CĂN BẢN THIỀN TẬP
Thích Thông Huệ
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày đầu tiên chuyển
pháp luân tại Lộc Uyển, Đức Phật đã tuyên thuyết một sự thật muôn đời:
con người sinh ra đời gắn liền với sự khổ. Nỗi khổ triền miên đeo đẳng
từ khi con người mới sinh ra cho đến khi nhắm mắt; nên trong vô lượng
kiếp luân hồi, nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước đại dương. Vì sao lại
chịu nhiều khổ nhọc như thế? Đó là vì chúng ta đã quên mình có một nơi
chốn vốn dĩ bình yên. Quê hương ta dẫy đầy châu báu và đủ loại kỳ hoa dị
thảo, vĩnh viễn thanh bình an lạc, nhưng ta lại quên đi để rồi phải chịu
nhiều thống khổ trầm luân. Giờ đây bàng hoàng chợt tỉnh, nghe được lời
Phật dạy tỏ tường về con đường, hướng đi và phương cách trở về quê hương
muôn thuở. Vấn đề còn lại là chúng ta đã thật sự muốn trở về hay chưa?
Nếu chúng ta còn muốn sống kiếp tha phương lưu lạc, còn say men giang hồ
lãng tử, thì có quyền tạo nghiệp và có quyền gánh chịu hậu quả do nghiệp
mình tạo ra. Còn nếu đã nhận rõ, chỉ có cố hương mới là nơi cho chính
mình an trú vĩnh viễn, thì ngay bây giờ, chúng ta hãy thu xếp hành trang
để lên đường!
Quyển sách mỏng này, tuy
chỉ chuyển tải được đôi điều liên quan đến cuộc hành trình tìm về nguồn
cội, nhưng cũng mong được đóng góp vào hành trang thiên lý của những
hành giả tu Thiền. Vì ngôn ngữ văn tự là phương tiện bất toàn, nên chúng
ta hãy đọc nó cùng với sự đồng cảm của nội tâm. Sau đó, chúng ta cùng
nhau nỗ lực tu tập, dìu dắt nhau, giúp đỡ nhau trong công phu, để mọi
người đều được lợi ích. Nếu có được phần nào công đức, tất cả đều thuộc
về những bậc Ân sư vô cùng quí kính của chúng tôi, cùng những huynh đệ
và đạo hữu đã tận tình giúp đỡ chúng tôi; và cũng nguyện hồi hướng về
muôn loài chúng sanh trong cùng khắp pháp giới. Còn nếu có những điều
sai sót, đó là do sở học và công phu của chúng tôi còn nông cạn. Kính
mong các bậc cao minh vui lòng chỉ bảo, để lần tái bản sau này được hoàn
chỉnh hơn.
- Nha Trang, tháng 12 - 2002
- THÍCH THÔNG HUỆ
CẨM NANG CHO NGƯỜI TU THIỀN
Trước khi đi sâu vào
công phu thiền tập, những thiền sinh cần lưu ý một số vấn đề cơ bản, để
lúc dụng công khỏi vướng phải những trở ngại không đáng có. Nhiều người
rất nhiệt tâm, rất tinh tấn tu hành nhưng lại không đạt được kết quả
mong muốn; đó là vì không được hướng dẫn cặn kẽ hoặc chỉ tự học tự tu,
nên dễ thất bại hoặc đi lầm vào ngã rẽ. Do vậy, năm phương pháp điều hòa
sau đây có thể được xem như hành trang cần thiết cho các hành giả tu
thiền:
1.- Điều ẩm thực.
2.- Điều thụy miên.
3.- Điều thân.
4.- Điều tức.
5.- Điều tâm.
1.- Điều ẩm thực
Người xưa có câu: �Họa
tùng khẩu xuất, Bệnh tùng khẩu nhập� (Tai họa từ miệng mà ra, Bệnh hoạn
từ miệng mà vào). Nếu lúc nói năng không cẩn thận, không cân nhắc điều
gì đáng nói điều gì không đáng nói, có thể gây tai họa cho chính mình.
Nếu ăn uống bừa bãi, không hợp lý và hợp vệ sinh, thân thể dễ mắc bệnh
và ảnh hưởng cả đến tinh thần. Vì thế, điều hòa chế độ ăn uống là vấn đề
quan trọng cho tất cả mọi người, càng quan trọng hơn đối với những thiền
sinh.
Điều ẩm thực có ba khía
cạnh cần lưu ý:
* Một là, không nên ăn
quá no và quá nhiều bữa. Bình thường, trong gia đình có ba bữa ăn mỗi
ngày, không kể những bữa phụ khoảng xế chiều và khuya ở những gia đình
khá giả. Trong ba bữa chính, bữa ăn sáng ít được coi trọng nên gọi là “điểm
tâm”; bữa trưa, nếu công việc phải làm theo ca, có thể chỉ ăn qua
loa vài thứ gì đó. Đến chiều, cả nhà tề tựu, có thời gian rộng rãi, mọi
người mới thật sự thưởng thức một bữa ăn đúng nghĩa. Cho nên, các quán
ăn, nhà hàng thường đông khách vào buổi chiều và tối. Cách ăn uống như
vậy có hợp lý không?
Các nhà Dinh dưỡng học
từ lâu đã chứng minh, phần lớn bệnh tật phát sinh do ăn uống không hợp
lý: Bệnh béo phì do ăn quá độ, bệnh Xơ vữa động mạch và Tăng Cholesterol
máu do ăn nhiều mỡ động vật; chưa kể đến các bệnh xơ gan do rượu, ung
thư phổi do thuốc lá hoặc một số bệnh ung thư khác do ăn quá nhiều thịt
nướng... Đây là hậu quả của sự hưởng dục. Mặt khác, theo quan niệm Y học
hiện đại, bữa ăn chính là sáng và trưa, vì con người đã trải qua một đêm
không ăn, sáng phải làm việc nhiều nên cần bù đắp đủ năng lượng cho cơ
thể, nhờ vào bữa “điểm tâm”; còn bữa trưa dùng để cung cấp năng
lượng cho buổi chiều lao động. Đối với bữa ăn chiều, không nên ăn nhiều
vì dạ dày căng quá sẽ gây khó ngủ, hoặc giấc ngủ sẽ nặng nề, nhiều mộng
mị. Ngoài ra, thức ăn được cung cấp trong những giờ chiều và tối thường
biến thành chất mỡ dự trữ, vì ban đêm con người ít tiêu hao năng lượng.
Đây là lý do khiến dễ phát sinh bệnh béo phì.
Những hành giả tu thiền
thường có kinh nghiệm trong vấn đề ẩm thực. Khi ăn no mà ngồi thiền ngay,
dễ bị hôn trầm và dạ dày quá căng làm cản trở sự hô hấp, hơi thở không
được dài sâu và thông nhẹ. Từ đó, tâm khó an, khó đạt được trạng thái
nhập tĩnh. Buổi chiều nếu ăn no, thời tọa thiền ban đêm rất dễ bị vô ký
hay hôn trầm, và sáng sớm ngày mai cũng vẫn còn thấy lơ mơ, không tỉnh
táo. Vì thế, ở các thiền viện trong hệ phái của Hòa thượng Trúc Lâm,
buổi chiều các vị chỉ dùng các thức ăn nhẹ như sữa, bột hoặc cháo.
* Khía cạnh thứ hai,
lại là một cực đoan khác. Một số người chủ trương, muốn diệt dục phải
hành hạ, đè ép thân xác, nên nhịn đói dài ngày hoặc mỗi ngày chỉ ăn một
bữa vừa đủ cầm hơi. Đức Phật, trong quá trình tìm đạo, cũng đã trải qua
sáu năm khổ hạnh trong rừng già; nhưng cuối cùng Ngài tuyên bố, đây
không phải là con đường đúng đắn đưa đến giác ngộ giải thoát. Nếu cơ thể
không được cung cấp đủ dưỡng chất, lâu ngày sẽ bị suy nhược, sức đề
kháng đối với bệnh tật giảm thiểu. Thân suy nhược thì tinh thần đâu còn
minh mẫn, hiệu năng lao động không cao, nói chi đến việc phát triển trí
tuệ. Cho nên, chúng ta cần đi theo Trung đạo, không hưởng dục mà cũng
không khổ hạnh. Thân thể như một phương tiện đưa chúng ta đến mục đích
cuối cùng, ta không cưng chìu nô lệ cho nó nhưng cũng không đè nén hành
hạ nó.
* Vấn đề thứ ba, cũng
là vấn đề nan giải của thời đại văn minh cơ khí. Người ta đã sử dụng quá
nhiều hóa chất, từ khâu trồng trọt hoặc giết thịt, đến công đoạn thu
hoạch hay chế biến, cốt để sản phẩm bảo quản được lâu, có màu sắc và
hương vị hấp dẫn... Chúng ta đã biết có nhiều vụ ngộ độc thức ăn gây tử
vong hàng loạt, như nhiễm thuốc trừ sâu gốc Phosphor hữu cơ do xịt thuốc
trong rau, nhiễm độc hàn the trong nem chả hay củ cải, củ kiệu chua...
Chưa nói đến sự ô nhiễm môi trường và nguồn nước, gây ra rất nhiều
trường hợp nhiễm trùng hoặc độc tố vi trùng từ thức ăn không vệ sinh.
Gần đây, chúng ta đã nghe thông báo về dạng bệnh C.Jakob ở người ăn thịt
bò điên ở Anh, hoặc nguy cơ ung thư do ăn thịt gà và trứng gà nhiễm
Dioxin ở Bỉ. Ngoài ra, tác hại của bột ngọt trên các hệ thần kinh, tiêu
hóa và tim mạch cũng đã được chứng minh. Vì thế, để bảo vệ sức khỏe và
ngăn ngừa bệnh tật, chúng ta phải có một số kiến thức nhất định về vệ
sinh và an toàn thực phẩm, không sử dụng những thức ăn không phù hợp với
tình trạng sức khỏe của bản thân.
Ở đây, cũng cần bàn qua
về khuynh hướng ăn chay, hiện nay đã lan rộng ở nhiều nơi trên thế giới,
đặc biệt tại các nước Âu Mỹ. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học cho
thấy tính chất ưu việt của thực phẩm thực vật đối với sức khỏe của con
người. Trước nhất, hệ tiêu hóa của người, nhất là phần ruột non và ruột
già có cấu tạo giải phẫu thích hợp cho sự tiêu hóa và chuyển hóa thực
vật hơn động vật. Các loại rau có nhiều chất xơ làm tăng nhu động ruột,
giúp tránh chứng táo bón là nguyên nhân của bệnh trĩ và ung thư đại
tràng. Về phương diện bổ dưỡng, thực phẩm thực vật có đầy đủ dưỡng chất
không kém gì động vật, lại được cơ thể dung nạp tốt hơn và ít độc hại
hơn. Nhất là đậu nành, có thành phần đạm (protein) tương đương thịt cá,
giàu acid béo thiết yếu, chứa Phytoestrogen có tác dụng làm hạ
Cholesterol máu.
Những kết quả nêu trên
giải thích được vì sao số người ăn chay sức khỏe tương đối được ổn định.
Nhà bác học Einstein, tác giả thuyết Tương đối đã nói: “Ăn chay rất
có lợi cho sự tiết chế dục vọng và sự thay đổi cuộc sống”. Bác sĩ
Barbara More, vô địch chạy việt dã trong Thế vận hội 1949 lúc 56 tuổi,
là một người ăn chay trường, cũng như lực sĩ Cliff Young người Úc đã
đoạt sáu giải thưởng về môn chạy đường trường trên thế giới.
Đối với người tu, ăn
chay còn có một ý nghĩa cao cả hơn. Trong quá trình luân hồi dài, mọi
chúng sanh đều có thể có sự liên hệ huyết thống, vì nghiệp duyên nên
mang những hình tướng khác nhau, và vì vô minh cách ấm nên không nhớ
những ràng buộc thân cận ở các kiếp trước. Nếu chúng ta ăn thịt cá, biết
đâu vô tình chúng ta ăn phải thịt của bà con quyến thuộc. Một điểm nữa,
Phật dạy tất cả muôn loài đều có Phật tánh bình đẳng không hai không
khác. Chúng ta có thể nào hủy hoại mạng sống của những sinh vật ngang
hàng với mình? Các thiền sinh khi quán chiếu thấy rõ tự tính bình đẳng
của vũ trụ nhân sinh, tất nhiên phát khởi tâm đồng thể đại bi, sẽ cảm
nhận sâu sắc những điều này không khó. Mạnh tử nói: “Kiến kỳ sinh,
bất nhẫn kiến kỳ tử; Văn kỳ thinh, bất nhẫn thực kỳ nhục”. Thật vậy,
nếu đã nhìn thấy động vật lúc còn sống thì không thể nhẫn tâm nhìn chúng
chết; cũng như khi nghe tiếng kêu thảm thiết của chúng thì làm sao ta có
thể nhẫn tâm ăn thịt chúng được?
