Con
trâu nhà Phật
Huỳnh Kim
Quang
Tại các nước nông nghiệp Châu Á như Ấn Độ, Trung
Quốc, Việt Nam, v.v…, trải qua hàng ngàn năm, con trâu là hình ảnh quen
thuộc, gần gũi và giúp ích như một phần quan trọng trong sinh hoạt
thường nhật của người nông dân.
Đạo Phật khởi đi từ Ấn
Độ và truyền bá sang các nước lân bang trong khu vực Châu Á, cho nên
trong truyền thống kinh điển cũng như trong cách dạy đạo từ thời Phật
cho đến sau này đều có hình ảnh con trâu hiển hiện.
Từ hình ảnh quen thuộc
đối với con người đến tính biểu tượng của sự thuần hóa, chăn trâu thật
sự là thí dụ điển hình để đưa vào trong phương thức giáo hóa của đạo
Phật. Chính vì vậy, việc chăn trâu đã được đề cập đến nhiều lần trong
những thời pháp của Đức Phật khi Ngài còn tại thế. Việc chăn trâu cũng
đã tiếp tục có mặt trong các phương pháp dạy đạo của chư vị tổ sư, thiền
sư qua nhiều thế hệ, tại nhiều quốc độ.
* Trâu ví như vọng
tâm điên đảo
Quá trình thuần hóa trâu
để cho nó từ bản chất hung hăng, tàn bạo và dã man như loài thú hoang
trở thành hiền hòa, nhẫn nại, siêng năng và chịu phục theo con người là
một quá trình không chỉ mang đặc trưng về mặt giáo dục trong thế giới
thực dụng thường nghiệm của thế gian mà còn mang tính biểu tượng về mặt
giáo hóa và chuyển hóa tâm linh trong thế giới nhà Phật. Trong ý nghĩa
đó, tâm vô minh của chúng sinh, của con người với sự si mê của con trâu
vốn khởi đi từ một gốc gác vô minh như nhau. Cả hai đều không giác ngộ
được tâm như thật của mình. Cả hai đều sống theo vọng tâm điên đảo từ
hằng hà sa số kiếp. Cả hai đều bị ông chủ vô minh sai khiến mà không
biết. Nhưng cả hai đều vốn sẵn có tánh Phật hay tánh giác siêu việt. Cả
hai đều có thể thành tựu giác ngộ và giải thoát. Cả hai đều là Phật sẽ
thành.
Chính vì vậy, trong Luận
Đại Thừa Khởi Tín, Bồ tát Mã Minh đã chỉ rõ tâm chúng sinh chứa đựng hai
diệu nghĩa: một là chân tâm tức tâm chân như bất sinh diệt; hai là vọng
tâm tức tâm sinh diệt điên đảo. Trâu ví như vọng tâm điên đảo. Người tu
tập chuyển hóa tâm giống như kẻ mục đồng chăn trâu, điều ngự vọng tâm
sinh diệt để thuần phục nó. Bởi lẽ đó, quá trình tu chứng chính là quá
trình chuyển hóa tâm, từ vọng sang chân, từ sinh diệt sang vô sinh diệt,
từ mê sang ngộ, từ chúng sinh sang quả vị Phật. Nhưng quá trình chuyển
hóa tâm đó, tùy theo căn cơ của người tu mà có đốn tiệm, có cao thấp, có
sâu cạn.
Tùy theo căn cơ và đối
tượng, có khi đức Phật dạy lấy sự nhiếp phục thân khẩu ý qua phương thức
giới định làm chuẩn. Có khi đức Phật dạy phép chỉ thẳng lấy sự chiếu
kiến tự tánh qua trí tuệ là chính. Đa phần trong các Kinh thuộc Thanh
Văn Thừa, đức Phật chỉ pháp điều phục thân tâm qua con đường giới định.
