Hành
Trang Cho Ngày Cuối
Tác giả: Pháp sư
Thế Liễu
Dịch giả: Thích
Thiện Phước
LỜI GIỚI THIỆU
“Người xưa khi có việc phải đi xa, lúc sắp chia tay họ không
mong cầu châu báu, chỉ xin một lời khuyên, xem đó là ân huệ”. Nếu như ai
thấu hiểu lời nói này, sẽ có khả năng chuyển hóa tất cả, lập thân dương
danh ngay hiện đời.
Lúc nắng lo khi mưa; lúc no lo khi đói. Cuộc sống chúng ta
tất cả đều ở trong tư thế dự phòng, lo cho tương lai. Tương lai hạnh
phúc tuy là chuyện mai sau nhưng tất cả đều tùy thuộc vào hiện tại. Thế
nên, lúc sống lo cho ngày chết ấy là lẽ đương nhiên. Đời người sẽ là một
hành trình bất tận, nhưng bất tận với những ai không biết nẻo để quay về.
Con người ta sinh ra ai ai rồi cũng phải chết, đó là qui luật của tạo
hóa, là chuyện thường tình ở thế gian, nhưng đức Phật dạy: “Sanh tử là
việc lớn”, vì có sự cách biệt giữa hai nẻo siêu thăng và đọa lạc.
“Nghĩa tử là nghĩa tận” cho dù trong cuộc sống có bận
rộn thế nào đi nữa, nhưng khi hay tin người thân qua đời, phải tạm ngưng
mọi việc, đến để chia buồn thắp lên một nén hương cầu nguyện cho người
mất tạm coi là lời tiễn biệt.
Đấy là nghĩa cử cao đẹp của một con người. Nhưng ta
phải làm thế nào để “Mất còn đều lợi” đó là vấn đề cần nên xét lại và
cũng là những gì được trình bày đầy đủ ở tập sách “Hành Trang Cho
Ngày Cuối” nầy.
Xin trân trọng giới thiệu bản dịch cùng bạn đọc.
Mùa Vu Lan 2005
Tỳ Kheo Thích Lệ Trang
LỜI TỰA
Như Lai vì một nhân duyên
lớn mà hiện ra đời nhằm mở bày cho chúng sinh ngộ vào tri kiến Phật. Tuy
nhiên, muốn mở bày để ngộ vào tri kiến hẳn phải có phương tiện. Thế nên
mới có ba tạng giáo điển và mười hai bộ kinh, gồm thâu tám vạn bốn ngàn
pháp môn.
Lẽ cùng cực ấy đều vì mở
bày ngộ vào tri kiến Phật và đều vì một đại sự nhân duyên này vậy !
Kinh Pháp Hoa chép : “Ta
dùng sức trí huệ vì biết được tánh tham dục của chúng sanh, nên dùng
phương tiện diễn nói các pháp, đều khiến cho được hoan hỉ”. Lại nói : “
a ưa dùng pháp vô úy ở trong các bồ tát, liền bỏ hẳn phương tiện chỉ nói
đạo vô thượng”. Phương tiện nói các pháp là phương tiện bỏ hẳn các
phương tiện, tức là chân thật : Mở ra cửa phương tiện, khơi bày tướng
chân thật, cho nên một bộ kinh Pháp Hoa này là vua trong ba tạng vậy !
Pháp môn Tịnh Độ gọi là
phương tiện thứ nhất trong các phương tiện, là vô thượng liễu nghĩa
trong các pháp liễu nghĩa, viên đốn đến cùng cực trong các pháp viên đốn.
Đại sư Ngẫu Ích nói : “Chư
Phật vì thương xót chúng sanh mê mờ nên theo căn cơ mà giáo hóa, tuy nẻo
về không hai nhưng phương tiện có nhiều môn. Song trong tất cả các
phương tiện, nếu tìm pháp môn rất vắn tắt, rất viên đốn thì chẳng gì
bằng niệm Phật để cầu sanh Tịnh Độ”. Thế mới có pháp môn Tịnh Độ, thật
cùng với Pháp Hoa là một vị, tức là phương tiện và cũng là chân thật.
Tổ sư Ấn Quang đã từng dạy
: “Nếu chúng sanh trong chín cõi lìa bỏ pháp này thì trên không lấy đâu
mà thành Phật đạo, còn mười phương chư Phật nếu bỏ pháp này thì dưới
không thể độ khắp chúng sanh”. Vì pháp môn Tịnh Độ có công dụng như thế,
nên mười phương chư Phật đều khen ngợi, chín cõi đồng về, ngàn kinh đều
xiển bày và muôn luận thảy thảy tuyên vậy !
