiều khi đọc
những bài viết bình luận phê bình trong Văn học Việt nam, khi viết về
Phật giáo. Có nhiều người, họ cho rằng chỉ có người đi tu ở chùa theo
Phật mới gọi là những người tu theo đạo Phật còn những tại gia không ở
chùa thì không phải là người của đạo Phật!.)
Sở dĩ cụ Nguyễn Du đã lựa chọn cho
mình một phương pháp tu cho thích hợp với cuộc sống và căn cơ của chính
cụ cho nên Thiền Công Án là một phương pháp Thiền Định làm thanh tịnh ba
nghiệp thân-miệng-ý của cụ. Vì trong Thiền Công Án này có nhiều cách để
huân tập nghi tình trong lúc tu như: Tham thoại đầu về nghi tình công Án
này, hoặc tham nghi tình Công Án bằng cách tụng đi tụng lại cho đến lúc
miên mật ngay trong giấc ngủ cũng khởi lên, huân tập nhiều ngày, nhiều
tháng, nhiều năm như vậy cho đến khi nào nghi tình này lớn mạnh, chỉ cần
nhờ một duyên cuối cùng tác động lên nó, thì Công Án nghi tình sẽ bùng
vỡ ngay, đó gọi là ngộ. Cũng vậy việc đọc kinh cũng giống như vậy, với
mục đích là huân tập đọc đi đọc lai làm cho nghi tình càng ngày càng lớn
hơn và, cho đến lúc nào đó, chỉ cần một duyên cuối cùng cũng đủ bùng vỡ,
như trường hợp của cụ Nguyễn Du cũng vậy. Phân Kinh Thạch Đài là duyên
cuối cùng, là giọt nước cuối cùng cho nghi tình Kinh Kim Cương của cụ
bùng vỡ. Có nhiều người nghĩ rằng đọc kinh không phải tu, nhưng đó là
một ý nghĩ sai lầm! Vì đọc kinh cũng là một phương pháp cắt đứt hết mọi
duyên khác, chỉ định tâm vào bản kinh và, việc định tâm vào bản kinh
chính là thiền định; vì lúc chúng ta định tâm vào kinh thì mọi duyên
khác bên ngoài chúng ta cắt đứt, chỉ còn có biết bản kinh thôi. Lúc này
thân chúng ta ngồi một chỗ, hay nằm một chỗ, thay vì đọc bằng miệng như
tụng, chúng ta dùng mắt để độc và miệng thì giữ im lặng; như vậy thì ba
nghiệp thân-miệng-ý chúng ta đang định vào trong kinh không tạo ra các
nghiệp. Vậy là ba nghiệp thân-miệng-ý chúng ta ngay lúc đó không tạo ra
nghiệp dữ rồi, đó là một cách tu trong muôn ngàn cách tu khác. Ở đây ai
trong chúng ta bảo đọc không phải là tu đây!!!? Tu chỉ có một cái nghĩa
đơn giản là sửa và, thiền định là một cách sửa tâm hay nhất đối với
những người có căn cơ này. Việc lựa chọn kinh Kim Cương để cụ Nguyễn Du
tu tập bằng cách đọc kinh là một trong muôn nghìn cách tu thiền định
trong đạo Phật, với mục đích là để làm lắng động cái vọng tâm đang lăng
xăng chạy theo vô minh tạo ra nghiệp khổ, mà cắt đứt dần mọi thứ tạp
niệm của ý tạo ra những tạp niệm của thân tạo tác, miệng tạo tác. Lâu
ngày chầy tháng dần nhờ sự cắt đứt này mà tâm từ từ trở nên trong sáng
rỗng rang trở lại.
Theo Cụ Nguyễn Du, cũng giống như
nước giếng xưa vốn vắng lặng trong sạch không bị người khuấy động, trăng
sáng chiếu soi thấy bóng rõ ràng, vì đó là bản chất vắng lặng của nước.
Nếu khuấy động lên thì chúng sẽ đục, ánh trăng sáng sẽ không còn thấy
được nữa. Tâm của chúng ta cũng vậy không dao động trước mọi duyên thì
với bản chất trong sáng thanh tịnh của nó thì tự nó sẽ chiếu soi khắp cả
và, cũng có khả năng hiển thị tất cả qua bà thơ ẩn dụ đạo ý:
"Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh
Tỉnh thủy vô ba đào
Bất vị nhân khiên xả
Thử tâm chung bất giao
Túng bị nhân khiên xả
Nhất giao hoàn phục chỉ
Trạm trạm nhất phiến tâm
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy".