Giống như câu chuyện sau đây từ trong Kinh Phóng Ngưu của Bộ Tăng Nhất A
Hàm, mà sau này trong Luận Đại Trí Độ, Bồ tát Long Thọ cũng đã thuật lại
trong cuốn 2, chương 3 phần giải thích Bà Già Bà. (Xin mở ngoặc để chú
thích về danh từ Bà Già Bà. Tiếng Phạn là Bhagavat. Dịch âm theo Hán ngữ
là Bạc Già Phạm, Bà Già Phạm, Bà Già Bà. Dịch nghĩa theo Hán ngữ là Hữu
Đức, Hữu Thanh Danh, Năng Phá, Thế Tôn. Đây là một trong 10 hiệu của đức
Phật gồm: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật
Thế Tôn.)
* Đức Phật giảng
pháp: từ 11 cách chăn trâu
Chuyện kể rằng, năm đó,
vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra) của nước Ma Kiệt Đà (Magadha), một nước ở
miền Trung Ấn Độ thời Phật, đã phát tâm hộ trì tứ sự cúng dường cho Phật
và 500 vị Tỳ Kheo trọn 3 tháng an cư kiết hạ. Do vậy, nhà vua đã cần đến
sự cung cấp sữa trâu của nhiều nhà nuôi trâu trong nước. Vào cuối mùa an
cư, vì muốn tạo phước duyên cho những người chăn nuôi trâu, nên vua Tần
Bà Sa La đã cho gọi tất cả những người chăn nuôi trâu đến để gặp Phật.
Khi được thông báo của nhà vua, nhiều người chăn trâu nói với nhau rằng,
nhân dịp đến gặp Phật họ sẽ thử xem lời đồn đức Phật là bậc Nhất Thiết
Trí, cái gì cũng biết, có đúng thật hay không. Rồi họ cùng nhau bàn bạc.
Nhiều người trong số họ nói rằng, Sa Môn Cồ Đàm sinh ra trong dòng Sát
Đế Lợi, lớn lên được học hỏi và tinh thông mọi chuyện, từ tứ thư Vệ Đà
đến thiên văn toán số, từ triết học đến tôn giáo, từ giáo dục đến xã
hội, từ luận lý đến vấn nạn, cái gì ngài cũng đã biết. Chúng ta không
thể đem những vấn đề ấy để trắc nghiệm ngài. Duy chỉ có việc chăn trâu,
việc mà từ nhỏ đến lớn ngài chưa từng biết qua, là vấn đề có thể làm khó
được ngài. Quyết định như vậy, những người chăn trâu cùng nhau đi đến
Tinh Xá Trúc Lâm, nơi Phật và 500 vị Tỳ Kheo đang an cư.
Đến nơi, những người
chăn trâu nhìn thấy hội chúng đang có mặt đông đảo chư vị Tỳ Kheo, các
hàng cư sĩ, Bà La Môn, Sát Đế Lợi, v.v… ngồi ngay ngắn chỉnh tề trong im
lặng. Trước mặt hội chúng đông đảo ấy, trên Tòa Kim Cang, đức Phật đang
tịnh toạ. Nhìn tướng hảo quang minh, oai đức sáng rỡ, dáng vẻ từ bi,
phong cách tự tại như ngọn núi Tu Di sừng sững trang nghiêm của đức
Phật, những người chăn trâu liền khởi tâm kính ngưỡng. Họ đến gần, đi ba
vòng chung quanh đức Phật, theo nghi cách cung kính của Ấn Độ thời bấy
giờ, rồi cùng nhau ngồi xuống một bên. Khi ấy, đại diện của những người
chăn trâu hỏi Phật:
- Thưa Sa Môn Cồ Đàm,
người chăn trâu có mấy điều thành tựu để cho bầy trâu nhiều thêm và an
ổn?
Đức Phật bình thản trả
lời:
- Này chư vị, có mười
một điều để người chăn trâu làm cho bầy trâu nhiều thêm và an ổn. Những
gì là mười một? Đó là biết sắc, biết tướng, biết mổ xẻ, biết che vết
thương, biết hun khói, biết đường đi tốt, biết chỗ trâu thích hợp, biết
khéo đưa qua sông, biết chỗ an ổn, biết giữ sữa, biết nuôi trâu chúa.
Nếu người chăn trâu biết mười một điều này thì có thể làm cho bầy trâu
thêm nhiều và an ổn.
