Thể Tính Của Sự Cầu Nguyện
Thích Nguyên Hùng
Tế lễ, cầu nguyện, xin ơn trên phù hộ cho bản thân, gia đình được bình
an hay hoàn thành một điều ước, một tâm nguyện nào đó… là một trong
những sinh hoạt thiết yếu của hầu hết các tôn giáo.
Thời Phật còn tại thế, những nghi thức tế lễ, cầu nguyện rất phổ biến và
thịnh hành trong dân gian. Những đạo sĩ Bà-la-môn, Phạm chí… đều là
những vị thầy giỏi về tế lễ. Và biết tế lễ là một trong những điều kiện
cần và đủ để trở thành một Bà-la-môn cao quý. Theo Kinh Phạm Động, thuộc
Trường A-hàm, thời bấy giờ có rất nhiều tôn giáo, ít nhất là có 62 học
thuyết tôn giáo khác nhau, và vị lãnh đạo tôn giáo nào cũng cho tôn giáo
của mình là đúng đắn, có thể đưa linh hồn con người sau khi chết lên cõi
Trời, sống chung với Phạm thiên. Phương pháp để đạt được điều mà mọi
người hằng mong ước ấy, dĩ nhiên và dựa vào sự cầu nguyện, tế lễ và rửa
tội bằng một hình thức lễ nghi nào đó, như trầm mình xuống dòng sông
Hằng chẳng hạn.
Không ai biết đích thực có Phạm thiên hay không, và tuyệt nhiên tất cả
những người dân bình thường, vốn ít học, ngây ngô, không hề đặt vấn đề
rằng những bậc thầy tế lễ, những Bà-la-môn, Phạm chí đã hiệp thông với
đấng Phạm thiên hay chưa, và có chắc chắn được về với Phạm thiên hay
không, người ta vẫn tin rằng bản thân mình hay người thân của mình sẽ
được trở về cõi Trời nhờ sự cầu nguyện và tế lễ của những bậc thầy kia.
Mà đâu chỉ có những người dân chân lấm tay bùn mới tin như thế? Có không
ít những người có học cũng tin như vậy!
Kinh Trung A-hàm ghi lại rằng, vào một ngày nọ, khi Thế Tôn đang du hóa
tại Na-la-đà và nghỉ đêm trong rừng Nại, khi đêm gần sáng, Già-di-ni,
con trai của A-tư-la Thiên, sắc tướng uy nghi, chói sáng rực rỡ, đi đến
nơi Đức Phật đang thiền tọa, cúi đầu lạy dưới chân Ngài rồi thưa: “Bạch
Thế Tôn, các người Phạm chí rất cao ngạo, họ tự cho ngang bằng Trời, hay
con của Trời, hay là Thiên sứ… Họ cho rằng, nếu có chúng sanh nào mạng
chung, họ có thể làm cho chúng sanh đó tự do qua lại các thiện xứ, sanh
lên cõi Trời. Thế Tôn là Pháp chủ, mong Thế Tôn cũng làm cho chúng sanh
khi mạng chung đi đến thiện xứ, sanh lên cõi Trời”.
Ở đây, chúng ta nhận thấy Già-di-ni tin và hiểu Đức Phật là đấng Pháp
chủ, chắc chắn sẽ có đầy đủ quyền năng và thần thông quảng đại hơn hẳn
các Phạm chí, Bà-la-môn. Hơn nữa, Thế Tôn là thầy của trời người, thì
việc làm cho chúng sanh được qua lại các cảnh giới tốt đẹp hay sanh lên
cõi Trời là điều rất dễ dàng đối với Ngài. Thế nhưng, Già-di-ni chưa bao
giờ nghe Đức Thế Tôn hứa hẹn hay tuyên bố điều đó, như các Phạm chí,
Bà-la-môn đã làm. Và vì vậy, Già-di-ni thỉnh cầu Đức Phật hãy làm như
những Phạm chí, Bà-la-môn, giáo chủ các tôn giáo khác, tức hãy tuyên bố,
hứa hẹn đưa các tín đồ đệ tử của Ngài sanh lên cõi Trời sau khi họ qua
đời.
