Đức Phật Trong Cái Nhìn Của Các Nhà Khoa
Học
Giác
Đẳng
(sưu tầm & chuyển ngữ)
"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên
mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả
phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý,
phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất
thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó".
[Albert Einstein]
1. Nhân cách vĩ đại
của Ðức Phật
Ðức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà Ngài thuyết giảng.
Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đã chuyển tất cả
những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái
yếu đuối của con người hay dục vọng thấp hèn. Luân lý, đạo đức căn bản
của Đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến. [Giáo
sư Max Miller, Học giả người Ðức]
Không một lời thô bạo nào được thấy thốt ra từ nơi Đức Phật trong cơn
tức giận, chưa từng có một lời thô bạo được thấy trên môi Đức Phật kể cả
trong lúc tình cờ. [- Tiến Sĩ S. Radhakrishnan]
Ðiều đáng chú ý nhất nơi Đức Phật là sự kết hợp gần như độc nhất của một
đầu óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của lòng từ tâm. Thế giới
ngày nay ngày càng hướng về Đức Phật, vì Ngài là người duy nhất tiêu
biểu cho lương tâm của nhân loại. [Moni Bagghee, "Ðức Phật Của Chúng
Ta"]
Các bạn thấy rõ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân thành, đơn độc, một
mình tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống chứ không phải là
thần kỳ, tôi cảm thấy có một Người, đó là Ngài. Ngài đã gửi bức thông
điệp cho nhân loại hoàn vũ. Có nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của
chúng ta rất gần gũi tương đồng với thông điệp của Ngài, tất cả những
đau khổ, bất mãn trong cuộc sống, theo Ngài dạy: là do lòng ích kỷ. Lòng
ích kỷ có ba dạng: - Một là tham vọng thỏa mãn cảm giác; - Hai là tham
vọng muốn bất tử; - Ba là tham vọng thành công và trần tục. Con người
trước khi có thể trở nên thanh tịnh, người đó phải ngưng sống theo giác
quan hoặc cho riêng chính mình. Rồi con người đó mới trở thành một bậc
đại nhân. Ðức Phật, qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, năm trăm năm trước
Chúa Christ, đã dạy con người đức tính vị tha. Trong một số chiều hướng
Ngài rất gần gũi với chúng ta hơn, và đáp ứng được nhu cầu của chúng ta.
Ðức Phật cũng tỏ ra sáng suốt hơn Chúa Christ trong sự quan tâm phục vụ
con người và ít mơ hồ đối với vấn đề trường tồn bất tử của kiếp nhân
sinh. [- H.G. Wells]
Tôi càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca Mâu Ni gần gũi nhất trong tính
cách và ảnh hưởng của Ngài, Ngài là Ðường lối, là Chân lý và là Lẽ sống.
[- Giám mục Milman]
2. Trí tuệ siêu việt của Đức Phật
Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, Đức Phật tuyên bố sự giải thoát,
mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân mình trong đời sống của
mình trên thế giới mà không cần đến sự giúp đỡ của Thượng đế hay thánh
thần nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lý như lòng tự tin, thanh tịnh, nhã
nhặn, giác ngộ, an lạc và lòng thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh
đến sự cần thiết của kiến thức, vì không có trí tuệ thì siêu linh nội
tâm không xâm nhập trong đời sống của Ngài được. [- Giáo Sư Eliot,
"Phật giáo và Ấn Ðộ giáo"]
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến
thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần
linh và Người". Kiến thức của Ngài rất rõ ràng và độc lập không liên can