明
月
照
古
井
井
水
無
波
濤
不
被
人
牽
捨
此
心
終
不
搖
縱
被
人
牽
捨
一
搖
還
復
止
湛
湛
一
片
心
明
月
古
井
水
(Đạo Ý)**
Dịch:
Trăng sáng chiếu giếng xưa
Nước giếng không gợn sóng
Không bị người khuấy động
Tâm này thật chẳng động
Nếu bị người khuấy động
Lay động rồi lại dừng
Một cõi tâm lắng đọng
Như trăng soi giếng xưa.
Thật ra đó chỉ là một thí dụ, cụ
đưa để ví dụ cho tâm con người và nước giếng xưa tạm để chúng ta hiểu
được rằng tâm ta khi định một chỗ thì nó sẽ hiển thị ra công dụng sáng
trong vắng lặng cũng giống như nước giếng xưa nếu khuấy động làm cho nó
đục thì nó sẽ không thấy vật gì hết, còn nếu để nguyên không khuấy động
thì nó sẽ lắng trong. Đó là một thứ kinh nghiệm được cụ rút ra từ cuộc
sống của chính cụ, để cho ta thấy rằng sở dĩ thường ngày chúng ta không
thấy được tâm trong sáng vắng lặng rỗng rang của chúng ta, mà chỉ thấy
hoàn toàn là những phiền não khổ đau làm cho chúng ta đau khổ; tâm vật
lý này luôn vô thường, luôn tạo ra cho chúng ta những thứ phiền não khổ
đau từ: xa lìa người thân, những vật mà mình đang sở hữu thuộc về của
mình cũng sinh ra đau khổ; những ai mình ghét bỏ, thù oán, hoặc những
vật mà chúng ta không thích, không ưa mà luôn xuất hiện trước chúng ta
cũng tạo ra những đau khổ; những điều mà chúng ta ước muốn thuộc về
chúng ta (vât chất lẫn tinh thần), mà chúng ta tìm cầu không được cũng
làm cho chúng ta đau khổ; nói chung là mọi thay đổi trong cuộc sống bất
như ý chúng ta là mang lại cho chúng ta những đau khổ. Chính những đau
khổ này nó vấy đục tâm tư chúng ta, nó làm cho tâm tư chúng ta tối tăm u
ám như nước giếng xưa đang trong lành bị chúng ta khuấy đục lên vậy,
công dụng hiển thị sáng soi không còn nữa. Do đó chúng ta muốn tâm chúng
ta trong lành sáng tỏ thì đối với mọi sự vật từ tinh thần cho đến vật
chất chúng ta chỉ cần không đắm nhiễm chạy theo nó để bị trói buộc bị
khuấy dục lên thì đó chính là tâm vô sự, đó chính là Phật, là tâm không
như cụ đã từng viết:
“… Phật bổn thị không bất trước
vật…”
佛
本
是
空
不
著
物
(Phân kinh thạch đài)**
Phật vốn là Không, chẳng chấp
vật.
Khi tâm chúng ta không chấp vào mọi
sự vật chung quanh cuộc sồng từ tinh thần cho đến vật chất thì đó chính
là Phật. Phật này bản thể là tính không, tướng của Phật là không vì sự
hiện hữu của sắc thân nên Phật do nhân duyên tích hợp mà tác thành, thân
Phật này không có thực thể, nó chỉ là một giả hợp của Năm uẩn: Sắc, thọ,
tưởng, hành, thức. Sắc là một tích hợp của đất, nước gió, lửa (thuộc vật
chất); thọ, tưởng, hành thức là tích hợp của tinh thần (thuộc tâm). Vậy
thì từ vật chất đến tinh thần đều do nhân duyên hòa hợp nà hiện hữu, nên
sự hiện hữu của Phật này là một hiện hữu giả danh, vì Phật chỉ là một
giả danh nên Phật vốn là Không. Khi Phật đã không thì tâm cũng không.