Nói như thế, không có
nghĩa là chúng ta phải tuyệt đối ăn chay mới tu được. Đây cũng là một
quan niệm cực đoan biên kiến. Ăn chay có lợi cho sức khỏe, giúp phòng
tránh một số bệnh tật và nhất là để trưởng dưỡng lòng từ bi, nhưng không
phải đó là điều kiện tiên quyết đối với người tu, ngay cả tu thiền. Thời
Đức Phật còn tại thế, cũng như các vị Tu sĩ Nam Tông, vẫn dùng được ngũ
tịnh nhục(*), và tu hành vẫn đạt được những kết quả rất cao. Vì không có
tác ý nên không phạm tội sát sinh, lòng từ bi không bị tổn hại. Hàng cư
sĩ tại gia còn nhiều ràng buộc trong gia đình và ngoài xã hội, cũng nên
khéo tùy duyên thế nào để vừa phù hợp với đạo đức, vừa không ảnh hưởng
đến sinh hoạt thường ngày.
2.- Điều thụy miên
Là thiền sinh, chúng ta
cần có điều độ về vấn đề ngủ nghỉ. Ngủ là trạng thái nghỉ ngơi của ý
thức, tức của vỏ não. Nếu thời gian ngủ không đầy đủ, trí óc làm việc
quá độ sẽ bị mệt mỏi, lâu ngày ảnh hưởng đến năng suất hoạt động. Nhiều
trường hợp đột tử do stress cũng là hậu quả của sự căng thẳng thần kinh
và sự thiếu ngủ trầm trọng trong thời gian dài. Ngược lại, người ngủ
nhiều quá lại làm giảm sự nhạy bén, trí thông minh và sức phán đoán
trước các tình huống bên ngoài.
Ở đây, chúng ta cũng
cần biết một vài điều liên quan đến giấc ngủ, để tự mình có thể điều
chỉnh nhịp độ sinh học cho chính mình. Bởi vì, trong cuộc sống hối hả
với cường độ lao động cao, nhiều loại hình giải trí gây căng thẳng kích
động thần kinh hơn là làm yên tĩnh thoải mái, chưa kể những xáo trộn bất
an của trật tự xã hội bên ngoài, con người khó thể tìm được sự bình ổn
cho thể chất và tinh thần. Bệnh mất ngủ vì vậy đã chiếm một tỷ lệ khá
cao, nhất là ở người lớn tuổi và làm việc trí óc. Và chỉ tính riêng ở Mỹ,
các tai họa do thiếu ngủ gây ra đã làm 25.000 người thiệt mạng, gây
thương tật vĩnh viễn cho 2,5 triệu nạn nhân và tổn thất đến 56 tỷ Mỹ kim
mỗi năm! Chúng ta còn nhớ vụ nổ phi thuyền con thoi Challenger khi mới
rời khỏi mặt đất 2 phút, làm toàn bộ phi hành đoàn 7 người tử vong,
trước sự chứng kiến của hàng triệu khán giả đang xem trực tiếp truyền
hình. Nguyên nhân vụ nổ rất đơn giản: 13 vị quản đốc then chốt đã phải
tăng giờ làm việc căng thẳng trong một thời gian dài, mỗi đêm chỉ ngủ
được 4 tiếng. Do thiếu ngủ, không nhận ra những điểm bất tường qua các
số liệu thống kê, các vị đã sai lầm khi quyết định ra lệnh phóng phi
thuyền!
Như vậy, giấc ngủ rất
quan trọng cho sự sống của sinh vật nói chung và loài người nói riêng.
Số giờ ngủ mỗi ngày tùy theo lứa tuổi và theo từng cá nhân, nhưng trung
bình là 8 tiếng (1 tiếng vào buổi trưa và 7 tiếng buổi tối); trừ những
trường hợp đặc biệt, có thể ngủ ít hơn với giấc ngủ sâu, cũng có thể đầy
đủ đối với nhu cầu của cơ thể. Các vị tu thiền đạt được tình trạng an
định, thường không cần ngủ nhiều mà vẫn mạnh khỏe, tinh thần vẫn rất
sáng suốt. Giờ đi ngủ tốt nhất là bắt đầu từ lúc 21 - 22 giờ, vì một
tiếng đồng hồ ngủ trước 12 giờ khuya có chất lượng gấp đôi so với giờ
ngủ sau 12 giờ. Tại các Thiền viện, giờ an nghỉ ban đêm bắt đầu từ 21
giờ 30 đến 3 giờ 30, các vị có thể tọa thiền mà vẫn tỉnh táo, khỏe khoắn.
Dấu hiệu cho biết có ngủ đủ hay không, là sự tươi tỉnh và thoải mái vào
ban ngày.
Đối với người lớn tuổi,
thời gian và chất lượng giấc ngủ thường kém hơn người trẻ. Đây là hiện
tượng sinh lý tự nhiên, nếu không ảnh hưởng đến sức khỏe và năng suất
lao động. Nếu mất ngủ thường xuyên hoặc rối loạn giấc ngủ (thường thức
giấc giữa đêm và khó dỗ giấc ngủ trở lại), trước nhất chúng ta nên áp
dụng một số biện pháp không dùng thuốc như sau:
1- Tập đi ngủ và thức
dậy vào một thời điểm nhất định.
2- Tránh uống các loại
kích thích thần kinh vào buổi chiều và tối như cà phê, trà, nước giải
khát có coca như Coca-cola, Pepsi...
3- Chuẩn bị chỗ ngủ
thích hợp nếu có điều kiện, tránh nóng hay lạnh quá, giảm thiểu ánh sáng
và tiếng động. Trong bóng tối, chất Melatonin được tiết ra khiến con
người dễ vào giấc ngủ. Nếu nhiều ánh sáng, sự tiết Melatonin bị ức chế
gây khó ngủ.
4- Phòng ngủ và giường
ngủ chỉ là nơi để ngủ không phải để làm việc hay giải trí. Vì thế, không
xem sách báo hay giải quyết công việc làm khi đã chuẩn bị đi ngủ, càng
không nên để các máy truyền hình, video, cassette trong phòng ngủ. Nhiều
nghiên cứu gần đây cho thấy sự tác hại của trường điện từ phát sinh từ
những máy móc điện tử, đối với giấc ngủ và với sức khỏe của con người,
khi đặt chúng gần chỗ ngủ.
5- Không nên để quá no
hoặc quá đói trước khi đi ngủ. Giữa ăn uống và ngủ nghỉ có sự liên hệ
mật thiết. Buổi chiều nếu dùng các thức ăn nhẹ, chúng ta có thể chỉ cần
ngủ 5 - 6 tiếng, thức dậy vẫn tỉnh táo. Nếu chiều ăn quá no, đêm đó dù
ngủ nhiều, chúng ta vẫn thấy mệt mỏi uể oải.
6- Người thường xuyên
khó ngủ về đêm, nên tránh ngủ trưa, chỉ nằm nghỉ ngơi mà thôi. Nếu ban
đêm ngủ được thì giấc ngủ ngắn vào buổi trưa lại có lợi cho sức khỏe.
7- Tập thể dục, dưỡng
sinh, đi bộ đều đặn hàng ngày, nhưng tránh vận động thể dục trước khi
ngủ vì gây kích thích thần kinh. Đối với các thiền sinh, việc tọa thiền
là một phương pháp tuyệt hảo giúp phòng chống căng thẳng, kích động tinh
thần, ổn định về tâm-sinh lý và điều hòa các cơ quan chức năng trong cơ
thể.
8- Nếu trằn trọc lâu
vẫn không ngủ được, thử áp dụng kỹ thuật Bootzin: Rời khỏi giường, đi
sang phòng khác và ngồi đó cho đến khi cảm thấy buồn ngủ mới trở lại
giường. Trong đêm có thể làm như vậy nhiều lần cho đến lúc ngủ được. Mục
đích để tập một phản xạ: giường ngủ không phải là nơi nằm trăn trở qua
lại, mà là nơi để ngủ một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Bên cạnh các biện pháp
trên, chúng ta có thể sử dụng các cây thuốc theo kinh nghiệm dân gian có
tính an thần, như tim sen, nhãn lồng, cây trinh nữ, lá vông nem..., sắc
hay nấu nước uống hàng ngày. Đối với các thuốc Tây y, chỉ nên dùng khi
có ý kiến của thầy thuốc, vì có nhiều tác dụng phụ ngoại ý.
3.- Điều thân
Nói chung, điều thân
gồm điều hòa qua 4 oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi; lúc tĩnh cũng như lúc
động; khi nghỉ ngơi cũng như khi làm việc. Mọi thời điểm, mọi nơi chốn,
dù chỉ có một mình hay nơi chỗ đông người, chúng ta đều phải có một
phong thái ung dung, thảnh thơi của một thiền sinh biết an trú tâm vào
giờ phút hiện tại.
Người xưa thường dùng
câu: “Hành như hổ, tọa như sơn” (Đi như cọp, ngồi như núi) để
diễn tả cách đi đứng nhẹ nhàng và cách ngồi vững chãi ngay ngắn của
người có sức tự chủ cao. Một hành giả tu thiền, khi tâm định tĩnh, tinh
thần lực mạnh mẽ, cũng toát lên một vẻ an lạc và vững vàng như thế.
Điều thân có nhiều vấn
đề rất chi ly, nhưng tựu trung vẫn phải ở trong Trung đạo. Đối với tứ sự
(ăn, mặc, ở, bệnh), chúng ta phải khéo tùy duyên, thọ dụng thế nào cho
thích hợp với đặc điểm bản thân và với môi trường chúng ta đang sống.
Nhất là người tu, cần có sự tỉnh giác trong cách nói năng, giao tiếp,
làm sao vừa đảm bảo oai nghi tế hạnh lại vừa trọn vẹn ý nghĩa Đồng sự
nhiếp. Mới nghe, chúng ta nghĩ đây là điều khó thực hiện, nhưng nếu có
công phu thiền tập, chúng ta tự nhiên sẽ có sức sống rạt rào và lại uyển
chuyển phù hợp với cuộc đời. Ngay cả khi đau ốm, chúng ta vẫn biết rõ
nỗi khổ sở của thân, nhưng nhờ thắp sáng chánh niệm trên cơn đau, theo
dõi cơn đau từ lúc hình thành đến khi biến mất, chúng ta có thể ôm ấp nó,
và cuối cùng chuyển hóa nó. Đây là cách tu trong hoàn cảnh bệnh tật. Nói
như thế, không có nghĩa là khi đau ốm, chúng ta không lo điều trị thuốc
thang; càng không phải dùng thiền định như một phương tiện chữa bệnh.
Ngày xưa, đức Phật vẫn có y sĩ chăm sóc sức khỏe cho Ngài và các vị đệ
tử; thì ngày nay, khi bệnh tật gia tăng về chủng loại và về mức độ trầm
trọng, liên quan đến sự ô nhiễm môi trường và lối sống buông thả hưởng
thụ, chúng ta há không cần đến sự giúp đỡ của đội ngũ các thầy thuốc
được sao?
Một điểm rất quan trọng
trong điều thân đối với các thiền sinh, là vấn đề tọa thiền. Có người
chủ trương, thiền là phải áp dụng trong mọi thời mọi lúc, nên xem nhẹ
việc tọa thiền. Có người dùng câu nói của Lục Tổ Huệ Năng “Đạo do tâm
ngộ chứ không phải do ngồi” hoặc câu chuyện “mài gạch không làm
thành gương, như ngồi thiền không thành Phật được” của Tổ Nam Nhạc
khai thị cho Mã Tổ Đạo Nhất, để bài bác qui định nghiêm nhặt về thời
khóa tọa thiền tại các Thiền viện. Thật ra, đối với người đã ngộ được
bản tâm thanh tịnh của chính mình, hàng giây phút sống miên mật với nó,
thì đó đã là thiền, không cần ấn định tư thế hoặc thời điểm công phu.
Còn đối với những người sơ cơ, nhất là các Phật tử, nhiều gia duyên ràng
buộc, sáu căn luôn dính mắc với sáu trần, nếu không có những giờ yên
tĩnh tránh duyên, làm sao nhìn rõ những vọng tưởng hư dối từ lâu lôi kéo
mình vào vòng sinh tử?