gì đến thần thoại và hoang đường. Tuy nhiên, nơi đây lại còn cho thấy
một hình thức vững vàng, tự nó biểu lộ được một cách rõ ràng và hiển
nhiên để cho con người có thể theo Ngài. Vì lý do đó, Đức Phật không đòi
hỏi phải tin nhưng hứa hẹn kiến thức. [- George Grimm, "Giáo Lý của
Đức Phật"]
Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Đức Phật khuyến dụ, khẩn cầu và
kêu gọi con người không nên làm hại một sanh mạng, không nên dâng lời
cầu nguyện, lời ca tụng, hay hy sinh (sanh mạng) cho các Thần linh. Với
tất cả tài hùng biện trong sự thuyết giảng của Ngài, đấng Vô Thượng Sư
có lần hùng hồn tuyên bố là Thần linh, nói cho đúng, cũng cần đến sự
giải thoát cho chính họ. [Giáo Sư Rhys Dadis]
Ðức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người phải tự
chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải thoát lấy
Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải giáo
lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi
những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình. [-
Tiến Sĩ Oldenburg, Một học giả Ðức]
Dường như người thanh niên bất diệt, hiền lành, ngồi khoanh chân trên
hoa sen thanh tịnh với bàn tay phải dơ lên như khuyên nhủ như trả lời:
"Nếu con muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi, con hãy luyện tập trí tuệ
và từ bi". [Anatole France]
Sự
khác biệt giữa Đức Phật và một người bình thường giống như sự khác biệt
giữa một người bình thường và một người mất trí. [- Một Văn Hào]
Nếu chúng ta hỏi, chẳng hạn, có phải vị trí một hạt nhân điện tử lúc nào
cũng giữ nguyên không thay đổi, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng
ta hỏi có phải vị trí của một hạt nhân điện tử thay đổi theo thời gian,
chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta hỏi có phải hạt nhân đó đang
di động, chúng ta phải trả lời "không". Ðức Phật cũng đã giải đáp như
vậy khi có người hỏi tình trạng bản ngã của con người sau khi chết;
nhưng những câu trả lời như trên không phải là những câu trả lời quen
thuộc theo truyền thống khoa học ở thế kỷ 17 và 18. [J.Robert
Oppenheimer]
Nếu một vấn đề nào đó cần được đề ra, vấn đề đó phải được giải quyết
trong hài hòa và dân chủ theo đường lối dạy bảo của Đức Phật. [- Tổng
thống Nehru]
3. Cống hiến của Đức Phật với nhân loại
Trong thế giới giông tố và xung đột, hận thù và bạo lực, thông điệp của
Đức Phật sáng chói như vầng thái dương rực rỡ. Có lẽ không bao giờ thông
điệp của Ngài lại thiết yếu hơn như trong thời đại của thế giới bom
nguyên tử, khinh khí ngày nay. Hai ngàn năm trăm năm qua đã tăng thêm
sanh khí và chân lý của thông điệp này. Chúng ta hãy nhớ lại bức thông
điệp bất diệt này và hãy cố gắng thi triển tư tưởng và hành động của
chúng ta trong ánh sáng giáo lý của Ngài. Có thể chúng ta phải bình thản
đương đầu cả đến với những khủng khiếp của thời đại nguyên tử và góp
phần nhỏ trong việc khuyến khích nghĩ đúng (Chánh tư duy) và hành động
đúng (Chánh nghiệp). [Tổng thống Nehru]
Trên quả địa cầu này, Ngài đem ý nghĩa những chân lý giá trị trường cửu
và thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ cho riêng Ấn độ mà cho cả nhân
loại. Ðức Phật là một nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng thấy có trên
hoàn vũ. [Albert Schweizer, một nhà lãnh đạo triết học Tây Phương]
Sự
thanh tịnh của tâm linh và lòng thương yêu tất cả sinh vật đã được dạy
dỗ bởi Đức Phật. Ngài không nói đến tội lỗi mà chỉ nói đến vô minh và
điên cuồng có thể chữa khỏi bởi giác ngộ và lòng thiện cảm. [- Tiến
Sĩ Radhakrisnan, "Ðức Phật Cồ Ðàm"]