- Sao lại gọi là biết
sắc? Là biết sắc đen, sắc trắng, tạp sắc.
- Sao lại gọi là biết
tướng? Là biết trâu có tướng tốt hay không có tướng tốt, khi hợp với bầy
trâu khác nhân tướng mà biết.
- Sao lại gọi là biết
mổ xẻ? Là trâu bị các loại trùng hút máu thì vết thương lở ra, mổ xẻ
thời trừ hại, thời vui tươi.
- Sao lại gọi là biết
che vết thương? Là biết lấy vải, cỏ, lá để ngăn ngừa chỗ muỗi mòng chích
đốt.
- Sao lại gọi là biết
hun khói? Hun khói là để trừ muỗi mòng, trâu ở xa thấy khói thì nhắm
theo mà về nhà.
- Sao lại gọi là biết
đường đi? Biết con đường trâu đi về tốt hay xấu.
- Sao lại gọi là biết
chỗ trâu thích hợp? Là biết làm cho trâu sinh sôi, an ổn, ít bệnh..
- Sao lại gọi là biết
khéo đưa qua sông? Biết chỗ dễ vào, dễ qua, không sóng dữ, trùng độc.
- Sao lại gọi là biết
chỗ an ổn? Biết chỗ ở không có cọp beo, sư tử, ác trùng, độc thú.
- Sao lại gọi là biết
giữ sữa? Trâu mẹ ái niệm trâu con nên cho sữa. Vì sữa giữ lại một phần
nên trâu mẹ vui mừng, thời tiếp nối không khô kiệt, chủ trâu và người
chăn trâu ngày ngày có ích.
- Sao lại gọi là biết
nuôi trâu chúa? Bảo hộ trâu đực lớn, vì nó giữ gìn đàn trâu, nên phải
nuôi nấng không để ốm gầy, cho uống dầu mè, trang sức bằng anh lạc, ra
dấu hiệu với cái Tù-và sắt, biết cọ xát, khen ngợi, v.v…
(Trích Luận Đại Trí
Độ, Bồ Tát Long Thọ viết, Cưu Ma La Thập dịch Hán, Thích Thiện Siêu dịch
Việt.)
Khi những người chăn
trâu nghe đức Phật dạy về mười một cách chăn trâu thông thạo như vậy thì
rất kính phục. Họ tự nghĩ, cho dù là người chuyên môn chăn trâu với kinh
nghiệm dày dạn thì cũng chỉ có thể biết được ba bốn việc là cùng, làm
sao có thể biết đến mười một cách chăn trâu như thế. Việc chăn trâu mà
ngài còn biết rành như vậy thì các việc khác làm sao ngài không biết.
Cho nên, họ tin rằng đức Phật là bậc Nhất Thiết Trí.
* Tới 11 cách tiến
tu đạo nghiệp
Nhân những người chăn
trâu hỏi về cách chăn trâu, đức Phật đã dạy cho chư vị Tỳ Kheo mười một
cách thúc liễm thân tâm, tiến tu đạo nghiệp. Kinh Phóng Ngươu trong Tăng
Nhất A Hàm thuật lại lời Phật dạy chư vị Tỳ Kheo như sau:
“Cũng vậy, cũng như
người chăn trâu, Tỳ kheo thành tựu mười một pháp mà không mất thời tiết,
trọn không bị trở ngăn. Tỳ kheo thành tựu mười một pháp như vậy, ngay
trong hiện pháp, được nhiều điều lợi ích. Những gì là mười một? Ở đây,
Tỳ kheo biết sắc, biết tướng, biết vuốt chải, biết che đậy vết thương,
biết xông khói, biết ruộng tốt chỗ có nhiều cỏ, biết điều đáng yêu, biết
chọn đường đi, biết chỗ qua sông, biết kính Tỳ kheo trưởng lão mà tùy
thời lễ bái.
Thế nào là Tỳ kheo
biết sắc? Ở đây, Tỳ kheo biết sắc bốn đại, và cũng biết sắc do bốn đại
tạo. Đó gọi là Tỳ kheo biết sắc.