Tùy theo hoàn cảnh và
sức khỏe, chúng ta có thể sắp xếp tọa thiền từ 1 đến 3 lần mỗi ngày.
Những chi tiết về phương pháp công phu, chúng ta sẽ khảo sát trong các
mục sau. Nói chung, cần chú ý tư thế lúc tọa thiền: Thế ngồi vững chãi
và khoan thai, khuôn mặt tươi vui và từ hòa. Suốt thời gian ngồi thiền,
thân phải bất động. Đây là cách làm chủ được thân để tiến đến làm chủ
tâm. Nếu có điều kiện, nên tổ chức cộng tu. Nhiều bạn đạo cùng tọa thiền,
nhờ tâm lực của đại chúng có thể phát sinh một từ trường rất có ích. Khi
thân bất động, tâm không dong ruổi theo các pháp cũng không vô ký hay
hôn trầm, sẽ dễ dàng đạt được trạng thái nhập tĩnh. Lúc ấy, tất cả chức
năng của cơ thể đều hoạt động chậm lại nhưng đều đặn và thông suốt, khí
huyết vận hành tốt hơn. Đây là một điều lạ vì thông thường, chúng ta
tưởng khi thân hoạt động thì các cơ quan tạng phủ sẽ làm việc tốt hơn
lúc thân ngồi bất động. Nhưng ai có công phu đều thấy rõ, khi ngồi đúng
phương pháp và có kết quả, một lúc lâu chúng ta sẽ cảm giác được hơi ấm
tỏa lan khắp châu thân. Lúc xả thiền, chúng ta thấy khỏe khắn, thoải mái,
tinh thần minh mẫn và hăng say làm việc. Điều này giải thích tại sao
trong các cơ quan xí nghiệp ở Âu Mỹ và Nhật bản, thậm chí trong các trại
giam, người ta tổ chức tọa thiền mỗi ngày trước giờ làm việc. Kết quả là
năng suất lao động cao hơn, kỹ luật được tuân thủ tốt và tỉ lệ các phạm
nhân trốn trại hoặc tái phạm tội giảm đi đáng kể.
4- Điều tức
Điều tức là điều tiết
hệ hô hấp, biểu hiện trên hơi thở. Sự điều hòa này tế vi hơn ba phần nói
ở trên; và chỉ khi điều hòa được những cái thô, lần lần mới có thể ảnh
hưởng trên các lĩnh vực vi tế là hơi thở và tâm.
Hơi thở được chia làm 4
tướng:
a.- Phong tướng:
Hơi thở thô, phát ra âm thanh phì phò, thân cử động theo hơi thở ra vào,
người bên cạnh có thể nhận thấy. Đây là tướng không tốt, biểu hiện sự
không thông suốt ở đường hô hấp. Thường thấy ở người bị suyễn, viêm phế
quản mãn tính và chưa biết phương cách điều tức.
b.- Suyễn tướng:
Hơi thở không phát ra âm thanh nhưng có vẻ ngưng trệ, ra vào khó khăn.
Nguyên nhân có thể do ăn quá no, suy nhược cơ thể, một số bệnh tim mạch
và hô hấp. Hai tướng trạng trên đây không nên có ở thiền sinh, cần tìm
nguyên nhân để giải quyết.
c.- Khí tướng:
Hơi thở không phát ra âm thanh, ra vào thông suốt, nhưng chưa đạt được
trạng thái tế vi và điều hòa. Đây là loại hình thường thấy nhất, nhưng
đối với thiền sinh, khí tướng chưa phải là tướng thở tốt.
d.- Tức tướng:
Đây mới đúng là tướng cần có của hơi thở. Người có tức tướng, lúc thở ra
vào không phát ra âm thanh, thông suốt, nhẹ nhàng, điều hòa và dường như
có dường như không. Hành giả lúc tọa thiền, chánh niệm trên hơi thở, tức
bám sát nhận diện mà không cưỡng ép nó, tự nhiên sẽ thở sâu, chậm lại và
nhẹ nhàng. Khi định đã sâu, hơi thở rất êm nhẹ như có như không, người
bên cạnh khó thể nhận biết. Lúc hành giả đến được giai đoạn này, tức đến
trạng thái cuối cùng của định, có thể bặt luôn hơi thở và giữ nguyên
hiện trạng trong thời gian dài mà vẫn sống.
Theo Trí Khải Đại Sư: “Giữ
phong thì tán, giữ suyễn thì kết, giữ khí thì nhọc, giữ tức thì vào định”.
Nếu hơi thở theo phong tướng, tâm sẽ tán loạn; theo suyễn tướng thì
không khí ra vào bị ngưng trệ, không thông suốt; giữ khí tướng tức còn
dùng sức tâm duy trì trên hơi thở, nên gây mệt nhọc nếu tọa thiền lâu. Ở
tức tướng nghĩa là vào định, hành giả thấy nhẹ nhàng an lạc nên muốn duy
trì mãi trạng thái này, vì không có gì trên đời có thể so sánh được.
Thật vậy, chỉ mới ở mức độ Sơ thiền, hành giả đã cảm nhận một sự an lạc
bằng 16 lần hơn những khoái cảm của ngũ dục.
Về phương diện y học,
chúng ta biết con người là một hệ thống hoàn chỉnh, và mỗi bộ phận đều
có liên hệ hỗ tương với những bộ phận khác trong cơ thể. Đặc biệt là hệ
hô hấp, có thể xem là một bộ phận quyết định của sự sống. Khi thở vào,
chúng ta đưa dưỡng khí (Oxy) vào phổi, từ đây hệ tuần hoàn sẽ đưa khí
này đến nuôi tất cả các tế bào trong cơ thể. Chất thán khí (CO2) thải ra
từ quá trình chuyển hóa sẽ được dòng máu chuyển tải đến phổi và thở ra
ngoài. Nếu hô hấp ngừng lại, tất cả các bộ phận khác đều ngưng hoạt động,
con người sẽ tử vong. Vì thế, điều hòa hơi thở là một vấn đề quan yếu
cho cả thân lẫn tâm. Điều tức có kết quả sẽ giúp phòng chống được nhiều
bệnh về hô hấp, tim mạch, tiêu hóa; đặc biệt là một liệu pháp tốt ngừa
chứng căng thẳng thần kinh (stress) đang chiếm một tỷ lệ khá cao trên
thế giới.
5.- Điều tâm
Điều tâm là điều hòa và
chế ngự loạn niệm, tức những tư tưởng lăng xăng lộn xộn tiếp diễn mãi
không dừng. Khi tâm an định, hành giả vẫn tỉnh táo nhưng không loạn động,
yên tĩnh nhưng không vô ký. Lúc này, vỏ não không hoạt động, nhường chỗ
cho trung não, nên ý thức lặng nghỉ và trực giác phát sinh. Hành giả cảm
nhận một sự khinh an hỉ lạc diệu kỳ, và chính trạng thái này kích thích
vị ấy tiếp tục miên mật công phu. Có thể nói, nhập định là một tình
trạng toàn bích của tinh thần, giúp tăng cường ký ức và trí thông minh,
kiện toàn về tâm-sinh lý, đồng thời có tác dụng tốt lên tất cả các bộ
phận khác của cơ thể. Người có công phu thiền tập rất nồng nhiệt với
cuộc sống, năng suất lao động cao và trầm tĩnh trước những thử thách trở
ngại thường ngày. Họ cảm thấy hạnh phúc dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, nên
muốn san sẻ niềm hạnh phúc ấy cho mọi người xung quanh. Đây là tiền đề
của lòng từ bi - ban vui và cứu khổ.
Điều tâm là lĩnh vực vi
tế nhất và quan trọng nhất đối với một thiền giả. Nhà Thiền nói: “Ngoài
tâm cầu Phật là ngoại đạo”. Chúng ta đều biết, lúc Phật thành đạo
dưới cội cây Tất-bát-la sau 49 ngày đêm thiền định, Ngài đã thốt lên
rằng: “Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có bản tâm thanh tịnh thường
nhiên, cớ sao cứ mãi trôi lăn trong vòng sinh tử?” Và cũng chính vì
thấy rõ mọi chúng sanh đều có chánh nhân thành Phật, nên Ngài đã bỏ trên
40 năm trường, vượt hàng muôn dặm để giáo hóa và khai thị cho biết bao
hạng người. Theo gương Ngài, chư vị Tổ sư và hàng hàng lớp lớp các bậc
cao tăng đã không tiếc công sức, đem ánh sáng chánh pháp soi rọi cho
muôn loài, trên bước đường tu Bồ tát hạnh, hành Bồ tát đạo. Chúng ta có
diễm phúc mang thân người, lại được thấm nhuần chánh pháp, không thể nào
cô phụ công ơn Thầy - Tổ, cô phụ tánh linh của chính mình mà không nỗ
lực tu tập. Tu ở đây có nghĩa là nhận ra và sống với bản tâm thanh tịnh
của chính mình, cho nên cần nhấn mạnh: Tu là tu tâm, Ngộ là ngộ tâm,
Chứng là chứng tâm, và khi thành Phật cũng chỉ là thành tựu bản tâm hằng
tri hằng giác ấy.
Năm lĩnh vực cần điều
hòa đã nói trên đây là hành trang cần thiết cho các thiền sinh trên bước
đường tu tập, chúng hỗ trợ cho đời sống của chúng ta ngày một tốt đẹp
hơn. Ba lĩnh vực đầu (ăn uống, ngủ nghỉ và thân) là áp dụng chung cho
mọi người để giữ gìn sức khỏe, phòng tránh một số bệnh tật. Đối với
những hành giả tu thiền, hai lĩnh vực hơi thở và tâm là quan trọng bậc
nhất, nếu muốn công phu có kết quả và không đi lầm vào ngã rẽ. Phương
pháp dụng công để điều hòa tâm và hơi thở, chúng ta sẽ lần lượt khảo sát
trong những phần sau. Một điều nên nhớ: chúng ta không thể chỉ tu vài
tháng, vài năm mà mong đạt đến quả vị cuối cùng, cho nên tư tưởng mong
cầu hay nóng vội đều không đúng. Ngược lại, cũng không phải chờ đến lúc
chết hay qua kiếp sau mới tìm được sự an lạc bình ổn nội tâm. Tịnh độ
chỉ có ở tại đây và bây giờ. Luôn sống trong chánh niệm, an trú vào giờ
phút hiện tại, chúng ta sẽ có được bình an. Nếu không được như vậy,
chúng ta phải tự kiểm nghiệm lại mình để khắc phục những thiếu sót, sửa
chữa kịp thời những lệch lạc. Thiền sinh luôn cần có thầy và bạn để
hướng dẫn và giúp đỡ mình trong công phu, sao cho tất cả đều vững vàng
về lý thuyết và hành trì. Điều này cho thấy sự cần thiết của những đạo
tràng gồm các Phật tử đồng tu. Những người tự cho mình đã ngộ được bản
tâm, có thể một mình tiến tu mà không cần ai giúp đỡ, cần phải xoay lại
xem xét một cách thấu đáo và thành thật với chính mình. Người xưa có câu:
“Hổ ly sơn hổ bại, Tăng ly chúng Tăng tàn”. Hổ là chúa sơn lâm,
lìa khỏi rừng còn thua các loại thú khác. Chúng ta là người tu, nhất là
cư sĩ tại gia mỗi ngày đều chịu sự cám dỗ của những thú vui trần thế, có
thể nào không nhờ bạn đạo mà vững tiến được sao?
DỪNG BƯỚC ĐI HOANG
Một nhà thơ đã viết:
“Hỡi Thượng Đế, xin
cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi đà một
kiếp đi hoang”.
Mang số phận kẻ tha
hương, một ngày nhìn lại nỗi cô đơn trống vắng của mình, nhà thơ muốn
tìm an ủi nơi Thượng Đế. Chỉ mới ý thức mình chịu một kiếp đi hoang mà
ông đã thấy đau khổ cùng cực, thì nếu ngẫm lại lời Đức Phật dạy về thân
phận con người, chúng ta có những ý nghĩ gì?
Tất cả chúng sanh đều
như gã cùng tử trong Kinh Pháp Hoa. Cha là trưởng giả nhưng con lại lang
thang làm kẻ không nhà, chịu nhiều tai ương thống khổ. Mọi người chúng
ta, ai cũng có một quê hương thanh bình an lạc, một gia tài đồ sộ tự do
sử dụng; nhưng lại quên đi, để rồi trong vô lượng kiếp đắm chìm trong
luân hồi sinh tử. Đây là số phận đau thương của con người.
Chư Phật - Bồ tát đã
yên ổn nơi quê hương muôn thuở, nhìn chúng sanh còn lặn hụp trong biển
khổ trầm luân, nên khởi lòng đại từ đại bi, phát đại nguyện ra tay tế độ.