Đó là niềm tin, là nhận thức, là sự hiểu biết của một công dân nước Trời
về Đức Phật. Chư thiên cõi Trời mà có trình độ hiểu biết như vậy thì
chúng sanh phàm phu ở cõi đời trần tục này làm sao không tin rằng Đức
Phật có thể ban phước, giáng họa cho mình? Vậy mà, sự thật thì Đức Phật
chẳng bao giờ ban phước giáng họa cho ai, Ngài chỉ dạy sống như thế nào
thì được phước, và sống như thế nào thì sẽ tự chuốc họa vào thân.
Đức Phật nói với Già-di-ni: ông nghĩ thế nào? Nếu có một người luôn gây
tạo mười nghiệp ác là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối... cho đến tà
kiến, đến khi người ấy chết, một số đông người đến chắp tay cầu nguyện,
van xin, mong cho người ấy được sanh vào thiện xứ hay sanh lên cõi Trời.
Này Già-di-ni, có phải nhờ vào sự cầu nguyện đó mà người tạo mười nghiệp
ác kia được sanh vào thiện xứ hay sanh lên cõi Trời chăng?
Già-di-ni trả lời không thể nào. Đức Phật kết luận: giống như lấy tảng
đá lớn ném xuống vực nước sâu rồi đứng trên bờ cầu nguyện, hy vọng cục
đá nổi lên, đó là điều không tưởng! Cho nên, mười loại nghiệp đạo bất
thiện là sát sanh, lấy của không cho,
tà dâm, nói dối, cho đến tà kiến, vốn đen, có quả báo đen, tự
nhiên đi thẳng xuống, chắc chắn đi đến ác xứ. Ngược lại, nếu một người
suốt đời tu tập mười nghiệp thiện, đến khi chết,
chắc chắn đến thiện xứ, vì mười
nghiệp đạo thiện là trắng, có quả báo trắng, tự nhiên thăng lên, giống
như đập vỡ hủ dầu rồi quăng xuống nước, hủ bị vỡ, sành cặn chìm
xuống, dầu bơ nổi lên trên.
Rồi Thế Tôn dạy: “Này Già-di-ni, có con đường vườn hoa, con đường thăng
tấn, con đường thiện xứ. Thế nào là lại có con đường vườn hoa, con đường
thăng tấn, con đường thiện xứ? Đó là Thánh đạo tám chi. Từ chánh kiến
cho đến chánh định; đó là tám”.
Rõ ràng, đường đi đến thiện xứ, lên thiên đàng, thành tựu giải thoát là
con đường Bát Thánh đạo chứ không phải bằng vào sự cầu nguyện. Trong
Phật giáo không có chuyện đưa ai lên thiên đường hay đày ai xuống địa
ngục. Đi lên hay đi xuống đều tùy thuộc vào hành nghiệp của mỗi chúng
sanh là thiện hay bất thiện, hay nói cách khác là thực hành hay không
thực hành Bát Thánh đạo.
Nói như thế phải chăng trong Phật giáo hoàn toàn không có sự nguyện cầu?
Và chối bỏ hạnh nguyện độ tha?
Angulimāla không? Xin thầy nhắc lại giúp con”! Thì ra học sinh tiểu học
ở Tích Lan đã được học những bài học đạo đức từ kinh sách Phật giáo, nên
những câu chuyện như chuyện của ngài Angulimāla đều ăn sâu vào tiềm thức
của các em.
Chuyện ấy kể rằng, một hôm tôn giả Angulimāla trên đường đi khất thực
gặp một sản phụ khó sinh, đau đớn, nguy kịch, tôn giả lập tức trở về tu
viện trình bày với Đức Phật. Phật dạy Angulimāla đến đọc cho sản phụ ấy
nghe một paritta, như là câu thần chú cứu nguy, với nội dung: “Kể từ khi
Angulimāla tái sinh trong Thánh đạo này chưa từng cố ý giết hại một sinh
mạng nào, bằng sự thực ấy, ước nguyện sản phụ sinh sản an toàn”. Quả
nhiên, sau khi tụng xong, người sản phụ nọ được mẹ tròn con vuông!