Thế nào là Tỳ kheo
biết tướng? Ở đây, Tỳ kheo biết tướng ngu, biết tướng trí; biết như
thật. Như vậy, Tỳ kheo biết tướng.
Thế nào là Tỳ kheo
biết vuốt chải? Ở đây, Tỳ kheo khi khởi tâm niệm dục tưởng, liền biết xả
ly, không thân cận, vĩnh viễn không có dục tưởng. Khi sân tưởng, hại
tưởng, các tưởng ác bất thiện khởi lên, liền biết xả ly, không thân cân,
vĩnh viễn không có sân tưởng các thứ. Như vậy, Tỳ kheo biết vuốt chải.
Thế nào là Tỳ kheo
biết che đậy vết thương? Ở đây, Tỳ kheo khi mắt thấy sắc mà không khởi
sắc tưởng, cũng không nhiễm trước, mà làm thanh tịnh nhãn căn; trừ khử
các pháp ác bất thiện, sầu ưu, tâm không tham đắm, ở trong đó mà thủ hộ
nhãn căn. Cũng vậy, Tỳ kheo khi tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm
vị, thân biết trơn láng, ý biết pháp mà không khởi thức tưởng, cũng
không nhiễm trước, mà thanh tịnh ý căn. Như vậy, Tỳ kheo biết che đậy
vết thương.
Thế nào, Tỳ kheo biết
xông khói? Ở đây, Tỳ kheo nói lại cho người khác pháp mà mình đã từng
nghe. Như vậy, Tỳ kheo biết xông khói.
Thế nào, Tỳ kheo biết
ruộng tốt chỗ có nhiều cỏ? Ở đây, Tỳ kheo như thật biết tám phẩm đạo
Hiền Thánh. Như vậy, Tỳ kheo biết ruộng tốt chỗ có nhiều cỏ.
Thế nào, Tỳ kheo biết
điều đáng yêu qúy? Ở đây, Tỳ kheo nghe pháp bảo mà Như Lai đã nói, trong
tâm liền yêu quý. Như vậy, Tỳ kheo biết điều đáng yêu quý.
Thế nào, Tỳ kheo biết
chọn đường đi? Ở đây, Tỳ kheo đối với 12 bộ kinh biết lựa chọn mà hành.
Đó là, Khế kinh, Kỳ-dạ, Thọ quyết, Kệ, Nhân duyên, Bản mạt, Phương đẳng,
Thí dụ, Sanh kinh, Thuyết, Quảng phổ, Vị tằng hữu pháp. Như vậy, Tỳ kheo
biết chọn đường đi.
Thế nào, Tỳ kheo biết
chỗ qua sông? Ở đây, Tỳ kheo biết bốn niệm xứ. Đó là Tỳ kheo biết chỗ
qua sông. Thế nào, Tỳ kheo biết
ăn vừa đủ no? Ở đây, Tỳ kheo có bà-la-môn, ưu-bà-tắc, là những người có
tín tâm, đến thỉnh. Tỳ kheo không tham ăn uống, có thể biết đủ mà dừng
lại. Tỳ kheo, như vậy là vừa đủ.
Thế nào, Tỳ kheo tùy
thời cung kính Tỳ kheo trưởng lão? Ở đây, Tỳ kheo hằng với thiện hành
bởi thân, miệng, ý đối với các Tỳ kheo trưởng lão. Như vậy Tỳ kheo tùy
thời cung phụng các Tỳ kheo trưởng lão.
Tỳ kheo thành tựu
mười một pháp như vậy, ở ngay trong hiện pháp, được nhiều điều lợi ích.”
(Trích Kinh Tăng Nhất A
Hàm, Phẩm 49, Phóng Ngưu, Thích Đức Thắng dịch, Thích Tuệ Sỹ hiệu đính
và chú thích.)