Chúng ta bây giờ có duyên cùng Phật pháp, được thấm nhuần ơn pháp vũ của
các Ngài, cũng nên lên đường trở về quê hương. Muốn thế, trước tiên
chúng ta phải biết rõ đường hướng, sau đó trang bị đầy đủ tư lương; để
cuộc hành trình, dù xa diệu vợi, nhưng cũng có ngày đưa chúng ta đến
đích cuối cùng.
I- NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ
CỦA CHÁNH NIỆM
Trong chữ Hán, Niệm ( )
gồm hai phần: trên là chữ (hiện tại), dưới là chữ Tâm (lòng dạ, tư tưởng),
nguyên nghĩa là đặt tâm vào giờ phút hiện tại. Muốn khẳng định nghĩa này
người xưa thêm vào chữ chánh, tức chánh niệm, để phân biệt với thất niệm
là tâm dong ruổi theo trần cảnh ngoại duyên.
Như vậy, nội dung thứ
nhất của chánh niệm là an trú tâm vào thời điểm tại đây và bây giờ, để
nhận rõ những sự vật hiện tượng xảy ra xung quanh ta. Đây là sự thấy
biết không qua phân tích, suy luận, so sánh - là hành vi của ý thức,
thấu suốt tất cả các pháp trong tận cùng uyên nguyên của chúng. Vì không
qua lăng kính phân biệt nhị nguyên, nên sự soi sáng các pháp bằng chánh
niệm là cái thấy biết như thật, đúng ý nghĩa của “Như thị tri, như
thị kiến” trong Kinh Pháp Hoa, của “Tuệ tri” trong Kinh Niệm
Xứ, của “Cái Biết” theo chư vị Tổ Sư Thiền ngày xưa và Thiền phái
Trúc Lâm ngày nay.
Nội dung thứ hai của
chánh niệm, là sự dừng lại để trở về. Con người chúng ta thường nhớ nghĩ
về quá khứ và mơ mộng đến tương lai. Dù kỷ niệm buồn đau hay vui sướng,
chúng ta đều mãi nâng niu ôm ấp nó. Chúng ta cũng hy vọng về một ngày
mai tươi sáng hơn hôm nay, và ấp ủ hy vọng ấy như một nguồn an ủi trong
cuộc sống. Tâm chúng ta luôn luôn chạy theo những gì đã qua hoặc chưa
đến mà quên mất giờ phút hiện tại đang là, không biết rằng mảnh đất thực
tại mới là nơi có thể an trú vững chãi. Thực tập chánh niệm là dừng tâm
dong ruổi lại, không chạy đuổi theo những bóng dáng không thật ấy nữa mà
xoay về chính mình. Mục đích là nhận diện rõ những tâm hành sinh diệt,
cùng những biến đổi từ thô đến tế của các bộ phận trong cơ thể. Đây là
tinh thần phản quan tự kỷ, giúp chúng ta có một cái nhìn đúng đắn về
thân và tâm mình, chỉ là duyên sinh giả hợp, không thực có, không thường
còn. Chúng ta sẽ thao thức muốn biết đâu là con người thật xưa nay của
mình, đâu là quê hương muôn đời bí mật mà từ lâu mình quên lãng.
Dù chúng ta theo pháp
môn nào, chánh niệm vẫn là nền tảng trong việc tu hành. Trong pháp môn
Tịnh Độ, tâm hành giả gắn chặt vào Lục tự Di-Đà đến nhất tâm bất loạn;
Mật tông trì câu chú đến Tam mật tương ưng; nhà Thiền áp dụng cách miên
mật theo dõi hơi thở hay vọng niệm dấy khởi... Các pháp môn tuy có những
phương tiện tu tập khác nhau và không sử dụng cùng một từ ngữ, nhưng tựu
trung đều là tinh thần của chánh niệm. Có thể nói, chánh niệm là con
đường đúng đắn để trở về cố hương, còn thất niệm là sống kiếp cùng tử
không nhà.
- Phật dạy:
Quá khứ không
truy tìm
Tương lai không
ước vọng
An trú trong
hiện tại
Do vậy sắc thù
diệu.
Nếu không truy tìm về
quá khứ hay ước vọng về tương lai, tỉnh thức và an trú trong hiện tại,
chúng ta không bị trần cảnh chi phối. Sắc diện trở nên tươi nhuận vì đời
sống nội tâm sung mãn. An lạc là kết quả đầu tiên khi thực hiện chánh
niệm. Vì sao được như thế? - Khi ý thức không phiêu lưu vào thế giới của
điên đảo mộng tưởng, dừng tâm lại để nhận định rõ thực tại, chúng ta sẽ
thấy mình vô cùng hạnh phúc vì có thể thưởng thức mọi điều hay đẹp của
thiên nhiên, vì hoàn cảnh của mình còn tốt hơn bao nhiêu người khác, vì
chúng ta là chủ nhân của toàn thể vũ trụ bao la. Chúng ta sẽ rất hồn
nhiên đi trong cuộc đời, vượt lên trên tất cả mọi điều thăng trầm, vinh
nhục, đắc thất. Chúng ta sẽ thấy giải thoát là tự nhiên và có sẵn ngay
trong thế giới phàm tục này; và mọi hành động, mọi cử chỉ của chúng ta
đều là những nghi lễ thiêng liêng trong tôn giáo. Chúng ta sẽ có rất
nhiều thời giờ để tu, vì chánh niệm có thể thực hiện trong mọi tình
huống, mọi hoàn cảnh, vào bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu.
Nhiều người cho rằng,
tu Thiền là phải làm ra vẻ đạo mạo khác người, mọi lời nói hành động đều
phải chứng tỏ cho mọi người biết mình là thiền giả. Không cần phải giả
trang tăng tướng như thế. Có an lạc nội tâm, tự nhiên chúng ta có được
phong cách bình thường và lặng lẽ của một người đi trong dòng đời mà
không bị sóng đời xô đẩy. Bình thường không phải là tầm thường, đây là
sự hồn nhiên và khéo tùy duyên tương ưng với tự tánh. Có an lạc nội tâm,
chúng ta sẽ thấy mỗi phút giây là một viên ngọc quí. Trong đời tu, có
bao nhiêu phút giây an trú trong thực tại là chúng ta có được bấy nhiêu
viên ngọc quí. Như thế, có phải ngay trong hiện đời, chúng ta đã nhiều
lần bước từng bước trên đất thất bảo không? Những hình ảnh lung linh
huyền diệu trong các kinh điển Đại thừa như nước tám công đức, đất bảy
báu, cây bằng vàng ròng..., đã hiển hiện trong thực tế, và Tịnh Độ cũng
chính là cõi Ta Bà.
Kinh Pháp Hoa kể về một
kẻ cùng tử bỏ cha đi hoang, nhưng người cha lúc nào cũng thương nhớ đứa
con hư của mình. Chúng sinh quên Phật, nhưng Phật không bao giờ bỏ chúng
sinh. Chúng ta quên mất tự tánh bản lai do chạy theo trần cảnh, sống
bằng thức giác, nhưng bản tâm thanh tịnh ấy vẫn hằng hữu nơi mỗi người.
Theo trần cảnh quên bản tâm (bối giác hiệp trần) là chúng sinh, đắm chìm
trong sinh tử; nếu quay lưng với trần cảnh sống lại với bản tâm (bối
trần hiệp giác) là đồng với chư Phật. “Thủy lưu quy đại hải, Nguyệt
lạc bất ly thiên”. Nước chảy mãi, cuối cùng cũng về biển cả; trăng
dù lặn cũng không ra khỏi bầu trời. Sóng không rời khỏi biển chân như,
cũng như trăng không ra được bầu trời tự tánh; như bóng theo hình, như
vang theo tiếng. Tự tánh vốn thanh tịnh nhưng bị khách trần làm ô nhiễm,
như gương vốn trong và sáng, do bụi bặm bám đầy nên không soi tỏ được
mọi vật. Lâu nay chúng ta cứ buông lung tâm ý và nhìn sự vật bằng ý thức
phân biệt nhị nguyên, nên không thấy được sự thật tuyệt đối hằng hữu của
chính mình và của vạn pháp. Giờ đây, lắng sâu tâm thức, theo dõi từng
hành động của thân và từng chuyển biến sinh diệt nơi tâm, vào một thời
khắc nào đó, tự nhiên cánh cửa bí mật trong lòng muôn pháp sẽ mở toang.
Chúng ta sẽ thấy một cách thấu thể mọi sự mọi vật trong tận cùng nguồn
cội của chúng. Chúng ta sẽ biết rõ bộ mặt thật xưa nay của chính mình.
Nó không có hình tướng nên không bao giờ sinh diệt, lúc trải rộng thì
trùm khắp vũ trụ vô biên, khi thu lại chỉ trên đầu ngọn cỏ. Nó không
biết nhưng không có gì là chẳng biết (Bát Nhã vô tri nhi vô bất tri).
Mọi pháp như dòng sông,
trôi chảy mãi không ngừng, nhưng chứng ngộ là chứng vào sát-na bất động.
Thời điểm chứng ngộ chỉ trong một sát-na nhưng có tính cách vĩnh hằng,
nên gọi là “Một niệm muôn năm”. Nhà Thiền có từ “Sát na tam-muội”.
Tam muội là chánh định, chánh định này cũng vĩnh viễn ở trong “sát-na-bất-động-hiện-tại”
ấy; và Chánh niệm là phương tiện thù thắng nhất để chúng ta có thể nhảy
thẳng vào rồi an thân lập mệnh nơi Sát-na bất động đó. Kinh Phổ Diệu
diễn tả sự chứng ngộ của Đức Phật khi sao Mai vừa mọc, một ngày của hơn
hai ngàn năm trăm năm trước: “Bỗng nhiên trong một niệm bừng lên, Bồ
tát phóng chiếu trí giác vào toàn thể thế gian và chứng đắc giác ngộ tối
thượng”.
II- MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN TRONG CÔNG PHU
Trước tiên, chúng ta
cần hiểu rõ sự quan trọng của một cuộc sống có kỷ cương, có phép tắc, có
giới luật, nhất là đối với người xuất gia. Nếu không có kỷ luật tu hành,
chúng ta khó khắc phục được dục vọng phiền não. Bởi vì, vọng tưởng ý dục
như con trâu điên, có thể dụ dỗ, lôi kéo ta vào đường ma lối quỷ. Nhiều
người muốn thực hiện sự trở về, nhưng tập khí ngàn đời cứ đưa đẩy họ vào
đường luân lạc, vì không khéo tổ chức một cuộc sống khuôn khổ, nề nếp.
Vì thế, lúc sắp nhập Niết-bàn, Đức Phật đã dạy các vị đệ tử phải lấy
giới luật làm Thầy. Trong tranh chăn trâu của nhà Thiền, giới luật cũng
được tượng trưng bằng sợi dây buộc mũi.
Một số người hiểu Thiền
một cách sai lạc, cho rằng lời dạy “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ, Hồn
nhiên mặc áo xiêm” hoặc “Đói ăn mệt ngủ” của các Thiền sư có
nghĩa là, Thiền chủ trương tự do thoải mái, không cần theo phép tắc lễ
nghi. Thật ra, tự do không phải là buông lung phóng dật, muốn làm gì thì
làm. Tự do không thể tách rời kỷ cương, đạo lý - dù trong đời sống
thường nhật hay trong nhà đạo. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu không gìn
giữ giới luật, dù đạt được Thiền định, cũng rơi vào lưới ma”. Đối
với các vị Tổ sư, do đã nhận ra và hằng sống với Phật tánh của chính
mình, nên cái “hồn nhiên”, cái “tùy duyên” ấy phát xuất từ
tự tánh và biểu hiện ra hành động. Các Ngài sống một cách tự do tự tại,
ngược-xuôi thuận-nghịch gì cũng đều hợp đạo lý. Còn chúng ta, khi chưa
hoàn toàn sống được với bản tâm thì không bao giờ quên những giới luật
phải gìn giữ, không bao giờ được đồng hóa sự phóng khoáng tự tại của
những bậc đã chứng ngộ với sự phóng túng tự do của kẻ phàm phu tục tử.
Mặt khác, đạo Phật là
một tôn giáo nhưng không nặng về thần quyền, mà trả lại cho con người
những giá trị vốn có; con người là chủ nhân của vũ trụ và của chính mình.