Vậy tâm chúng ta đục hay trong cũng
từ nơi ta cả chứ không ai làm cho tâm ta lu mờ và sáng trong được, cho
nên cụ khuyên chúng ta nên:
"… Nhân liễu thử tâm nhân tự độ,
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu…"
人
了
此
心
人
自
度
靈
山
只
在
汝
心
頭
(Phân kinh thạch đài)**
Dịch:
… Người rõ tâm này, người tự độ,
Linh Sơn
chỉ ở nơi tâm ngươi …
Vì thường thì chúng ta hay cầu Phật
ở nơi bên ngoài chúng ta, tức là vong thân cầu Phật tại Linh sơn, rất
nhiều người nổ lực tìm cầu Phật bên ngoài mà bỏ quên ông Phật chính mình
nơi mỗi người, đó là một cái nhìn vô minh thiếu chánh kiến, nên lầm
đường lạc lối cầu Phật bên ngoài. Theo cái nhìn thấu tâm đạt lý của cụ
Nguyễn Du thì khi chúng ta đã tỏ rõ bản tâm của mình rồi thì chính mỗi
người phải tự mình độ lấy chính mình ra khỏi vô minh mờ tối của chính
mình tạo ra đó thì tự nhiên tâm rỗng rang trong sáng của chính mình hiện
hữu chứ không cần phải dựa dẫm vào bất cứ thế lực nào khác ngoài chúng
ta. Nhiều nhà nghiên cứu về Nguyển Du mà không biết chữ Hán hay biết mà
không đọc những tập thơ cụ viết bằng chữ Hán để biết cuộc đời của cụ đã
chịu ảnh hưởng Phật giáo như thế nào mà viết về Nguyễn Du và Phật giáo
thì, đương nhiên có những cái nhìn tưởng tượng lệch lạc về vấn đề này.
Qua những điều chúng tôi trích dẫn từ văn thơ của cụ như vậy, ai dám bảo
cụ không phải là người của Phật giáo? không phải là người tu theo Phật
nào?! Những điều chính cụ viết ra không chịu hiểu không chịu đọc rồi
ngồi đó tưởng tượng sai lầm rằng Nguyễn Du ảnh hưởng tâm học của người
này người kia v.v… đem áp đặt lên người cụ, trong khi thơ cụ không có
bất cứ chỗ nào đề cập đến chủ trương tâm học. Bỡi vì “Người rõ tâm này,
người tự độ, Linh Sơn (chỗ Phật nói pháp) chỉ tại tâm ngươi” không phải
là “tức tâm tức Phật, tức Phật tức tâm” Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm
sao? Mà theo cụ thì sở dĩ chúng ta không nhận ra được tự tánh tâm mình,
không nhận ra bản lai diện mục của chính mình là vì chúng ta tìm Phật
bên ngoài, chạy rông từ kiếp này sang kiếp, từ nơi này đến nơi kia để
tìm; nhưng rốt cùng tìm mãi không ra chỉ vì ngưởi chỉ đi tìm cái bóng
của minh không thôi, trong khi bản lai diện mục lù lù nơi chính ta mà ta
không biết, càng chạy đi tìm thì càng lạc lối càng xa quê hương xứ sở
nguyên sơ của chính mình chỉ vì vô minh phiền não che lấp nên không thấy
đó thôi:
"Niên niên thu sắc hồn như hử
Nhân tại tha hương bất tự tri".
年
年
秋
色
魂
如
許
人
在
他
鄉
不
自
知
(Giang Đầu Tản Bộ)**
Sắc thu hồn vẫn luôn như vậy
Vì mãi xa nhà không biết thôi.
Tóm lại qua những bài thơ mà chúng
tôi đã trích dẫn trong ba tập thơ chữ Hán của cụ Nguyễn Du cho chúng ta
một cái nhìn đúng về nhà thơ đã ảnh hưởng sâu đậm Phật giáo trong đời
sống “bất ly Thiền” hằng ngày của cụ, là một nhà thơ vĩ đại không những
là của Việt Nam ta không thôi, mà cụ còn là một trong những nhà thơ vĩ
đại nhất thế giới nữa. Cái vĩ đại của Cụ nhờ vào hai yếu tố thứ nhất bỡi
một thứ trí tuệ nghiệp được huân tập di truyền từ nhiều kiếp trước cộng
với cái trí tuệ nghiệp được huân tập từ kiếp này, từ cuộc sống qua đó
Phật giáo là một tác động quan trọng đối cuộc sống của cụ, nhất là Thiền
tông là một nhân tố tác động chính yếu cho việc cụ khám phá ra bộ mặt
thật của chính mình cũng như mọi sự vật khác, để từ đó cụ sáng tác ra
những tác phẩm mang tính nhân bản triệt để hơn qua Truyện Kiều và Văn Tế
thập loại chúng sanh mang đậm tư tưởng Phật giáo trong việc phủ nhận
thuyết Thiên mệnh của Nho giáo đã làm hủ hóa khiến con người không tự
mình vương lên trong cuộc sống được:
“ … Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có
thân.