* Xe dê, xa hươu,
và xe trâu
Trong Kinh Đại Thừa Diệu
Pháp Liên Hoa (Mahayana Saddharma Pundarika Sutra), Phẩm Thí Dụ thứ 3,
đức Phật, để nêu rõ chủ đích “hội tam quy nhất”, tức là đem Ba Thừa về
Nhất Thừa, đã kể câu chuyện về người cha tìm cách cứu các đứa con đang
mê chơi trong nhà lửa bằng việc đưa ra ba cỗ xe đẹp và lộng lẫy hầu kích
thích lòng ưa thích của các con để chúng chạy ra khỏi nhà lửa. Nhà lửa
chỉ cho ba cõi (tam giới): dục, sắc và vô sắc giới. Ba cỗ xe đó là: xe
dê, xe hươu và xe trâu. Xe Dê tượng trưng cho Thanh Văn Thừa. Xe Hươu
biểu thị cho Duyên Giác Thừa. Xe Trâu chỉ cho Đại Thừa hay Nhất Phật
Thừa.
Bản nguyện của đức Phật
đã được nói rõ trong Phẩm Phương Tiện thứ hai của Kinh Pháp Hoa rằng,
“Các đức Phật ra đời vì một nhân duyên lớn là muốn khiến cho chúng sinh
được khai mở, chỉ bày, hiểu rõ và thâm nhập vào tri kiến của Phật.”
Tri kiến Phật tức trí
tuệ giác ngộ vô minh và giải thoát phiền não khổ đau. Phật Thừa chính là
mục tiêu duy nhất và tối thượng đó. Hay nói một cách khác, đức Phật ra
đời là để làm cho chúng sinh thành Phật. Trừ thành Phật ra không có cách
nào khác có thể dứt sạch gốc rễ vô minh và giải thoát triệt để khổ đau.
Mục tiêu trọng đại và lợi lạc này cần phải được phổ truyền cho tất cả
chúng sinh cùng được thừa hưởng. Với lý tưởng đó, việc tự tu tự độ đã
không thể hoàn thành được sứ mệnh cao cả của đức Phật mà phải cần đến
con đường mở rộng để tế độ hết thảy chúng sinh. Con đường ấy chính là
Đại Thừa. Đại thừa là cỗ xe trâu, cỗ xe lớn, cỗ xe có thể chở được nhiều
người.
Việc dùng xe trâu để
biểu tượng cỗ xe Đại Thừa mang nhiều ý nghiã thâm diệu. Thứ nhất, con
trâu là con vật được nuôi trong nhà. Hình ảnh con trâu gắn liền với đời
sống của người dân. Nó đi vào trong sinh hoạt thường nhật của từng con
người, từng gia đình. Lấy con trâu làm con vật kéo xe Đại Thừa nói lên
được tính đại chúng, tính phổ quát, tính bình dân của lý tưởng thành
Phật. Thứ hai, con trâu là con vật có sức mạnh đảm đang việc kéo xe để
chuyên chở nhiều đồ đạt, nhiều người, không biết mệt mỏi. Cỗ xe trâu Đại
Thừa vì vậy mới có thể chở được nhiều chúng sinh để đi trên đoạn đường
dài từ phàm phu đến thành Phật. Thứ ba, con trâu, như đã nói ở trên,
tượng trưng cho tâm vô minh của chúng sinh. Con đường thành Phật khởi đi
từ tâm chúng sinh đến tâm Phật, từ giai đoạn một chúng sinh bắt đầu sơ
phát bồ đề tâm cho đến khi hoàn thành việc giác ngộ và giải thoát. Chính
vì vậy, cỗ xe chở chúng sinh đi từ bờ bên này (thử ngạn) vô minh khổ não
đến bờ bên kia (bỉ ngạn) giác ngộ an lạc phải là cỗ xe tâm chúng sinh,
tức cỗ xe trâu, rồi lần hồi chuyển hóa thành tâm giác ngộ, tức cỗ xe
Phật Thừa trọn vẹn.
* Con trâu trong
lời dạy cuối của Đức Phật
Ngay trong đêm nhập Niết
Bàn tại rừng cây Sa La (Salavana) ở thành Câu Thi Na (Kushinagar), đức
Phật, trong lời dặn dò cuối cùng đối với chư vị Tỳ Kheo, cũng đã có dạy:
“Các Thầy Tỳ kheo, đã
hay giữ tịnh giới; còn cần phải biết cách tự chế, không cho năm căn dông
dỡ đuổi theo năm dục vọng. Cũng như người chăn trâu, cầm roi trông
chừng, là cốt giữ trâu khỏi ăn lúa mạ nhà người ta.”