Vì vậy, đạo Phật là đạo tự lực và có tinh thần nhân bản rất cao. Thông
thường, gặp chuyện đau khổ hay bất như ý, chúng ta hay đổ lỗi cho người
khác, mà quên nhìn lại xem mình có lỗi không. Phật dạy, từ vô lượng kiếp,
do thân miệng ý của chúng ta đã tạo biết bao nhiêu nghiệp thiện ác, rồi
theo nghiệp thọ sanh, lẩn quẩn mãi trong vòng sinh tử. Những điều gọi là
may mắn hay rủi ro, những người gọi là ân hay oán đến với mình, đều
chiêu cảm từ nhân mình đã gieo thuở trước. Có nhân, cộng thêm những
duyên hỗ trợ, nhất định phải có quả. Lý Nhân-Quả là một chân lý muôn đời,
nên người hiểu đạo luôn có tinh thần trách nhiệm và tự lực, không cầu
nguyện ơn trên nào ban phước, cũng không bao giờ đổ lỗi cho ai.
Điều kiện thứ ba, không
thể thiếu trong việc tu hành, nhất là trong công phu thiền tập, là sự
nhiệt tâm tinh cần và ý chí xung thiên. Người tu chúng ta phải luôn thao
thức với nỗi hoài nghi: “Tất cả chúng sanh đều có bản tâm thanh tịnh
thường nhiên, đó cũng là thực tướng của vũ trụ vạn hữu. Chúng ta làm sao
thấu triệt được thực tướng ấy?”. Luôn canh cánh bên lòng câu hỏi ấy
để đêm ngày tinh tấn tu hành, không nề khó khăn gian khổ, mới mong có
ngày ta tìm được câu trả lời. Thiền sư Linh-Vân mất 30 năm mới ngộ được
tự tánh, khi thấy hoa đào nở; Quốc sư Đức Thiều ở núi Thiên Thai, tham
vấn qua 54 vị thiện tri thức mà pháp duyên chưa hợp, đến hội Pháp Nhãn,
nhờ “giọt nước nguồn Tào” mới hoát nhiên đại ngộ; Thiền sư Huệ
Lăng Trường Khánh tới lui trong hội của Ngài Tuyết Phong đến 20 năm,
ngồi rách 7 cái bồ đoàn, đến khi cuốn rèm mới tự nhiên tỏ ngộ lý Thiền.
Người xưa căn cơ bén nhạy, tu hành thanh tịnh mà còn phải mất bao nhiêu
công sức và thời gian như thế. Chúng ta ngày nay đang trong thời mạt
pháp, chịu nhiều cám dỗ của những thú vui trần tục, quay cuồng theo nếp
sống thác loạn thiên về vật chất, thì nếu không có tâm kiên cố và trường
viễn, liệu có thể nào đặt chân đến cửa nhà Thiền?
III- ÁP
DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG
Chánh niệm có thể áp
dụng cho tất cả mọi người, ở mọi nơi mọi lúc, khi tĩnh cũng như khi động.
Trong bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi), ngoài việc tọa thiền sẽ được
đề cập trong phần riêng, chúng ta có thể chánh niệm trên các hình tướng
của thân hoặc những vọng tưởng sinh diệt của tâm. Tất cả đều là tinh
thần của chữ BIẾT. Biết mà không phân biệt đẹp-xấu, hay-dở, hơn-thua...;
đó là cái biết bằng trực giác không qua trung gian suy luận. Ví như tấm
gương sáng, có thể phản chiếu tất cả sự vật để trước nó, nhưng không lưu
ảnh một vật nào; ánh sáng chánh niệm cũng soi rọi vào tất cả các pháp,
từ thô đến tế, từ ngoài vào trong, rõ ràng thường biết nhưng hoàn toàn
khách quan, không phân tích so sánh.
Trong lao tác, chánh
niệm là làm việc gì chỉ biết việc ấy. Công việc ta làm trong chánh niệm
sẽ kỹ lưỡng và có năng suất rất cao. Những tai nạn lao động xảy ra trong
các nhà máy thường do công nhân không chú tâm vào việc làm, lúc thao tác
trên máy móc mà tâm trí để tận đâu đâu. Đối với những việc làm đòi hỏi
sự chính xác và tỉ mỉ, sự tập trung cao độ, thì chánh niệm là điều kiện
thiết yếu. Nếu có dịp đến các phòng thư pháp, chúng ta có thể thấy rõ
sức định tâm của người viết dường như tuôn trào lên ngọn bút, rồi thể
hiện ra trang giấy.
Đối với những cơn đau ở
thân, chánh niệm được áp dụng như thế nào? - Đau là phản ứng của cơ thể
đối với một kích thích tác hại đến từ bên ngoài hoặc bên trong, là hệ
thống báo động cảnh giác cho chúng ta biết có điều gì không ổn. Đây là
phản ứng cần thiết để chúng ta tìm cách loại trừ nguyên nhân gây đau;
nhưng nếu cơn đau tăng quá sức chịu đựng, có thể gây choáng và đe dọa
mạng sống con người. Đau là một phạm trù rất rộng lớn và đa dạng, nhưng
cơ chế chung là do một tổn thương trên cơ thể tác động vào các dây thần
kinh cảm giác của những tế bào đặc biệt thuộc hệ thần kinh, gọi là
Neurone. Các Neurone này có mặt khắp nơi trên da và các bộ phận trên cơ
thể, khi bị kích thích, sẽ truyền tín hiệu đau dọc theo dây thần kinh
tủy sống đưa lên não. Hệ thần kinh trung ương có vai trò quyết định
trong tất cả các hoạt động sinh lý, trong đó có cơn đau. Cho nên, sự lo
lắng, sợ sệt quá độ sẽ làm mất thăng bằng nơi hệ thần kinh cao cấp, làm
gia tăng cảm giác đau đớn; ngược lại, sự thư giãn, chủ động chấp nhận và
nhận diện rõ tiến trình xảy ra của cơn đau sẽ tạo ra những điểm hưng
phấn mới trên vỏ não, lấn át được các điểm hưng phấn gây đau có trước.
Đây là cơ chế tác dụng của chánh niệm đối với cơn đau.
Mặc khác, chánh niệm
đến với cơn đau còn bằng hai tác dụng mà chỉ có các thiền sinh nhiều
công phu tu tập mới nhận rõ. Một là tác dụng chuyển hóa, như ánh nắng
mặt trời chiếu vào nước đá. Mặt trời tác động thế nào lên nước đá để
biến nước từ thể rắn sang thể lỏng? - Mặt trời không làm gì cả, ánh nắng
chiếu đến một cách tự nhiên, bất bạo động, và sức nóng trong nắng đã bao
trùm cục nước đá, làm nước đá từ từ chuyển thể. Cũng vậy, chúng ta chỉ
dùng ánh sáng chánh niệm soi rọi cơn đau từ lúc bắt đầu, tồn tại rồi
biến mất; Chánh niệm sẽ bao trùm, nhận diện và cuối cùng chuyển hóa được
cơn đau. Tác dụng thứ hai, đối với người đã nhận được bản tâm thanh tịnh
của chính mình, tức là �cái biết đau�, chánh niệm soi rõ cơn đau thuộc
về thân, không ảnh hưởng đến tánh Biết thường hằng. Đây là cái thấy của
Ngài Trần Thái Tông lúc bệnh. Khi Tuệ Trung Thượng Sĩ gửi thư đến hỏi
thăm, Ngài viết vào cuối trang hai câu kệ đáp lại:
Viêm viêm thử khí hãn thông thân,
Hà
tằng hoán đắc nương sanh khố.
Dịch:
Hơi nóng hừng hực toát mồ hôi,
Chiếc khố mẹ sanh chưa từng ướt.
Đối với những phiền não,
đau khổ tuyệt vọng ở tâm, chánh niệm có tác dụng chuyển hóa rõ rệt.
Trong đời thường, ít nhất một lần chúng ta cảm nhận được niềm an ủi, khi
đang buồn bực, đau khổ mà được đến gần bạn thân hay người mình thương
yêu, tin cậy. Người ấy không cần nói gì, chỉ cần ngồi cạnh ta, nắm tay
ta, ta đã thấy vơi đi, nguôi đi nỗi đau tưởng chừng khó chịu đựng nổi.
Chánh niệm ở đây cũng có vai trò tương tự như thế. Điều này có vẻ khó
hiểu và khó tin, nhưng nếu đã trải qua nhiều thời gian thực tập chánh
niệm, chúng ta sẽ tự kinh nghiệm lấy. Ngoài ra, chúng ta đã từng biết,
phiền não khổ đau cũng chỉ là những tâm hành sinh diệt, những vọng tưởng
hư dối. Chánh niệm trên vọng tưởng là tinh thần của: “Quán tâm trên
tâm” trong Kinh Niệm Xứ, của “Biết vọng không theo” trong
Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ 20. Biết đó là vọng, tự dưng vọng biến
mất; ngay khi ấy, tâm liền an.
Thực tập chánh niệm và
quán niệm trên thân, tâm, cảnh còn giúp chúng ta ứng phó với mọi tình
huống xảy ra trong cuộc sống thường nhật, đặc biệt với 8 gió lợi, suy,
hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc (hưởng lợi lộc, bị hao tốn, bị miệt thị,
được khen ngợi, được tôn sùng, bị khinh rẻ, chịu khổ nhọc, được vui
sướng). Bằng ánh sáng chánh niệm thấy biết một cách “như thị” về
thân, chúng ta nhận rõ nó không có chủ tể, vì nó hoạt động, vận hành các
bộ phận ngoài ý muốn của ta; nó là duyên sinh vì do nhiều tế bào hợp lại
mà thành; nó luôn biến đổi trong từng giây phút. Do vậy, nó là Vô ngã.
Ngã không có thật thì những sở hữu của Ngã (Ngã sở) càng không thật. Từ
đó, những vọng chấp đắm luyến về thân-tâm-cảnh đều không còn. Ngay cả
trong phút giây cận kề cái chết, chúng ta vẫn thấy an định, tỉnh táo,
không tham đắm lưu luyến bất cứ thứ gì trên đời. Đây là tiền đề của sự
giải thoát sanh tử.
Như vậy, chúng ta thấy
rõ, bất cứ ở đâu và lúc nào, chúng ta cũng thực hiện được chánh niệm.
Cách công phu này không hạn cuộc cho đối tượng xuất gia hay tại gia;
không phân biệt giới tính, trình độ học vấn và địa vị xã hội; cũng không
nhất định phải theo thời khóa, tình hình sức khỏe hoặc công việc hằng
ngày. Kết quả công phu cũng không lệ thuộc thời gian lâu hay mau mà tùy
vào hiệu quả khi dụng công. Một người tu suốt đời mà luôn thất niệm thì
không bằng người chỉ tu vài năm mà thực tập chánh niệm tinh cần. Trong
Kinh Niệm Xứ, Đức Phật hạn định thời gian đạt được Thánh quả cho những
hành giả thực hiện chánh niệm và quán niệm trên bốn lĩnh vực
Thân-Thọ-Tâm-Pháp, dài nhất là 7 năm nhưng ngắn nhất chỉ có 7 ngày. Hai
mốc thời gian cách nhau quá xa, chứng tỏ thời gian ấy chỉ có tính cách
ước lệ, và tùy thuộc từng người. Nếu chúng ta có nhiệt tâm tu hành, đầy
đủ tri kiến như thật, nắm vững pháp tu và ứng dụng có kết quả, thì chỉ
cần một thời gian ngắn là thấy cuộc đời mình đã biến chuyển, thăng hoa.
Còn nếu không nhiệt thành với đạo, tu hành giải đãi, lúc tiến lúc lùi,
thì biết đến bao giờ chúng ta mới xong được việc lớn?
Quê hương ta không ở
một nơi nào xa xôi, cũng không xuất hiện vào một ngày mai vô định. Chúng
ta không thể dùng ý thức để tưởng tượng, để nắm bắt, vì quê hương ấy
không ở ngoài bản thân ta, không phải là đối tượng nhận thức của ta. Đó
chính là con người thật muôn thuở của mình. Chỉ cần dừng lại bước chân
chạy đuổi về tương lai hay truy tìm về quá khứ, nhận chân được thực tại
vĩnh hằng chúng ta đã an ổn trên đất quê hương. Thiền sư Huyền Giác nói:
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên
Mích tức tri quân bất khả kiến.
Trúc Thiên dịch:
Tìm kiếm đã hay không thấy được
Mà luôn trước mắt vẫn thường nhiên.
Không lìa chỗ ấy mà
thường lặng lẽ; nếu cất công tìm kiếm thì không thể nào thấy được. Nhưng
nếu không có công phu đi �tìm� thì cũng chẳng xong. Đây là một điều rất
khó khăn và bí hiểm mà mỗi người chúng ta phải khéo thầm nhận lấy !