Ðức Phật không phải là của riêng người Phật tử, Ngài là của toàn thể
nhân loại. Giáo lý của Ngài thông dụng cho tất cả mọi người. Tất cả các
tôn giáo khai sáng sau Ngài, đều đã mượn rất nhiều các tư tưởng hay của
Ngài.. [- Một học giả Hồi Giáo]
Khi chúng ta đọc những bài thuyết giảng của Đức Phật, chúng ta cảm kích
bởi tinh thần hợp lý của Ngài. Con đường đạo đức của Ngài ngay trong
quan điểm đầu tiên là một quan điểm thuần lý. Ngài cố gắng quét sạch tất
cả những màng nhện giăng mắc làm ảnh hưởng đến cái nhìn và định mệnh của
nhân loại. [Tiến Sĩ S.Radhakrisnan, "Ðức Phật Cồ Ðàm"]
Ðức Phật là người cha nhìn thấy đàn con đang vui chơi trong ngọn lửa thế
tục nguy hiểm, Ngài dùng mọi phương tiện để cứu các con ra khỏi ngôi nhà
lửa và hướng dẫn chúng đến nơi an lạc của Niết bàn. [- Giáo sư
Lakshimi Narasu, "Tinh Hoa Của Phật giáo"]
4. Giáo pháp của Đức Phật
Ðọc một chút về Phật giáo là đã biết rằng hai ngàn năm trăm trước đây,
người Phật tử đã hiểu rõ xa hơn và đã được thừa nhận về những vấn đề tâm
lý hiện đại của chúng ta. Họ đã nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và đã
tìm thấy câu trả lời.
[-Tiến Sĩ Graham
Howe]
Phật giáo chưa bao giờ ép ai theo dù dưới hình thức nào - hoặc ép buộc ý
tưởng và niềm tin đối với người không thích, hoặc bằng bất cứ một sự
tâng bốc nào, bằng lừa gạt hay ve vãn, hầu đoạt được thắng lợi để gia
nhập vào quan điểm riêng tư của mình. Những nhà truyền giáo của đạo Phật
không bao giờ thi đua để dành người quy nạp vào Ðạo như nơi chợ búa.
[- Tiến sĩ G. P. Malasekara]
Chỉ nói về Phật giáo thôi, ta có thể xác nhận là tôn giáo này thoát khỏi
tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá nhân một sự chuyển hóa
nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình. Nhờ đến sức mạnh và tiền bạc
hay cả đến sự chinh phục để tác động mọi người vào đạo thì sao? Ðức Phật
chỉ rõ một con đường giải thoát duy nhất để cho cá nhân tự quyết định
nếu muốn theo tôn giáo này.. [- Giáo Sư Lakshmi Nasaru, "Tinh Hoa của
Phật giáo"]
Không thể cho rằng Phật giáo bị suy yếu, ngay hiện tại, vì Phật giáo bắt
nguồn trên những nguyên tắc cố định chưa bao giờ bị sửa đổi. [-
Gertrude Garatt]
Mặc dù người ta có thể được thu hút từ nguyên thủy bởi sự khoáng đạt của
tôn giáo này nhưng người ta chỉ có thể tán dương giá trị thực sự của
Phật giáo khi người ta phán xét kết quả tạo ra của tôn giáo này thông
qua đời sống của chính mình từ ngày này qua ngày khác. [- Tiến Sĩ
Edward Conze, Một học Giả Phật giáo Tây Phương]
Phật giáo là một tôn giáo tự giác, ít lễ nghi. Một hành động được thực
thi với chính sự suy tư thì tự nó đã điều kiện hóa để không còn là một
nghi lễ. Phật giáo nhìn bề ngoài có vẻ nhiều nghi lễ nhưng thực ra không
phải như vậy. [- Tiến sĩ W.F.Jayasuriya, "Tâm lý và Triết lý Phật
giáo"]
Là
Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các
tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra không một tôn giáo nào có thể
vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt, Bát chánh đạo và
Tứ diệu đế của Đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi
theo con đường đó. [Giáo sư Rhys Davids]
Trên những giải đất mênh mông của thế giới, vận mệnh nhân loại vẫn còn
tồn tại. Rất có thể trong sự tiếp xúc với khoa học Tây phương và cảm
hứng bởi tinh thần lịch sử, giáo lý căn bản của Ðức Cồ Ðàm được phục
hưng và thuần khiết, có thể chiếm một vị trí phần lớn trong hướng đi của
vận mệnh nhân loại. [- H.G.Well]
Lý
thuyết của Phật pháp vẫn đứng vững ngày nay không bị ảnh hưởng bởi tiến