(Kinh Lời Dạy Cuối Cùng
Của Đức Phật, tức Kinh Di Giáo, Thích Trí Tạng dịch.)
Đem hành động cầm roi
trông chừng con trâu để nó khỏi ăn lúa mạ của người so sánh để minh họa
cho hành động tự chế không để năm căn chạy theo năm dục vọng là một lối
thí dụ vừa cụ thể, linh hoạt, vừa tế nhị, sâu sắc. Điều này cũng nói lên
cách dạy đạo, cách giáo dục rất thực tế, rất sống động và hữu hiệu của
đức Phật. Ngài đưa ra một hình ảnh mà trong thính chúng không một vị nào
không biết, không hiểu. Đối với năm dục trong tâm chúng sinh lúc nào
cũng sẵn sàng khởi lên để thao tác, người tu cần thận trọng trong từng
giây phút như mục đồng trông coi trâu không để nó ăn lúa mạ của người.
Mục đồng nếu sơ hở trong giây lát thì trâu sẽ ăn lúa mạ ngay. Người tu
không tự chế trong mỗi ý tưởng, lời nói và hành động thì năm dục sẽ có
cơ hội thao tác. Giống như trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật cũng
ân cần nhắc nhở:
"Người hành Ðạo giống
như con trâu chở nặng đi trong bùn sâu, mệt lắm mà không dám nhìn hai
bên, ra khỏi bùn lầy rồi mới có thể nghỉ ngơi. Người Sa môn phải luôn
quán chiếu tình dục còn hơn bùn lầy, một lòng nhớ Ðạo mới có thể khỏi bị
khổ vậy.”
(Kinh Tứ Thập Nhị
Chương, Chương 41, Thích Viên Giác dịch và giải.)
* Huyền ký về trâu
của nhà Thiền Trung Hoa
Khi Bồ Đề Đạt Ma đem
Thiền từ Ấn Độ truyền vào đất Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ 6 Tây lịch
như cây được trồng đúng vùng đất và khí hậu tốt, cho nên đã hưng phát
rực rỡ. Ngài đã để lại một huyền ký cho tương lai Thiền của Trung Hoa
qua bài kệ:
Ngô bổn lai tư thổ,
Truyền pháp độ mê tình.
Nhứt hoa khai ngũ diệp,
Kết quả tự nhiên thành.
(Ta đến đất nước này,
Truyền pháp cứu kẻ mê.
Một hoa nở năm cánh,
Kết quả tự nhiên thành.)
Huyền ký đó đã ứng
nghiệm chính xác vào hai thế kỷ sau, tức thời nhà Đường. Một hoa chỉ cho
Thiền Tào Khê của Lục Tổ Huệ Năng. Năm cánh chỉ cho năm trường phái
Thiền lớn nhất khởi đi từ Lục Tổ: Lâm Tế, Tào Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn,
và Pháp Nhãn. Hai trong 5 trường phái Thiền trên là Lâm Tế và Tào Động
sau đó đã được truyền qua Việt Nam và phát triển rất mạnh, nhất là Tông
Lâm Tế cho đến nay vẫn còn.
Trung Hoa là đất nước
nông nghiệp. Các Thiền sư đều có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với nếp
sống và sinh hoạt nhà nông. Cho nên, Thiền sư Bách Trượng đã chủ trương
các thiền viện tự túc canh tác để sống, tu và hành đạo. Ngài nói “nhất
nhựt bất tác, nhất nhựt bất thực,” một ngày không làm, một ngày không
ăn. Trong bối cảnh đất nước và xã hội đó, hình ảnh con trâu rất gần gũi
trong nhà Thiền. Cho nên, từ rất sớm, Phật Giáo Trung Hoa đã minh họa
quá trình chuyển mê khai ngộ trong mười bức tranh chăn trâu của Đại Thừa
lẫn Thiền Tông. Các Thiền sư, trong những cách dạy Thiền, thường đề cập
đến con trâu và việc chăn trâu.