PHƯƠNG PHÁP TỌA THIỀN
Trong tinh thần của
quyển sách này, chúng tôi chú trọng trình bày những nguyên tắc căn bản
về công phu thiền tập, để các thiền sinh có những bước đầu vững chắc
trên đường tu. Những chi tiết về tọa thiền nói riêng và thiền tập trong
mọi lĩnh vực nói chung, sẽ được đề cập đến một cách cụ thể trong một
quyển sách khác.(*)
Nguyên tắc chung khi
tọa thiền là dùng chánh niệm làm căn bản. Từ lúc thực hiện các nghi thức
lễ Phật, sau đó chuẩn bị nhập thiền...... cho đến khi xả thiền, chúng ta
đều đặt tâm ngay thời điểm hiện tại. Thường chúng ta có thái độ vội vàng
khi chuẩn bị, xem lúc tọa thiền mới là lúc tu, mà không hiểu rằng, những
hành động sửa soạn cho những giờ ngồi thiền cũng là những nghi lễ thiêng
liêng không kém. Cho nên, trong lúc động dụng nói năng, nếu chúng ta có
chánh niệm, thì khi tọa thiền chúng ta càng dễ đạt được kết quả tốt.
Thời khóa công phu
không cố định, tùy thuộc hoàn cảnh gia đình và sức khỏe của mỗi thiền
sinh. Nói chung, cần sắp xếp giờ tọa thiền vào lúc chúng ta rảnh việc,
trong nhà tương đối yên tĩnh, lại không quá khuya. Cũng không nên tọa
thiền ngay sau khi ăn no, vì ảnh hưởng đến tiêu hóa và dễ bị hôn trầm.
Tại các thiền viện thuộc Thiền phái Trúc Lâm, mỗi ngày tọa thiền 2-3 lần,
mỗi lần 1-2 giờ. Quý vị cư sĩ vì bận bịu gia duyên, số giờ và số lần tọa
thiền có thể ít hơn, nhưng tối thiểu cũng phải một lần mỗi ngày.
Chướng ngại trong công
phu tọa thiền, đáng kể nhất là hôn trầm và trạo cử. Đối với hôn trầm,
ngoài lý do ăn uống nói trên và sức khỏe (thiếu ngủ, quá mệt mỏi do công
việc, đau ốm...), còn do chúng ta chưa nắm vững phương pháp tọa thiền.
Một số thiền sinh, bình thường không buồn ngủ, thậm chí khi nằm trên
giường cũng trằn trọc không ngủ được, nhưng chỉ ngồi thiền một lát là
rơi vào vô ký hay hôn trầm. Chúng ta thường gọi là “bị ma ngủ tấn
công”. Lúc ấy, nên mở mắt lớn ra và thở mạnh vài hơi, rồi chỉnh thân
lại ngay ngắn, tiếp tục tọa thiền. Nếu vẫn còn buồn ngủ, nên đứng dậy đi
thiền hành vài vòng hoặc ra rửa mặt cho tỉnh táo. Luôn luôn có quyết tâm,
không chịu thua “con ma ngủ”, như thế một thời gian sẽ khắc phục
được chướng ngại này.
Trạo cử gồm khẩu trạo,
thân trạo, ý trạo. Khẩu trạo là miệng nói liên tục không ngừng, thân
trạo là đứng ngồi không yên, ý trạo là tâm nghĩ ngợi lung tung, hết
chuyện này đến chuyện khác. Khi tọa thiền thì miệng không nói nên không
có khẩu trạo, nhưng còn thân và ý thì cần phải công phu. Thân có yên thì
tâm mới an định. Mọi cảm giác đau tê ở chân tay, nóng bức ngứa ngáy hay
khó chịu ở thân... là những khổ thọ. Chánh niệm trên các khổ thọ ấy mà
không tìm cách tránh né hay đè bẹp nó, một thời gian các khổ thọ sẽ được
chuyển hóa. Lúc tâm an định, chúng ta thấy thời gian qua rất nhanh, các
cảm giác khó chịu ở thân sẽ không còn nữa, chứng tỏ có sự liên hệ chặt
chẽ giữa thân và tâm. Điều này giải thích tại sao nhiều vị Thiền sư đạt
định sâu, những nhu cầu bình thường của cơ thể như ăn ngủ, bài tiết...
đều giảm hay mất, nên có thể tọa thiền liên tục vài ngày đến vài mươi
ngày.
I- NHẬP THIỀN
1- Chuẩn bị phương tiện
a- Trang phục:
Trang phục cần rộng rãi, thoáng mát, thoải mái. Nếu tọa thiền trong
chánh điện, tu sĩ mặc áo dài, cư sĩ nên có áo tràng lam để giữ sự trang
nghiêm. Ở nơi lạnh, nên mặc đủ ấm. Nếu trời quá nóng bức, có thể dùng
quạt nhưng tránh để gió thổi từ sau lưng ót dễ làm nhiễm cảm.
b- Nơi chốn:
Nếu có điều kiện, nên có một nơi tọa thiền riêng biệt để tránh bớt ngoại
duyên. Trong thiền phòng, thiết kế một bàn thờ Phật đơn giản nhưng trang
nghiêm; không nên bài trí nhiều tranh tượng rườm rà. Nếu không có nơi
riêng biệt, chúng ta có thể chọn cho mình một chỗ ngồi vào giờ nào đó
trong ngày, sao cho thích hợp hơn cả. Về ánh sáng, không nên để đèn quá
nhiều vì dễ sanh loạn tưởng, cũng không quá tối vì dễ gây hôn trầm.
c- Dụng cụ tọa
thiền: gồm có:
- Một tọa cụ vuông, mỗi
cạnh độ 0,6m, trải phía dưới, dùng để lót chân và hai gối khỏi bị đau và
lạnh. Có thể lấy vải hay chăn mền xếp gọn lại để thay thế, nếu không có
tọa cụ.
- Một bồ đoàn tròn,
đường kính độ 0,2m, bề cao tùy vóc dáng từng người mà thay đổi cho thích
hợp. Bồ đoàn không nên mềm quá hay cứng quá. Dùng để kê mông hơi cao cho
cột sống lưng được thẳng.
- Một khăn lông hay gối
nhỏ để chêm dưới bàn tay, nếu lòng bàn chân quá lõm. Mục đích để hai bàn
tay ở vào vị trí thích hợp cho hai vai được ngang bằng nhau.
Có người chủ trương,
ngày xưa đức Phật chỉ dùng cỏ trải làm tọa cụ chứ không có bồ đoàn, nên
bây giờ chúng ta cũng nên theo đúng như thế. Thật ra, dụng cụ chỉ là
phương tiện hỗ trợ cho tư thế, làm sao cho chúng ta ngồi đúng phương
pháp để công phu trong thời gian dài mà không bị chướng ngại hoặc bệnh
hoạn sau này. Dụng cụ phải thích hợp với cấu tạo cơ thể của từng người,
không nên cứng nhắc theo một khuôn mẫu nhất định.
2- Tư thế tọa thiền
Có nhiều tư thế, chúng
ta có thể lựa chọn sao cho thích hợp với tuổi tác, sức khỏe và vóc dáng
của mình.
a- Kiết già:
Còn gọi là Toàn già hay tư thế Hoa sen. Đây là tư thế ưu thắng nhất vì
khí huyết dễ lưu thông, thân vững vàng do có ba điểm tựa (xương cùng-cụt
và hai đầu gối), nên có thể ngồi lâu được. Thuận chân nào thì gác chân
ấy lên trước, nhưng thống nhất thì chân trái gác lên đùi phải, sau đó
chân phải gác lên đùi trái. Tư thế này phù hợp với người trẻ, chân dài,
các khớp linh động.
b- Bán già:
Gác chân này lên đùi chân kia, tùy bên nào thuận hơn. Chân trái đặt lên
trên, gọi là tư thế Hàng ma; chân phải ở trên là tư thế Kiết tường. Tư
thế này phù hợp với người mập, chân ngắn, hoặc tập tọa thiền khi đã lớn
tuổi nên xương khớp không còn linh hoạt như lúc trẻ.
c- Các tư thế
khác: Đối với người có bệnh ở xương khớp, có thể ngồi xếp bằng
bình thường hoặc theo kiểu Miến Điện (xếp bằng nhưng hai bàn chân đều
đặt trên tọa cụ). Cũng có thể ngồi trên ghế, hai bàn chân đặt sát mặt
đất, xương sống thẳng, không tựa vào lưng ghế. Người Nhật Bản có một tư
thế đặc biệt là ngồi trên hai gót chân. Chúng ta không quen thì thấy mỏi
nhanh và đau, nhưng nếu quen cũng có thể ngồi được lâu và vững.
3- Cách nhập thiền
a- Điều thân:
Ngồi lên bồ đoàn, sao cho xương cùng đặt ngay giữa bồ đoàn. Nghiêng
người qua lại vài lần rồi ngồi theo tư thế tọa thiền thích hợp. Cởi nút
áo cổ, nới dây thắt lưng. Chỉnh các nếp áo quần để khỏi cấn chân. Xếp
các vạt áo ngay ngắn.
Bàn tay phải để trên
bàn tay trái, kê gối nhỏ dưới bàn tay nếu lòng bàn chân quá trũng. Hai
đầu ngón tay cái chạm nhẹ vào nhau. Hai bàn tay đặt lên lòng bàn chân
sao cho đầu ngón tay cái nằm ngay chiều rốn. Hai cánh tay không khuỳnh
ra cũng không ép sát quá, khuỷu tay vừa chạm vào hông là được.
Thân cúi xuống ngẩng
lên 3 lần, lúc đầu mạnh sau nhẹ dần. Chỉnh thân theo các tiêu chuẩn sau
đây:
- Lưng thẳng vừa phải,
không ưỡn ngực cũng không cong lưng. Ưỡn quá sẽ tức ngực, quá cúi sẽ dễ
sinh hôn trầm và hơi thở không được thông suốt. Tốt nhất là ngồi một
cách tự nhiên thoải mái.
- Chóp mũi hướng ngay
rốn và hai đầu ngón tay cái. Hai trái tai đối chiếu thẳng xuống vai. Các
mốc này giúp đầu không bị nghiêng, không quá cúi hoặc quá ngẩng lên.
- Mắt khép độ 2/3, tầm
nhìn không quá 0,6-1m từ hai chân. Mắt nhắm hay mở cũng có thể thay đổi
tùy người và tùy lúc. Người hay loạn tưởng, hoặc trong phòng ánh sáng
hơi chói, bị mỏi hay xốn ở mắt, có thể nhắm mắt lại. Nếu dễ vô ký, hôn
trầm, nên mở mắt lớn hơn.
- Gương mặt tươi, bình
thản.
b- Điều tức:
Thở 3 hơi dài, lúc đầu mạnh sau nhẹ dần. Hít vào bằng mũi, tưởng rằng “Không
khí trong sạch theo hơi thở tỏa lan khắp châu thân”. Thở ra bằng
miệng, tưởng rằng “Bao nhiêu phiền não, cấu uế, bệnh hoạn đều theo
hơi thở ra ngoài”. Sau đó, ngậm miệng lại, lưỡi để tự nhiên. Từ đây
về sau chỉ hít thở bình thường bằng mũi.
II- TRỤ THIỀN
Đối với người sơ cơ,
nên lần lượt công phu theo 3 phương pháp, xem như ba giai đoạn tu tập:
Sổ tức, Tùy tức và Tri vọng. Khi phương pháp này được thực hiện thuần
thục, chúng ta mới chuyển sang phương pháp khác. Không nên nóng vội mà
đốt giai đoạn, hoặc tự cho mình có căn cơ đặc biệt nên xem thường những
giai đoạn đầu tiên. Chúng ta nên nhớ, những phương pháp Sổ tức và Tùy
tức, tuy mới nhìn tưởng là đơn giản, nhưng thật sự là căn bản cho toàn
bộ quá trình tu tập của chúng ta. Nếu xây nhà mà không có nền móng vững
chắc, ngôi nhà không thể bền vững cùng năm tháng, và càng xây cao bao
nhiêu thì càng dễ sụp đổ bấy nhiêu.
1- Sổ tức:
Đây là phương pháp đếm
hơi thở, có 2 cách:
- Nhặt: Hít vào đếm 1,
thở ra đếm 2, hít vào đếm 3... lần lượt đến 10 rồi trở lại từ 1.
- Khoan: Hít vào và thở
ra đếm 1... lần lượt đến 10 rồi trở lại từ 1.
Nếu trong lúc đếm mà
quên hay lầm số, phải đếm trở lại từ 1. Khi đã đếm thuần thục không lầm,
mới chuyển qua giai đoạn kế tiếp.