Người dân Tích Lan coi lời cầu nguyện đó của tôn giả Angulimāla là câu
thần chú, có khả năng bảo hộ bình an, tai qua nạn khỏi, nên họ học thuộc
phiên âm bằng tiếng Pāli, và có người trì tụng hằng ngày, như người Việt
Nam tụng chú đại bi. Nội dung của câu thần chú đó có gì bí mật, quá thâm
sâu khó hiểu không? Hoàn toàn không có. Nó chỉ đơn giản là một lời nói
thật, rất chân thật từ trái tim, từ tấm lòng bấy giờ đã tràn ngập sự yêu
thương của tôn giả Angulimāla, và sự thật ấy khi được nói lên đã phát
huy sức mạnh, có thể cứu người thoát khỏi khổ đau ách nạn.
II, Tiểu phẩm Cullavagga) ghi lại sự kiện
những Tỳ-kheo sống trong rừng sâu bị rắn độc cắn chết; Đức Phật hay được
và nói, nếu các Tỳ-kheo ấy đã rải tâm từ đến các loài rắn độc thì nhất
định đã không bị chúng gia hại. Rồi Phật dạy bài kệ với nội dung là
những lời ước nguyện, mong cho tâm từ của hành giả lan đến chúa tể các
loài rắn độc, các sinh vật không chân, hai chân và bốn chân; ước nguyện
các sinh loại đều được an lành, không làm hại Tỳ-kheo. Quả nhiên, từ khi
các Tỳ-kheo đọc tụng lời cầu nguyện mang theo tâm lượng từ bi rải trắp
muôn loài thì không còn bị rắn, rết đến làm phiền nữa.
Kinh Tạp A-hàm cũng ghi lại trường hợp những bà mẹ có
con trẻ thường hay khóc đêm, đem tới tu viện, Đức Phật dạy các Tỳ-kheo
tụng Pháp cú cho nó nghe: “Nếu ai biết Pháp cú, Tự mình hộ trì giới, Xa
lìa sự sát sanh, Nói thật, không nói dối, Tự bỏ điều phi nghĩa, Giải
thoát đường quỷ thần”. Tụng xong, trẻ hết khóc, trở nên dễ nuôi, chóng
lớn! Những bài Pháp cú như thế cũng được xem như là paritta hay thần chú.
Kinh Ratanasuttaṃ
ghi: “Dù trong đời này hay đời khác, hay trên thiên giới, không có tài
bảo vi diệu nào sánh với đức Như Lai. Ở đây, Phật là tài bảo tối thắng
vi diệu. Bằng sự thực này, ước nguyện tất cả đều được an lành”.
Kể trên là những lời kinh nguyện cầu. Rải rác trong kinh điển Nikāya và
Āgama đều thấy xuất hiện các parittam hay hộ chú như thế. Những
lời kinh ấy đều diễn tả, nói lên sự thật hay chân lý và được hiểu là
chân ngôn. Chân ngôn là lời nói chân thật, không hư dối, là phương tiện
để diễn đạt chân lý.
Như vậy, trong Phật giáo không phải là không có sự nguyện cầu, mà tất cả
nội dung của lời nguyện cầu đều phải là lời thật hay chân lý. Tóm lại,
“chân lý là tính thể của sức mạnh kỳ diệu; ai biết nương tựa chân lý,
sống với tâm tư hướng về chân lý, người ấy sống cuộc sống an lành. Đó là
tính thể của sự cầu nguyện” (Tuệ Sĩ – Thiền và Bát nhã). Với ý nghĩa này,
người Phật tử muốn nguyện cầu điều gì, hay cầu an, cầu siêu cho ai… chỉ
cần nói lên sự thật rằng mình đang sống với chánh pháp, đang nương tựa
chánh pháp, thì điều nguyện ấy sẽ có hiệu lực. Chẳng hạn, bạn có thể nói:
con là Phật tử Pháp danh Từ Tâm, từ khi con biết đến Tam bảo và sinh
hoạt ở ngôi chùa này, con chưa từng nói dối, nguyện nhờ sự thật này mà
gia đình con được bình an. Nếu lời nói là sự thật, chắc chắn gia đình
bạn sẽ được bình an, hưởng phước vô lượng!
***