Chuyện kể, một hôm,
thiền sư Mã Tổ hỏi thiền sư Thạch Củng:
- Ông làm gì đây?
- Chăn trâu.
- Chăn như thế nào?
- Mỗi khi nó chạy vào đồng cỏ thì xỏ mũi kéo lại, thế là người chăn
giỏi.
Hoặc như câu chuyện
thiền sư Đại An tham vấn với thiền sư Bách Trượng:
- Tôi khát khao muốn
biết Phật pháp, việc đó thế nào?
- Hệt như cỡi trâu tìm trâu.
- Hiểu rồi làm sao?
- Như người cỡi trâu về nhà.
- Rồi làm sao giữ trước sau khế hợp?
- Như người chăn trâu cầm roi giữ trâu, đừng cho phạm vào lúa mạ của
người.
Hoặc, có hôm, ngài Đại
An thăng đường dạy chúng:
"Đại An ba mươi năm ở
Qui sơn, ăn cơm Qui sơn, đại tiểu tiện Qui sơn, mà chẳng học Thiền Qui
sơn. Ngày đêm chỉ xem chừng một con trâu nước đen. Nếu nó đi lạc vào
trong cỏ mạ, liền nắm mũi kéo lại. Vừa mới xâm phạm đến ruộng lúa người
ta, liền đưa roi ra quất. Thật đáng thương! Trâu bị điều phục lâu ngày
trở nên thuần thục, vâng lời người dạy mắn. Giờ đây trâu đen đã hóa
thành trâu trắng, sờ sờ rõ ràng trước mặt, trọn ngày đuổi cũng không
đi."
Trong câu chuyện trên,
thiền sư Đại An có nói đến trâu đen và trâu trắng. Trâu đen chỉ tâm vô
minh. Trâu trắng chỉ tâm giác ngộ. Trọn ngày đuổi không đi là tâm đã
được điều phục, không còn dong ruỗi theo trần cảnh. Đó là trạng thái tâm
lúc nào cũng hiện tiền trong minh giác, là trạng thái hiện pháp lạc trú.
* Con trâu trong
nhà Thiền Việt Nam:
Tuệ Trung Thượng Sĩ “Phóng Ngưu”
Những chuyện Thiền liên
quan đến trâu như vậy còn nhiều, nhưng đó là chuyện nhà Thiền của Trung
Hoa. Việt Nam cũng là đất nước nông nghiệp. Phật Giáo truyền vào Việt
Nam còn sớm hơn vào Trung Hoa, vì qua ngả các thương buôn đi bằng đường
hàng hải trực tiếp từ Ấn Độ sang Giao Chỉ, Giao Châu. Vào thời Tam
Quốc, Thiền sư Khương Tăng Hội từ Giao Chỉ đã sang Kinh Châu của Đông
Ngô để truyền bá đạo Phật. Ngày xưa, các ngôi Chùa ở Việt Nam đa phần
đều có ruộng đất canh tác, hoặc là ruộng do chư Tăng tự khai phá tạo
nên, hoặc là do triều đình cấp, hoặc là ruộng do quần chúng Phật tử hiến
cúng. Đặc biệt các ngôi Chùa tại mỗi làng đều có ruộng đất để tự canh
tác. Có chùa còn nuôi cả trâu, bò để cày ruộng hay lấy phân đem bón hoa
màu. Hình ảnh con trâu, vì vậy, lại càng gần gũi và thân thiết hơn với
Thiền môn.
Vào thời nhà Trần, trong
Thiền môn Việt Nam xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung
Thượng Sĩ Trần Tung, một thiền sư đắc đạo có hành trạng diệu dụng mà mắt
phàm khó thấu rõ. Chuyện kể về vị thiền sư này khá nhiều và li kỳ, song
ở đây chỉ xin nhắc đến vài bài thơ ông làm có đề cập đến con trâu. Bài
Phóng Ngưu, như sau:
Ngẫu hướng Quy Sơn
đắc đệ lân,
Hoang vu cam tác mục ngưu nhân.