2- Tùy tức:
Tùy tức là theo dõi hơi
thở: Thở vào ta biết mình đang thở vào, thở ra biết mình thở ra; thở vào
ngắn biết thở vào ngắn, thở ra ngắn biết thở ra ngắn; thở vào dài biết
thở vào dài, thở ra dài biết thở ra dài. Luôn luôn chúng ta ý thức rõ
mình đang thở, hơi thở thế nào biết như thế đó, không bắt buộc hơi thở
phải theo ý mình. Trong khi theo dõi hơi thở, ta dễ trực nhận mạng sống
rất mong manh, chỉ có trong hơi thở; nếu thở ra không hít vào là không
còn tồn tại. Khi thân đã mất thì những tư tưởng tình cảm hiện khởi cũng
không còn. Quán sâu xa, chúng ta sẽ thấy rõ lý vô thường của thân và tâm.
Từ đó hiểu một cách sâu sắc, vô thường là chân lý tuyệt đối đúng cho mọi
nơi mọi lúc, từ cá nhân cho đến toàn thể vũ trụ.
Chánh niệm trên hơi thở,
công phu của chúng ta sẽ tiến triển theo 3 trình tự: Lúc đầu, có sự liên
hệ giữa tâm và hơi thở, vì tâm luôn luôn duyên theo hơi thở không rời.
Sau đó, hơi thở trở thành gạch nối giữa thân và tâm, chúng ta cảm giác
được sự tươi mát sảng khoái lan tỏa toàn thân. Cuối cùng là trạng thái
an định, có sự hợp nhất giữa thân và tâm. Lúc này, hơi thở rất nhẹ, như
có như không, nghĩa là thở theo “tức tướng”.
Khi Tùy tức thuần thục,
chúng ta bước sang giai đoạn Tri vọng. Tuy nhiên, không phải khi qua
giai đoạn này là bỏ luôn Tùy tức. Phương pháp theo dõi hơi thở có thể áp
dụng bất cứ lúc nào, nhất là khi vọng tưởng lẫy lừng, hết lớp này nổi
lên lớp khác, hoặc lúc chúng ta có nhiều việc phiền toái trong cuộc sống
hàng ngày, khiến tọa thiền mà tâm vẫn bất an. Lúc ấy, áp dụng phương
pháp Tùy tức sẽ có kết quả tốt.
3- Tri vọng:
Con người thường cho
rằng những tình cảm, ý nghĩ chợt biến chợt hiện trong đầu là tâm của
mình. Do chấp tâm ấy là thật nên ai nói hay làm trái ý, chúng ta liền
nổi sân hận. Vì thế, phiền não cứ còn mãi không thôi. Bây giờ, nhờ quán
chiếu thấy rõ thân tâm này chỉ do duyên sinh chứ không thật có, không
phải là mình, chúng ta đã tiến được một bước trên đường đạo.
Khi được Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma
nhận làm đệ tử, Ngài Thần Quang một hôm thưa cùng Tổ:
- Tâm con không an, xin
Hòa thượng dạy cho con phép an tâm.
Tổ bảo:
- Đem tâm ra, ta an cho.
Ngài Thần Quang sửng
sốt, nhưng lời Tổ dạy, đâu dám không vâng theo. Ngài lục tìm tâm giây
lâu không thấy, bèn thật thà thưa:
- Con tìm tâm không
được.
Tổ liền nói:
- Ta đã an tâm cho
ngươi rồi !
Ngay đây, Ngài Thần
Quang liền ngộ. Rõ ràng, phương pháp an tâm chỉ đơn giản là nhìn lại
chính mình, xem những ý tưởng lăng xăng mà mình cho là �tâm� đó, phát
xuất từ đâu và đi về nơi nào. Nhìn thẳng nó, nó liền mất. Do vậy, tâm
được an. Tựu trung, chỉ cần biết cái gọi là �tâm� chỉ là vọng tưởng hư
dối, không lầm theo nó. Chúng ta không có ý đè nén, dẹp trừ vọng, mà chỉ
thắp sáng chánh niệm lên vọng tưởng. Chúng ta cũng không có ý buông vọng,
vì ý niệm �buông� đã là một động tác của tâm. Đây là một điều khá tế nhị,
chúng ta cần phân biệt rõ để khỏi lầm lẫn trong công phu, giữa “Biết
vọng không theo” và “Biết vọng liền buông”. Thực ra “không
theo” là một hành vi của ý thức, nhưng không có chủ ý, chỉ biết nó
là vọng mà không tác ý gì trên nó. Ngược lại, “Buông” là một hành
vi cụ thể, có tác ý, có đối tượng rõ ràng, nên ý niệm “Buông” lại
là một vọng tưởng nữa, dù vi tế hơn.
Lời dạy của Lục Tổ Huệ
Năng là một căn bản thứ hai cho phương pháp Tri vọng. Nhiều thiền sinh
tự hỏi: “Cứ mãi miết thực hành pháp Biết vọng không theo, rồi khi
vọng hết, mình còn cái gì?”. Câu chuyện sau đây là câu trả lời minh
bạch:
Khi tăng chúng biết Ngũ
Tổ Hoằng Nhẫn đã truyền y bát cho cư sĩ Huệ Năng, liền đuổi theo để dành
lại. Thượng tọa Huệ Minh theo kịp, thấy y bát để trên bàn thạch, dùng
sức cầm lên vẫn không nhúc nhích, biết có điều huyền diệu bên trong, nên
thỉnh Ngài ra nói pháp. Ngài từ trong lùm cây bước ra, bảo:
- Ông đã vì pháp mà đến
thì nên dứt sạch các duyên chớ sanh một niệm, tôi sẽ vì ông nói.
Huệ Minh im lặng giây
lâu. Lục Tổ bảo:
- Không nghĩ thiện,
không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa
Minh?
Huệ Minh ngay câu nói
đó liền ngộ.
Câu chuyện này cho thấy,
nếu tâm không còn kẹt hai bên (thiện-ác, đúng-sai, hay-dở...), mọi vọng
niệm dứt sạch, hoàn toàn rỗng rang lặng lẽ, lúc ấy mình còn lại gì? -
Lúc ấy, vẫn còn cái hằng biết, biết nhưng không phân biệt chia chẻ. Nhận
ra được điều này, chúng ta bắt đầu chợt cảm nhận về một cái gì đó rất
gần nhưng cũng rất xa, một điều rất bí mật nhưng cũng khá rõ ràng. Tùy
phước duyên và tùy sự tinh tấn của mỗi người mà lời giải đáp đến nhanh
hay chậm.
Phương pháp Tri vọng có
thể chia ra 2 cấp độ, từ thấp đến cao: Pháp biết vọng và Tánh biết vọng.
a- Pháp biết vọng:
Khởi đầu, chúng ta áp dụng Tùy tức để tâm bớt loạn động. Sau đó, chúng
ta nhận diện các vọng niệm. Khi vọng khởi lên liền biết, không theo nó,
tự nhiên nó biến mất; vọng lặng thì tâm thanh tịnh. Cứ tiếp tục như thế,
vọng thưa dần và im bặt.
Thực hành pháp này,
chúng ta còn phân biệt năng và sở: Vọng là sở, người biết vọng là năng.
Đây là pháp môn đối trị, còn trong tương đối, nhưng rất cần thiết cho
những hành giả còn đang điều phục tâm. Có điều chúng ta nên lưu ý:
Thường thì chúng ta chỉ ý thức trên “cái vọng”, nên khi vọng khởi
liền biết; nhưng không có ý thức trên “cái không vọng”. Vì thế,
chỉ lom lom nhìn từng vọng khởi lên để điểm mặt, như người đấu sĩ trên
đấu trường, cứ chờ địch thủ tấn công chiêu nào thì đỡ chiêu nấy rồi thôi,
mà không biết phản công lại để dành ưu thế. Như vậy thì biết đến bao giờ
mới kết thúc được trận đấu? Nói rõ hơn, chúng ta chỉ biết đợi có vọng,
không theo nó, vọng biến mất rồi được an, nghĩa là chỉ có định. Chúng ta
không biết an lập ngay cái định để có trí huệ. Lúc không còn vọng niệm,
mọi sự vật hiện tượng xảy ra xung quanh, ta đều biết. Biết nhưng không
có ý niệm lưỡng phân, nên cái biết ấy không phải là ý thức mà là trí tuệ,
đây là cái biết của trực giác. Lúc có sự chiếu soi của trí tuệ, chúng ta
phải khéo léo hội nhập vào đó. Tâm an định tức sinh trí huệ - mới nghe
tưởng là Định và Huệ riêng rẻ, nhưng thực sự không hai, tức Định tức Huệ.
Đây là tinh thần “An tâm tại vọng tình, Định Huệ đồng thời” của
Lục Tổ.
Một vấn đề khác, lúc
làm việc nói năng, ta thường thấy ít có vọng tưởng. Nhưng khi tọa thiền,
vọng tưởng lăng xăng sinh diệt không ngừng. Thật ra, do lúc tọa thiền,
các duyên bên ngoài tạm cắt, chúng ta tỉnh giác theo dõi những tâm hành
sinh diệt, nên nhận rõ từng vọng niệm dấy khởi. Nói khác đi, do niệm
khởi lên trong vùng ánh sáng của chánh niệm, nên tất cả niệm đều hiện
bày rõ ràng. Sức tỉnh giác càng mạnh, mọi ngõ ngách sâu kín của tâm thức
càng lộ rõ.
b- Tánh biết
vọng: Khi công phu tăng tiến, một lúc nào đó chúng ta nảy ra một
mối nghi: Vọng là đối tượng nhận thức, cái hay biết vọng là chủ thể nhận
thức; cả hai đồng thời có mặt khi vọng dấy khởi. Lúc không có vọng, ta ở
trong trạng thái lặng lẽ, trạng thái này cũng là một đối tượng nhận
thức. Như vậy, vọng và không vọng là hai trạng thái thay đổi luân phiên
nhau; còn cái chủ thể nhận thức tức cái biết có vọng và không vọng ấy,
thực chất là gì? Cái biết này luôn luôn hiện hữu, không sinh không diệt.
Ví như sóng biển, có lúc chìm lúc nổi, lúc to lúc nhỏ, lúc trong lúc
đục, nhưng mặt biển vẫn thênh thang và hằng hữu. Ngoài ra, sóng và biển
đều cùng bản chất là nước; muốn tìm nước, cứ ngay sóng mà tìm chứ không
đợi sóng lặng mới có nước. Sóng biển như vọng tâm, nước biển dụ cho chơn
tâm. Vọng và chơn chỉ là hai mặt của một thực thể, do có vọng mới lập
bày ra chơn, thật sự chúng không hai không khác. Đây là liễu vọng. Biết
được bản chất thật sự của vọng, chúng ta không cần đè nén, dẹp trừ vọng
mà ngay vọng nhận được chơn. Không còn phiền não để loại trừ, không có
Bồ đề để chứng đắc. Tức vọng tức chơn, phiền não tức Bồ đề, đúng tinh
thần Bất nhị của Đại Thừa Phật giáo.
Thiền tông chủ trương “Kiến
tánh thành Phật”; nhưng vì căn cơ chúng sinh phần nhiều thấp kém,
nên lại lập bày phương tiện “tiệm tu”. Vì thế, các vị Tổ sư đã
chỉ rõ từng cấp độ tiến triển của tâm, như các hình ảnh tượng trưng
trong mười bức tranh chăn trâu. Trâu chỉ cho tánh giác hằng hữu nơi mỗi
người, bản chất là trâu trắng, nhưng do thức tình vọng tưởng phủ che bao
nhiêu đời kiếp, nên mang toàn một màu đen, lại ngang ngạnh chạy ngược
chạy xuôi, ăn lúa mạ của ruộng người (chạy theo sáu trần tạo nghiệp).
Muốn điều phục trâu, phải dùng dây vàm là giới luật, roi vọt chăn giữ là
cái biết vọng; luôn luôn chăm chăm nhìn, theo dõi từng vọng niệm dấy
khởi mà không chạy theo nó, đó là chăn trâu. Công phu chăn và thuần hóa
con trâu ngông cuồng thật gian nan, khó nhọc và đòi hỏi sự kiên trì,
siêng năng, giống như người đã nhận ra tánh giác nhưng còn phải dày công
bảo nhậm, cho tự tánh luôn hiển bày, thanh tịnh. Thường xuyên tỉnh giác,
bào mòn tập khí như thế, một ngày nào đó tâm sẽ thanh tịnh rỗng rang,
lúc cần khởi niệm thì đó là dụng của tự tánh, lúc bình thường lại trở về
với thể tánh chân thường. Mọi việc làm của chúng ta tự nhiên khế hợp với
tự tánh, dụng công mà không dụng nên hằng dụng, chính là Vô công dụng
hạnh của các Bậc Bồ tát. Thiền sư Vĩnh-Gia Huyền-Giác nói:
Khéo khéo lúc dụng tâm
Khéo khéo không tâm dụng
Không tâm khéo khéo dụng
Thường dụng khéo khéo không.