trình của thời gian và sự tăng trưởng kiến thức, vẫn giữ nguyên như lúc
ban đầu bầy tỏ. Dù cho kiến thức khoa học tăng tiến đến thế nào trên
chân trời trí óc của con người, trong phạm vi Giáo pháp (Dhamma) cũng
vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hóa các khám phá xa hơn nữa. Về phương
diện thu hút của lý thuyết nầy không dựa vào các khái niệm giới hạn của
các tư tưởng sơ khai, về phương diện khả năng cũng không bị lệ thuộc vào
những phủ định của tư tưởng. [- Francis Story, "Phật giáo, Một Tôn
Giáo Thế Giới"]
Phật giáo là một phương thức làm sao để đạt được lợi lạc cao nhất từ
cuộc sống. Phật giáo là một tôn giáo của trí tuệ mà ở đấy kiến thức và
thông minh chiếm ưu thế. Ðức Phật không thuyết giảng để thâu nạp tín đồ
mà là để soi sáng người nghe. [- Một Văn Hào Tây Phương"]
"Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại
thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để
cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần
phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo
bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học"…. "Tôn giáo của tương
lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều
và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu
nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng
thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo
sẽ đáp ứng được các điều kiện đó". [Albert Einstein]
Đạo Phật Đối Với Đời Sống Con Người
LÊ HỮU TUẤN
Đạo Phật xuất hiện trên thế giới có chiều dài lịch sử nhiều ngàn năm và
phát triển ở Việt Nam cũng gần hai mươi thế kỷ. Từ trước đến nay đã có
rất nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu để lý giải, tìm hiểu sâu sắc
về đạo Phật được công bố và xuất bản. Tuy nhiên do tính phức tạp của vấn
đề, những nghiên cứu trên vẫn còn nhiều điều cần phải bàn tiếp. Để góp
phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề Phật học then chốt, người viết bài này
xin được trình bày những vấn đề sau: 1.Đức Phật và con người. 2. Trí tuệ
từ bi và đại lực.
1. Đức Phật và con người
Đạo Phật được khai sáng bởi con người để phục vụ con người. Đạo Phật lấy
con người làm gốc. Phật giáo đã làm thỏa mãn những nguyện vọng cao quý
và sâu xa của con người, và nó còn có thể chịu đựng sự căng thẳng và
nhiễm ô của đời sống hàng ngày, nó giúp họ lúc tiếp xúc với đồng loại,
ngoài ra còn đưa ra một mục đích sống. Phật giáo không gieo rắc nỗi sợ
hãi trong lòng người. "Cái tốt sẽ mang đến cái tốt, và cái xấu sẽ đem
đến cái xấu", "Mỗi hành vi đều có hậu quả của nó" (every action has its
reaction).. Đó là những quy luật tự nhiên.. Phật giáo hoàn toàn phù hợp
với quy luật đó, theo đó con người "Gieo nhân gì thì sẽ gặt quả nấy".
Mọi khổ lạc của con người trong cuộc sống này không phải do ảnh hưởng từ
bên ngoài mà là do hành động từ chính con người tạo ra trong thời hiện
tại hoặc trong những tiền kiếp hoặc gần hoặc xa.
Tinh thần nhân bản của đạo Phật được biểu lộ không những ở giáo lý, mà
còn ở thái độ sống của con người. Đức Phật không phải là một nhân vật
huyền thoại mà là bậc Đại Đạo Sư đã từng sống thật trong thế gian này.
Đức Phật không bao giờ tìm cách tự xưng mình là một bậc siêu nhân mà là
một con người đã chứng đắc chân lý, cái bí mật của cuộc sống và cái
nguyên nhân thật sự của hạnh phúc và khổ đau. Từ ngữ Phật (Buddha) chỉ
có nghĩa là con người giác ngộ. Phật là con người đã giác ngộ chân lý và
đem chân lý ấy giác ngộ cho kẻ khác để mong sự nghiệp giác ngộ viên mãn.