Bắt phong trần phải phong
trần,
Cho thanh cao mới được phần
thanh cao. …” (Kiều)
Với quan niệm mệnh trời như vậy
thì chúng ta còn làm được gì, đành phải bó tay bó chân thôi!
“… Thôi đành nhắm mắt đưa
chân.
Thử xem con tạo xoay vần ra
sao?...” (Kiều)
Đúng là với quan niệm như vậy nó
làm cho con người trở nên yếu mền, nhu nhược. Đây mới là quan niệm làm
cho con người bi quan yếm thế của Nho giáo đối với cuộc sống, chứ không
phải quan niệm đời là khổ của Phật giáo là quan niệm bi quan yếm thế như
nhiều người lầm tưởng. Vì đời chỉ là kết quả khổ, phát sinh từ nguyên
nhân, chính con người của mỗi cá nhân mang đến kết quả đó mà thôi chứ
đời không phải là nguyên nhân sinh ra đau khổ. Vậy muốn quả khổ này mất
đi thì chỉ cần triệt tiêu nguyên nhân sinh ra khổ thì đời tự nhiên hết
khổ thế thôi. Vậy thì việc gì Phật giáo phải bi quan yếm thế như một số
người hiểu biết lệch lạc sai lầm về Phật giáo vậy! Ở đây với quan niệm
mệnh Trời bắt làm người có thân, bắt phong trần phải phong trần, cho
thanh cao mới được phần thanh cao thì, đây mới chính là quan niệm làm
cho con người trở nên bi quan yếm thế không tự chủ trước cuộc sống.
Nhưng đó là quan niệm mệnh trời của Nho giáo mà cụ đưa ra làm tiền đề và,
tiếp theo đó cụ đưa ra quan điểm tự tác tự thọ, của Phật giáo qua nhân
quả báo ứng để kết luận, tức là tự con người làm thì tự con người nhận
lấy cái quả đó, mà phủ nhận cái quyền sinh sát của mệnh Trời kia. Thật
sự nếu có Trời đi chăng nữa thì Trời theo cụ chỉ là một cán cân mà thôi:
“Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả
hai. …”(Kiều)
Như vậy thì Trời đâu có thiên vị
và làm theo ý Trời được, mà phải lệ thuộc vào tác nhân của người tạo ra
mà theo đó mới bắt người chịu những kết quả tương ứng với những tác nhân
trước đó của họ. Vậy thì mệnh Trời đã bị con người tước đoạt rồi,
vì Trời nếu có, bây giờ chỉ làm một cán cân, cân gúp cho con người trong
việc cân tội phước, họa phúc, nặng nhẹ thế nào thôi. Vì vấn đề nặng nhẹ
có được do chính con người tạo ra. Bây giờ con người đại diện cho chữ
tài và Trời đại diện cho chữ mệnh cả hai bình đẳng như nhau trên mặt lý
tính. Ở đây chúng tôi chỉ bàn sơ qua việc này để kết luận cho bài viết
này, việc này chúng tôi sẽ bàn chi tiết hơn trong phần thứ hai, bài kế
tiếp về “Từ Thiên mệnh đến Nhân mệnh” trong truyện Kiều.
……………………………….
* Bài này trích một phần từ bài
viết:
- Nguyễn Du “Từ Thiên mệnh đến
Nhân mệnh” trong truyện Kiều.
**Sách tham khảo:
- Tổng tập Văn Học Việt Nam tập
13, 14.
-
Tố Như thi,
Quách Tấn dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn 1973.
-
Nguyễn Du toàn tập,
Mai Quốc Liên chủ biên, NXB Văn học 1996.
-
Nguyễn Du, niên phổ và tác phẩm
của Nguyễn Thạch Giang
và Trương Chính, NXB Văn hóa
thông tin.
Nguyễn Du toàn tập,
Mai Quốc Liên chủ biên, NXB Văn học 1996.
***