Vì không có tâm dụng
nên không có năng dụng và sở dụng, nhưng không dung túng vọng tưởng nên
hàng ngày vẫn khéo khéo dụng công. Dù thường ngày dụng công nhưng không
chủ ý khởi vọng niệm, không trừ vọng tâm, cũng không tâm phân biệt người
dụng và đối tượng dụng, nên vẫn khéo khéo không. Đây là điều rất sâu xa
khó hiểu, không thể dùng ý thức để đo lường, mà phải tự mình đặt chân
đến đoạn-đường-tâm ấy mới thầm hội được.
III- XẢ THIỀN
Xả thiền theo thứ tự
ngược lại với lúc nhập thiền: Trước nhất là xả tâm, kế đến là xả hơi thở,
sau đó là xả thân. Mọi động tác đều phải từ tốn, nhẹ nhàng, tâm vẫn bám
chặt vào từng động tác. Cần tránh những cử chỉ thô tháo, vì tuy gọi là
giai đoạn xả thiền, nhưng thực chất ta vẫn luôn có chánh niệm trong mọi
thời điểm, nghĩa là đang thiền tập trong tư thế động. Thời gian xả thiền
mất khoảng 10-15 phút, tùy theo chúng ta tọa thiền lâu hay mau. Các động
tác xoa bóp thân thể rất quan trọng và cần thiết để máu huyết lưu thông
tốt, ngừa một số bệnh thấp khớp và thần kinh ngoại biên, hoặc có thể làm
giảm đau các khớp đã bị bệnh sẵn.
Sau đây là trình tự
trong giai đoạn xả thiền:
a- Xả tâm:
Đọc thầm bài kệ hồi hướng:
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
b- Xả hơi thở:
Thở 3 lần từ nhẹ đến mạnh (ngược với lúc nhập thiền), hít vào bằng mũi
và thở ra bằng miệng. Lúc hít vào, tưởng rằng “Máu huyết theo hơi thở
lưu thông khắp châu thân”. Thở ra, tưởng rằng “Bao nhiêu phiền
não, cấu uế, bệnh hoạn đều theo hơi thở ra ngoài”.
c- Xả thân:
Lần lượt làm các động tác sau:
- Chuyển động hai bả
vai, mỗi bên 5 lần, luân phiên nhau.
- Đầu cúi xuống ngước
lên 5 lần, xoay qua trái qua phải 5 lần, rồi cúi xuống ngước lên một lần
nữa cho quân bình.
- Co duỗi các ngón tay
5 lần.
- Chuyển thân từ nhẹ
đến mạnh 5 lần, lần cuối úp hai bàn tay lên đầu gối, ấn mạnh xuống.
- Chà xát hai bàn tay
vào nhau cho ấm lên, bắt đầu xoa mặt, tai, gáy và cổ, mỗi nơi 20 lần.
Sau đó, dùng mười đầu ngón tay cào nhẹ trên đầu, từ trước ra sau 5 lần.
- Dùng bàn tay phải xoa
từ vai xuống cánh tay trái và bàn tay trái xoa từ nách xuống hông phải,
làm đồng thời như vậy trong 5 lần. Kế đến, đổi tay làm ngược lại trong 5
lần.
- Lòng bàn tay phải đặt
lên ngực, lưng bàn tay trái đặt nơi lưng; hai tay đồng thời xoa theo
chiều ngang ở 3 vị trí: Thượng tiêu (trước ngực), Trung tiêu (giữa ngực
và bụng, tức vùng thượng vị), Hạ tiêu (vùng bụng dưới); mỗi nơi 5 lần.
- Hai bàn tay chà xát
mạnh ở vùng thận, thắt lưng, mông và dọc theo đùi đến đầu gối. Tùy theo
sự đau tê nhiều hay ít mà xoa bóp lâu hay mau. Động tác này có thể giúp
phòng chống chứng đau dây thần kinh hông (lâu nay gọi nhầm là thần kinh
tọa).
- Chà xát hai bàn tay
vào nhau cho nóng rồi áp lên mắt. Có thể chà hai ngón tay giữa hoặc các
lớp cơ dưới những ngón tay (nơi thịt gồ lên). Nơi lớp cơ dưới ngón tay
út (đối diện với lớp cơ dưới ngón tay cái) là dễ nóng và đặt vào mắt
thuận tiện nhất. Làm như vậy 5 lần.
- Bắt đầu xoa bóp hai
chân, lúc này chúng ta vẫn còn ngồi trên bồ đoàn. Tay nắm các đầu ngón
chân kéo xả chân để bàn chân đặt xuống tọa cụ. Xoa bóp kỹ hai chân và
lòng bàn chân cho đến khi bớt đau tê mới duỗi thẳng hai chân ra. Cúi
người xuống, hai cánh tay duỗi thẳng, sao cho các ngón tay chạm vào đầu
ngón chân. Cúi xuống ngẩng lên 3 lần.
- Cuối cùng, bỏ bồ đoàn
ra, tiếp tục xoa bóp những chỗ còn đau tê, hoặc những vùng thường ngày
mình bị đau nếu có.
Sau khi xả thiền, nếu
cùng cộng tu trong thiền đường, nên ngồi lại, xếp bằng ngay ngắn. Chờ
tất cả mọi người hoàn tất việc xả thiền, sẽ cùng đi kinh hành hoặc tụng
kinh theo nghi thức thống nhất trong thiền viện.
IV-
THIỀN HÀNH VÀ KINH HÀNH
Đây là một phương pháp
thiền tập. Bình thường, mỗi ngày chúng ta cần đi tản bộ khoảng 30 phút -
1 giờ, nhất là đối với những người làm việc văn phòng, ít vận động chân
tay hoặc có nếp sống tĩnh tại. Đi bộ cũng là một môn thể dục nhằm phòng
được bệnh loãng xương, một bệnh thường xảy ra ở người lớn tuổi.
Chúng ta có thể thiền
hành ở bất cứ đâu: dọc bờ biển, trên đường vắng, quanh sân chùa, trong
phòng hoặc trên sân thượng... Hai tay buông thỏng tự nhiên, đánh đàng xa
nhẹ nhàng, chân bước từng bước chẫm rãi. Tâm chú mục vào một cảnh vật
nào đó trước mắt nhưng không khởi niệm trên đó, hoặc duyên theo hơi thở
hay chánh niệm trên từng bước chân...
Phương pháp kinh hành
có những chi tiết khác hơn. Chúng ta thường đi kinh hành trong thiền
đường, trong chánh điện, là những nơi tôn nghiêm. Hai tay chắp búp sen
hoặc đặt trước bụng, bàn tay này để trên bàn tay kia hay các ngón đan
vào nhau. Thân giữ thẳng khi đi, đầu không nghiêng qua ngó lại, mắt nhìn
xuống cách khoảng 1m - 1,5m. Tâm không duyên theo các pháp, khi niệm
khởi lên liền biết, không theo. Nếu kinh hành với nhiều người, chúng ta
nên xếp hàng ngay thẳng, trang nghiêm. Nói chung, cần giữ tinh thần hòa
chúng trong mọi nghi thức để có sự đồng bộ và nhịp nhàng.
KẾT
LUẬN
Ngày xưa, đời sống con
người còn đơn giản, bình dị, xã hội ít xô bồ, bon chen, nên người xuất
gia chỉ biết tu học, ít bị tư tưởng và cuộc sống bên ngoài chi phối.
Ngày nay, phương tiện giao thông và truyền thông phát triển, những thành
tựu khoa học làm đời sống vật chất của con người ngày càng cao. Một số
người tu lại quá chú trọng kiến thức thế gian mà quên vai trò quyết định
của công phu hành trì. Cho nên, nếu không được ở trong những tu viện
nghiêm túc, nếu không khéo tổ chức đời sống tu hành, thì rất khó thăng
tiến trên đường đạo.
Đối với người tại gia,
sự điều hòa về vật chất và bình an nội tâm lại càng quan trọng. Nhiều
người không hưởng được hạnh phúc và sự bình ổn trong gia đình, nên đến
chùa tìm sự nương tựa tinh thần, hoặc làm công tác từ thiện giúp người
khốn khổ hơn mình. Đó là những việc thiện lành. Còn có những người không
biết đạo lý, tìm vui trong sự hưởng thụ, đắm mình trong trụy lạc để chạy
trốn niềm đau tâm hồn. Nhưng liệu họ có thấy hạnh phúc ở những nơi ấy
không, hay sau những giờ phút quên lãng trốn tránh, nỗi buồn khổ lại
càng đè nặng? “Dục phá thành sầu duy hữu tửu, Túy tự túy đảo sầu tự
sầu”. Muốn phá thành sầu, tưởng chỉ có rượu là biện pháp giải quyết,
nhưng khi uống đến say vẫn thấy sầu còn nguyên đó. Những người ấy thật
rất đáng thương, vì họ không biết rằng, hạnh phúc đích thực chỉ được tìm
thấy trên mảnh đất hiện tại, chứ không truy tìm được ở quá khứ hoặc
tương lai hay ở nơi nào khác.
Đạo Phật là đạo Giác
ngộ và Giải thoát - Giải thoát khỏi phiền não và giải thoát vòng sinh tử
luân hồi. Những người con Phật thấm nhuần chánh pháp đều có thể tự tìm
thấy hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống nhiễu nhương. Buổi sáng
thức dậy, thấy mình vẫn còn sống và mọi vật như đang đón chào một ngày
mới tinh khôi, ta mỉm cười và nhận rõ sự nhiệm mầu trong từng phút giây
hiện tại. Bằng Chánh niệm, ta thấy mình đang có hơi thở nhẹ nhàng thông
suốt, đang có đôi chân mạnh khỏe để bước đi, đang có đôi mắt sáng để
nhìn đời..., và ta thật sự có hạnh phúc. Chúng ta biết mình có phước
duyên mới được thân người, lại gặp chánh pháp để tu hành, nên chúng ta
biết trân quí từng phút giây của cuộc sống, không làm điều gì tổn hại
đến sức khỏe của cơ thể, đến sự bình an của tâm hồn và đến sự trong sạch
của môi trường xung quanh.
Thực hiện con đường nội
nhiếp, chúng ta có một đời sống tỉnh thức thường trực trên thân và tâm.
Đây là tiền đề để khám phá được tự tánh thanh tịnh bản lai của chính
mình. Nho giáo có câu: “Tính tương cận, tập tương viễn”. Tự tánh
nguyên thủy của con người rất gần gũi nhau, nhưng do huân tập ngoại
duyên nên mỗi người mỗi tạo nghiệp khác, đưa đến hoàn cảnh chánh báo và
y báo khác nhau. Vì huân tập nên xa cách, nếu trở về tánh bản lai thì sẽ
thấy rất gần. Nhận được chân tâm, chúng ta sẽ có sức sống rạt rào và
nồng nhiệt với cuộc đời và mọi người. Chúng ta sẽ thấy giải thoát là
điều rất tự nhiên và có sẵn ngay trong cuộc đời phàm tục này, chứ không
phải ở đâu xa xôi. Rõ ràng là Phật pháp có mặt ở khắp nơi, trong tách
trà của Triệu Châu, trong chiếc bánh của Vân Môn, trên ngón tay của Câu
Chi và trong mọi công việc thường ngày của chúng ta nữa. Tất cả mọi sự
vật đều bình đẳng trong cái nhất như, đều hiện toàn chân pháp tánh, khi
ánh sáng Chánh niệm soi rọi một cách thấu thể vào trong lòng muôn pháp.
Do thấy muôn loài chúng
sinh đều bình đẳng, nên chúng ta không quên những chúng sinh đang còn
lang thang trong rừng rậm vô minh, đang tạo nghiệp và thọ khổ không có
ngày cùng. Chúng ta noi gương các bậc Bồ tát và chư vị Tổ sư, phát đại
nguyện tu Bồ tát hạnh, hành Bồ tát đạo, thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng
sanh. Có lập đại thệ, phát đại nguyện và hành đại hạnh như thế, chúng ta
mới có thể đền đáp trong muôn một ơn sâu dày của Phật-Tổ, mới xứng đáng
là đệ tử của Đức Bổn Sư.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/canbanthientap.htm