Ngày nay, bậc Đạo sư này không những được tôn vinh bởi hàng trăm triệu
người tín đồ mà còn được mọi người có văn hoá và kiến thức trên thế giới
này kính trọng. Bậc giải thoát này cho ta niềm phấn khởi về đời sống cao
thượng, đã an ủi con người vượt qua mọi khổ đau. Người đã giúp đỡ những
kẻ nghèo khổ bị lãng quên. Người làm tăng thêm sự cao quý cho cuộc sống
những kẻ mê lầm và làm trong sạch cuộc sống suy đồi của những kẻ phạm
tội. Người khuyến khích những kẻ yếu hèn, liên kết những người chia rẽ,
khai ngộ kẻ si mê, soi sáng kẻ theo thuyết thần bí, dẫn dắt kẻ ngu tối,
nâng cao phẩm giá kẻ hạ liệt và tôn vinh người cao thượng. Cả người giàu
lẫn kẻ nghèo, cả Thánh nhân và tội phạm đều tôn kính Người như nhau.
Những minh quân cũng như bạo chúa, những vương tôn công tử nổi tiếng và
vô danh, những nhà triệu phú hào phóng lẫn keo kiệt, những học giả khiêm
tốn lẫn cao ngạo, những người bần cùng, những người ăn xin bị chà đạp
.v.v. tất cả đều được lợi ích nhờ lời dạy tràn đầy lòng từ bi và trí tuệ
của Người ..
Tấm gương cao cả của Đức Phật là một nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người
. Lời dạy về hòa bình và lòng khoan dung của Người đã được tất cả mọi
người đón nhận với niềm hân hoan và không ngừng làm lợi ích cho bất cứ
ai có cơ hội nghe thấy được và thực hành nó. Ý chí sắt đá, trí tuệ, tình
thương, lòng từ bi vô bờ, vô ngã, sự thanh tịnh hoàn toàn, những pháp
môn gương mẫu được sử dụng để truyền bá giáo lý và thành quả tối hậu của
Người –tất cả những yếu tố đó đã thúc đẩy bao con người trên thế giới
này tôn vinh đức Phật như là một bậc Đạo sư tối thượng. Đức Phật đã hy
sinh thú vui của trần gian vì nỗi khổ của con người để đi tìm chân lý
rồi vạch ra con đường thoát khổ. Người là một nhà khoa học hoàn hảo
trong lĩnh vực cuộc sống, hoàn hảo đến độ lời dạy của người đã được
khẳng định là giáo lý duy nhất có tính đạo đức. Đức hạnh của Người là
biểu trưng tối thiện. Người là khuôn mẫu toàn bích cho mọi đức tính mà
Người đã thuyết giảng. Cuộc sống của Đức Phật không bị một vết ô nhiễm
nào cả.
Đức Phật đã chỉ ra con đường đưa đến hòa bình, hạnh phúc và cứu độ cho
con người. Con đường của Người thật bao dung rộng rãi, hợp lý, có thể
hiểu được và hướng đến giác ngộ. Giáo lý của Người có thể đóng góp phần
tốt đẹp nhất vào hạnh phúc con người. Lời dạy của Đức Phật soi sáng con
đường, nhờ đó con người có thể vượt thoát khỏi sự khổ đau để đi đến một
cuộc sống tràn đầy ánh sáng, thương yêu yên bình và hạnh phúc .
Dạy đạo giải thoát cho con người, đức Phật là một người thầy, một người
bạn, sống cùng với con người, hiểu biết con người và thắm thiết tình
người. Con người khổ đau vì con người sống xa bản tính, sống ngược bản
tính. Con người không ý thức được thực thể của chính mình, không hiểu
được mình là gì. Con người không có được một nhận thức rõ rệt về hiện
hữu và bản chất của hiện hữu. Đức Phật đã khám phá trên bước đường hành
trì những phương pháp giúp Người đi đến sự thực hiện giá trị và bản chất
của hiện hữu. Tiếp xúc thẳng với dòng sinh lực mầu nhiệm ấy, tâm linh
Người đột nhiên trở thành cao cả, sáng tỏ, nhân cách của Người trở thành
siêu tuyệt vĩ đại. Và trên lịch sử, con người đã trông thấy dòng sinh
lực nhiệm màu kia hiển lộ sung mãn và linh hoạt nơi con người Đức Phật.