Đến như người tu pháp môn
Tịnh Độ phải tin sâu nguyện thiết, chuyên trì danh hiệu Phật để được lâm
chung nhất niệm là việc càng quan trọng hơn. Thuở xưa, Tổ Ấn Quang đã
từng in quyển “Sức chung Tân Lương” lưu thông khắp gần xa, người đọc nếu
nương vào đấy thực hành thì được rất nhiều lợi ích. Nay hai thầy Tây
Chấn và Thế Liễu vì muốn lưu thông pháp bảo nên soạn ra bộ “Sức chung tu
tri”. Lời văn tuy đơn giản, nhưng ý chỉ thật cặn kẽ. Nếu ai hay ở ngay
quyển sách này mà tha thiết coi trọng, y như pháp mà thực hành thì người
mất nhất định sẽ được vãng sanh Tây phương. Sự lợi ích ấy nào có thể
lường được ư ?
Nói đến ý nghĩa thâm áo của
pháp môn Tịnh Độ, cho dù ngàn kinh muôn luận mở bày không sót, nhưng vẫn
có một số người còn mê lầm, không thể không giải thích cho tường tận. Có
người bảo niệm Phật phải niệm thật tướng Phật, không nên niệm sáu chữ
hồng danh. Đây là sai lầm vậy ! Nói đến thật tướng tức là lìa tất cả các
sự tướng, tất cả các pháp lặng soi không hai, sắc thân cõi nước không
hai, tánh tu không hai, chơn ứng không hai. Vậy đây đều là thật tướng !
Thế thì nào có thể lìa sáu chữ hồng danh mà riêng cầu thật tướng đấy ư ?
Thế nên hồng danh vừa niệm thì pháp giới rỗng rang, sáu chữ kiên trì thì
thể mầu toàn hiện. Nếu có tri kiến chia rẽ giữa thật tướng và hồng danh
thì chẳng có thể biết được thật tướng vậy! Có người bảo nên niệm Tỳ Lô
Giá Na, không nên niệm A Di Đà vì Tỳ Lô Giá Na là pháp thân của Phật;
còn A Di Đà là ứng thân của Phật. Đây cũng là tri kiến sai lầm vậy ! Ba
thân pháp – báo – ứng, một tức là ba, ba tức là một, Di Đà tức là Tỳ Lô.
Nếu lại chia ra làm hai thì vừa chẳng thể biết được Tỳ Lô vậy ! Có người
lại bảo nên cầu sanh về cõi Thường Tịch Quang, không nên cầu sanh về thế
giới Cực Lạc Tây Phương. Đây cũng là sai lầm vậy ! Nói đến Tịch Quang,
Thật Báo, Phương Tiện và Đồng Cư, “ danh ” tuy có bốn, nhưng “ thể” vẫn
là một. Chưa đoạn kiến tư thì sanh vào cõi Đồng Cư, đã đoạn kiến tư thì
sanh vào cõi Phương Tiện, đoạn sạch vô minh thì sanh vào cõi Thật Báo.
Phần chứng được Tịch Quang, vô minh đã đoạn hết thì rốt ráo Tịch Quang.
Vả lại, cõi Thường Tịch Quang không chỗ nào không sanh. Thế thì há có
thể cầu sanh ư ? Cõi ấy trọn không xét về công hạnh đoạn chứng, thứ bậc
tiến tu vọng cho là Tịch Quang. Phá cõi Cực Lạc này, lại không biết Cực
Lạc Đồng Cư ngay nơi Tịch Quang vọng cho là Tịch Quang. Đặc biệt ở nơi
Cực Lạc, hể vừa có tri kiến ấy thì chẳng thể biết được Tịch Quang vậy !
Có người bảo ngay nơi tâm
là Tịnh Độ. Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh, chỉ nên cầu sanh về Cực Lạc ở
ngay nơi tự tâm, hà tất phải cầu sanh về Cực Lạc ở phương khác ! Đây
cũng là mê lầm vậy ! Nói đến tâm tức là pháp giới, Cực Lạc tuy cách xa
đến ngoài muôn ức cõi nước, nhưng vốn chưa lìa khỏi pháp giới tức là
không lìa ở nơi tự tâm vậy ! Nay gượng lấy sáu trần duyên theo ảnh để
làm tự tâm, vậy mà muốn thu thế giới Cực Lạc vào trong vọng tâm duyên
ảnh sáu trần, rồi lại vọng chấp cầu sanh, há không sai lầm sao ? Những
điều sai lầm này đều chỉ nghe danh từ mà không rõ tột được nghĩa lý sâu
xa, luống bày cái ngu dối nghe lầm chứng thì không sao tránh khỏi sự chê
cười khi thấy chuột mà cho là chim ! Người có trí thì không nên có những
điều mê lầm như vậy ! Những tệ đoan này đều là căn bệnh dễ mắc phải của
người thời nay. Cứ đeo đuổi theo mục đích xa vời, chạy theo danh mà quên
thật. Thế nên, tôi không từ văn chương rườm rà mà xếp loại lại, trông
mong người học xét cho !
Đến như phương pháp và ý
nghĩa trợ niệm khi lâm chung, trong văn đã kể rất rõ, cho nên ở đây
không bàn lại nữa.
Pháp sư Diệu Chơn viết lời
tựa này vào tháng 10 Âm lịch năm Giáp Ngọ tại Hoằng Hóa Xã – Thượng Hải.