Quốc vương đức trạch khoan như hải,
Tùy phận tat a thủy thản xuân.
Trúc Thiên đã dịch như sau:
Chợt hướng non Quy được thảnh thơi,
Đồng hoang đành vậy giữ trâu chơi.
Nhà vua đức rộng như sông biển,
Tùy phận xuân về nước cỏ tươi.
Trong một bài thơ khác,
Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng không tách rời con trâu đang chăn của ông.
Nhất thân độc thủ
nhất nê ngưu,
Đằng tỵ khiên lai vi khắn hưu.
Tương đáo Tào Khê đô phóng hạ,
Mang mang thủy cấp đả viên cầu.
Đại Lãn dịch như sau:
Một mình cố giữ con trâu đất,
Xỏ mũi dắt về chẳng nghỉ ngơi.
Vừa đến Tào Khê buông xuống hết,
Mênh mông nước chảy cuống bọt trôi.
(Cả hai bài thơ của Tuệ
Trung Thượng Sĩ ở trên được trích theo bài viết của Đại Lãn, Con Trâu
Đất Một Biểu Tượng Độc Đáo của Tuệ Trung, nguồn
www.daitangkinhvietnam.org).
Đến thời Trịnh Nguyễn
phân tranh, trong một bài thơ tương truyền là của thiền sư Hương Hải
cũng đã đề cập đến việc đi tìm chân tánh hay bản lai diện mục như đi tìm
trâu. Bài thơ như sau:
Tầm ngưu tu phỏng
tích,
Học đạo quý vô tâm.
Tích tại ngưu hoàn tại,
Vô tâm đạo dị tầm.
Tạm dịch nghĩa:
Tìm trâu cần theo dấu,
Học đạo quý vô tâm.
Dấu còn trâu còn đó,
Vô tâm đạo dễ thành.
Vô tâm không phải là vô
tình, vô cảm, thờ ơ, chuyện gì cũng không cần biết tới. Vô tâm như vậy
thì có khác gì gỗ đá. Vô tâm là thấy được tánh không sinh diệt của tâm,
là thấy tánh. Cho nên trong Kinh Kim Cang Bát Nhã, đức Phật dạy: “Nhược
kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.” Thấy được tánh không của
các pháp tức là kiến tánh, tức là thấy Phật. Tâm không sinh cho nên các
pháp không sinh. Vì vậy không bị vướng mắc hay trói buộc vào trần cảnh.
Đó là trạng thái vô tâm của nhà Phật.
Trong tâm mỗi người đều
có vóc dáng con trâu. Con trâu đó thuần hậu hay hung hăng, trắng hay đen
là tùy mỗi người. Để cho con trâu tâm thuần đen thì nó sẽ không ngừng
gây phiền não và khổ đau cho mình và người. Biết cách chăn, điều phục và
chuyển hóa thì nó sẽ được thuần hậu, trở đen thành trắng.
Nhìn theo khía cạnh này,
đạo Phật quả là bình dân và thiết thực: không dạy gì khác ngoài việc
chăn trâu. Nhưng để đạt đến cảnh giới như chàng mục đồng ngồi trên mình
trâu, ngêu ngao hát khúc nghê thường, hay thong dong thổi điệu sáo thiên
thai thì không dễ. Người ta phải sống gần gũi, lân mẫn, lăn lội, vất vả,
chăm sóc cho nó từng đám cỏ, từng bụm nước, chạy vòng quanh theo nó
trong các nẻo đường ngõ hẻm hay bờ ruộng ao hồ, đôi khi phải dùng đến
roi để thị uy, dùng đến ngàm để buộc miệng, dùng đến dây để trói buộc,
rồi nó mới chịu phục mà nghe lời. Một khi trâu đã biết nghe lời thì
chàng mục đồng mới thong dong tự tại trên đồng cỏ thênh thang.
Khi mê ngộ đã tan theo tiếng sáo của chàng mục đồng thì không còn trâu
đen hay trâu trắng, trâu nhà phật hay trâu thế gian, vì nhất thiết pháp
vô sở đắc cố…
Nguồn:
Source: trungdao.net – 1/2009 và
http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=3314
***