Suốt hơn hai nghìn năm trăm năm lịch sử, đạo Phật luôn gắn với con
người, khai mở cho con người một nguồn sống đầy tính nhân bản. Đức Phật
là người khơi mở nguồn sống ấy, khơi mở chứ không phải là hoá hiện và
tạo dựng. Chính cá nhân con người mới quyết định số phận và tiền đồ của
mình, người có nhân cách độc lập, tự chủ (không lệ thuộc vào bất cứ ai).
Có nhân cách độc lập tự chủ mới có thể nói đến lòng tự tôn và tự tin.
Không có một đấng thần linh nào có quyền năng cứu rỗi được con người.
Phật tử, theo lời Phật dạy, phải tự mình thắp đuốc lên mà đi. Con
người phải tự cứu lấy mình. Chúng ta tin rằng bất cứ ai cũng có thể
hưởng được niềm hạnh phúc thiên giới nếu họ thực hiện lối sống chân
chính.
Đạo Phật như là ngọn hải đăng hướng dẫn con người đến hoà bình, an lạc
và hạnh phúc. Con người phải đi đến mức độ nhận thức rằng sự phát triển
về đạo đức theo lời Phật dạy sẽ là điều kiện cần thiết để đem lại an lạc
và hạnh phúc cho con người.
2.Trí tuệ từ bi và Đại lực
Mục đích của sự thực hành đạo Phật là để đạt tới nhận thức sáng tỏ về
thực tại (Trí), tình thương rộng lớn với mọi người và mọi loài (Bi) và ý
chí bền vững để thành tựu đại nguyện giúp đời (Dũng). Đạo Phật không
phải là một tôn giáo đặt con người và số phận của họ dưới sự điều khiển
của thần linh, thượng đế. Đạo Phật đòi hỏi người Phật tử thực hiện
trí tuệ, tình thương và ý chí nơi bản thân mình và ngoài xã hội. Đạo
Phật là đạo giải thoát và giác ngộ. Chỉ có trí tuệ (Panna) mới là phương
tiện duy nhất đưa con người đến bờ giải thoát và giác ngộ .
Trong kinh Xà Dụ, Đức Phật từng dạy: "Nhờ tuệ quán… nên được giải thoát,
trong sự giải thoát khởi lên sự hiểu biết: "ta đã được giải thoát". Vị
ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành việc nên làm đã làm, không còn
trở lui trạng thái này nữa" (Trung I , 138b). Vị hành giả cần phải tuệ
tri: "Đây là khổ"; "Đây là khổ tập"; "Đây là khổ diệt","Đây là con đường
đưa đến khổ diệt" "Đây là những lậu hoặc"; "Đây là lậu hoặc tập khởi";
"Đây là những lậu hoặc đoạn diệt"; "Đây là con đường đưa đến lậu hoặc
diệt". Nhờ tuệ tri như vậy, hiểu biết như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi
Dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã
giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết:"Ta đã giải thoát". Vị ấy biết
"Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, sau đời
hiện tại, không có đời sống nào khác nữa" (Trung I , tr.279)
Đạo Phật là một tôn giáo trước hết dựa vào lý trí của con người. Nó xuất
hiện như là một đạo lý dựa vào lý trí. Trí tuệ chiếm vị trí then chốt
trong mọi lời dạy của Đức Phật. Vai trò của trí tuệ được Đức Phật dạy :
"Tất cả hành vô thường.
Với tuệ, quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh
Tất cả hành khổ đau
Với tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh
Tất cả pháp vô ngã
Với tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán
Chính con đường thanh tịnh
(Pháp cú 277, 278, 279)
"Thấy khổ và khổ tập
Thấy sự khổ vượt qua
Thấy đường Thánh tám ngành
Đưa đến khổ não tận"
(Pháp cú 191)
"Mắt thịt mắt chư thiện
Vô thượng mắt trí tuệ
Cả ba loại mắt ấy
Được bậc vô thượng nhân
Đã tuyên bố trình bày…
Từ đây trí khởi lên
Tuệ nhãn là tối thượng
Ai chứng được mắt ấy
Giải thoát mọi khổ đau"
(Phật thuyết như vậy, tr.457-458)
Con người muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi thì hãy luyện tập trí tuệ
và từ bi. Đạo Phật coi trí tuệ như một thanh gươm – gươm trí tuệ và chỉ
nó mới chặt được kẻ thù – đó là Vô minh. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là hình
ảnh của tuệ giác đại trí và biện tài vô ngại (kinh Duy Ma). Như vậy, là
đạo Phật đặt vai trò của trí tuệ, chiếm một vị trí then chốt. Chỉ có trí
tuệ con người mới diệt được khổ, đem vui cho mọi loài, đưa đến an lạc và
hạnh phúc .
Mặc dù trí tuệ rất cần thiết để đạt đến giải thoát, chính nó cũng sẽ
không đủ. Nó phải kết hợp với từ bi. Từ bi có thể so sánh như một chiếc
xe chở con người đến ngưỡng cửa giải thoát, nhưng chìa khóa thật sự mở
cửa là trí tuệ. Lòng từ bi đem đến sự hạnh phúc lớn nhất cho con người,
đơn giản là vì lòng từ bi vượt lên trên tất cả những cái khác. Nhu cầu
tình thương nằm trong sự sống còn của con người. Đó là kết quả của sự
phụ thuộc vào nhau không thể thiếu được, khả năng và kỹ năng của một cá
nhân có đó, nhưng để họ sống riêng lẻ thì họ sẽ không tồn tại. Sự phụ
thuộc lẫn nhau là một quy luật cơ bản của tự nhiên. Không chỉ những sinh
vật cao cấp mà những côn trùng nhỏ nhất đang sống trên hành tinh này đều
phải nương tựa vào nhau để tồn tại. Chính vì thế sự hiện hữu của con
người quá phụ thuộc vào sự giúp đỡ của người khác đến nỗi nhu cầu tình
thương của con người là yếu tố quyết định cho sự tồn tại của họ. Vì vậy,
ở bất cứ nơi nào, lúc nào, tình thương là dinh dưỡng quan trọng nhất
trong tất cả .
Chúng ta đã biết con người từng hiện hữu hàng trăm ngàn năm nay.. Ngày
nay, dân số thế giới đang tăng vọt hơn bao giờ hết, dù các cuộc chiến
tranh vẫn còn. Điều này đã nói lên rằng lòng từ bi luôn trội hơn các thứ
khác. Con người dù đẹp, xấu, địa vị xã hội khác nhau nhưng ai cũng muốn
hạnh phúc và không muốn khổ đau. Hơn nữa, quyền của họ là vượt qua những
khổ đau và đạt được hạnh phúc. Đến đây, chúng ta có thể nhận ra rằng tất
cả mọi người đều bình đẳng về mưu cầu hạnh phúc, và họ có quyền chiếm
được nó. Nhận ra điều đó lòng từ bi sẽ phát triển. Lòng từ bi là muốn
giúp người thoát khỏi cảnh chướng ngại khổ đau. Lòng từ bi là đức tính
từ ái, hiền hoà, yên bình trìu mến, cảm thông… có thể nói lòng từ bi là
cái gì làm cho lòng ta êm dịu, là lòng mong ước chân thành cho tất cả
mọi người sống an lành vui vẻ là động lực làm cho tâm rung động trước sự
đau khổ của người khác. Như vậy, lòng từ bi là cái gì quá to lớn, quá
mạnh mẽ và quá vĩ đại. Khao khát thực hành hạnh từ bi là để giúp đỡ
người khác, quan tâm vì sự bình yên của kẻ khác, phục vụ họ, kết bạn
nhiều hơn. Nếu quên hạnh phúc của người khác, thì chính bạn cũng theo
thời gian đó mà bị người khác lãng quên.
Trong thời đại ngày nay, khi mà con người có tiền bạc, quyền lực, khi
mọi sự trên đời này diễn ra tốt đẹp thì con người thường có cảm giác ít
cần đến bạn. Nhưng khi địa vị và sức khỏe suy giảm, con người nhanh
chóng nhận ra sự cần thiết của những người bạn. Tình cảm con người
là quan trọng hơn hết và hành tinh nhỏ bé này chính là mái nhà chung cho
tất cả con người. Một khi chúng ta xem mọi người trong mái nhà này là
anh em thì cũng dễ dàng cởi bỏ đi những động cơ cao ngạo, chia rẽ và ta
cũng dễ dàng lánh xa sự lừa dối và lạm dụng giữa người với nhau. Chìa
khoá đối với một thế giới yên bình và hạnh phúc là sự lớn mạnh của lòng
từ bi. Con người ngày nay, hơn bao giờ hết đang cần đến lòng từ bi. Chỉ
có từ bi mới là chiếc xe chở con người tới bờ giải thoát. Từ bi là động
lực làm cho tâm rung động trước sự đau khổ của kẻ khác, là cái gì thoa
dịu lòng đau khổ của người.
Đạo Phật là đạo giải thoát đưa con người vượt qua bể khổ luân hồi với
kiếp nhân sinh. Trong đau khổ con người đủ tâm trí và can đảm để chế ngự
nó. Ý chí vượt qua mọi khổ đau là một năng lực tinh thần, sức khỏe của
nội tâm, là sự nỗ lực không ngừng sự hoạt động tích cực của tâm trí và
mọi hành động nhằm vào mục đích giải thoát cho mình và cho kẻ khác. Con
người cần phải có ý trí để vượt qua mọi trở ngại. Chướng ngại, nghịch
cảnh chỉ có thể làm cho người Phật tử thêm nghị lực và ý chí phấn đấu. "Không
nên sống thụ động trong lo âu sợ sệt hay chờ mong một tha lực nào đến
cứu vãn. Phải luôn luôn kiên trì, phấn đấu liên tục, cho đến kỳ cùng, để
tự giải thoát lấy ta".
Có thể thấy rằng trí tuệ, từ bi hiệp với ý chí nơi bản thân mình ngoài
xã hội đã tạo thành một năng lực vô cùng trọng yếu có thể hoàn tất mọi
việc để giải thoát khỏi khổ đau đưa con người đạt đến an lành và hạnh
phúc. Trí tuệ từ bi hiệp với ý chí sắt đá là những phẩm chất cao quý của
người Phật tử, nó giúp con người trở nên toàn thiện và có được một lối
sống an bình và hạnh phúc. Nếu mỗi người đều cố gắng với ý chí sắt đá
đem trí tuệ và tâm từ bi phục vụ con người, thì thế giới này sẽ trở
thành một thiên đàng mà tất cả chúng sinh đều được sống an vui trong
tình huynh đệ và mỗi người trở thành một công dân lý tưởng trong một thế
giới hòa bình.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết này, chúng tôi chỉ gợi ý vài nét sơ
lược của đạo Phật với con người và một số phẩm chất cần thiết của người
Phật tử. Trong kho tàng giáo pháp vô cùng phong phú của Đức Phật để lại
những giá trị vượt thời gian và không gian, chúng ta có thể khẳng định
rằng ở thế kỷ 21, những tư tưởng về từ bi, trí tuệ với ý chí sắt đá của
học thuyết Phật giáo vẫn tiếp tục là chiếc chìa khoá mở ra hướng giải
quyết tốt đẹp cho loài người, xây dựng một thế giới phát triển, thanh
bình an vui thực sự, tràn đầy tinh thần nhân ái, như nó đã từng thực
hiện trong nhiều ngàn năm lịch sử.
***