LỜI TỰ TỰA
Sự đau buồn nhất ở trên thế
gian này thật chẳng gì hơn cái chết. Đối với việc tử vong, chắc có lẽ
mọi chúng ta không ai không biết đến và cũng không ai tránh khỏi.
Nếu chỉ biết chết là buồn
thương đau khổ mà không biết tìm cầu tu học theo pháp Phật để lìa khỏi
ba cõi, mãi mãi tránh khỏi được cái chết thì sự buồn đau ấy há chẳng
phải là luống nhọc vô ích ư ? Cho dù có tìm được pháp môn đi nữa, nhưng
không khế hợp với căn cơ. Nếu tu tập mà không chứng ngộ thì vẫn ở mãi
trong sáu nẻo luân hồi. Sự đau buồn ấy cũng há chẳng phải là luống nhọc
vô ích ư ?
Do đó, ba ngàn năm trước,
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói rõ trong kinh Đại Tập: “Vào thời mạt
pháp, ức ức người tu, nếu người tự lực nương vào giới định huệ để tu
hành thì ít ai trừ sạch được phiền não nghiệp hoặc chứng được thánh quả.
Chỉ có người nương theo pháp môn niệm Phật và nương vào sức thị nguyên
của Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Tây phương thì có thể vượt thoát sanh
tử ”.
Lại nữa, Tổ thứ 13 tông
Tịnh Độ, tức đại sư Ấn Quang ở Linh Nham – Tô Châu cũng từng nói : “
Chín cõi chúng sanh nếu lìa pháp môn niệm Phật thì ở trên không do đâu
để trọn thành Phật đạo, còn mười phương chư Phật mà bỏ pháp môn niệm
Phật thì ở dưới nương vào đâu để độ khắp chúng sanh ?”. Nên biết tâm đại
bi của Phật Tổ vô cùng thương xót chúng sanh bởi lẽ trong thời mạt pháp,
căn lành cạn mỏng, trí huệ hèn kém, không biết thời cơ, chọn lầm pháp
môn. Tuy có tu nhưng không đắc đạo, luống hao phí tâm lực, sống một đời
nhầm lẫn, cho nên mới nói như thế ! Phải biết pháp môn tín nguyện niệm
Phật độ khắp mọi căn cơ, không luận là tăng tục, nam nữ, già trẻ, thông
minh hay ngu đần; cho đến kẻ phát tâm sớm muộn, kẻ có tội nghiệp nặng
nhẹ …, những hạng người như thế nếu có đầy đủ lòng tin tha thiết, hạnh
nguyện kiên trì, chân thật niệm Phật, cầu sanh Tây phương thì cho đến
trọn đời không thoái chuyển. Người ấy đến khi mạng chung, nhất định sẽ
nương nhờ Phật lực tiếp dẫn vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở Tây phương.
Ngay cả người lúc thường ngày chưa biết tín nguyện niệm Phật cầu sanh
Tây phương, nhưng khi lâm chung, nếu gặp được thiện hữu khai thị dẫn dắt
khiến họ sanh lòng tin nguyện niệm Phật cầu sanh Tây phương, những người
trong gia đình đều không đau buồn khóc lóc và không than vắn thở dài,
lại như pháp mà giúp đỡ họ niệm Phật thì người này nhất định sẽ được
vãng sanh Tây phương. Nên biết rằng lẽ cốt yếu để vãng sanh Tây phương
tuy ở nơi tâm niệm rốt sau của mình làm chủ, nhưng cũng rất chú trọng
pháp trợ niệm.
Buồn thay ! Ngặt nỗi pháp
lâm chung trợ niệm này ở người thế tục vẫn chưa được phổ biến, nên khi
gặp người sắp mất, những người trong gia đình thường lúng túng mê mờ
không biết phép trợ niệm danh hiệu Phật để đưa thần thức của người quá
cố vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, mãi mãi hưởng thọ quả vui. Chẳng những
thế, họ lại còn buồn thương, khóc lóc, kêu réo … khiến cho thần thức
người mất bị đọa lạc trong ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh)
và chịu khổ mãi. Vì thế, pháp sư Tây Chấn có lòng từ bi chí thiết,
thương xót những người thế tục phần nhiều chưa nghiên cứu Phật học. Họ
không biết rằng : “ Cách trợ niệm cho người sắp mất có công năng mầu
nhiệm như điểm sắt thành vàng ”. Cho nên, pháp sư ở khắp nơi, tuyên
truyền mở tỏ những việc lợi hại lúc lâm chung và tổ chức Ban trợ niệm
học tập phương pháp trợ niệm cho người sắp mất. Vì người tu tịnh nghiệp
khi sắp mất giúp thành một đại sự nhân duyên vãng sanh Tây Phương Cực
Lạc, lại nhân vì có hai quyển “ Sức Chung Tân Lương ” và “ Nhân Sanh Chi
Tối Hậu ” có văn nghĩa quá sâu, không tiện để người sơ cơ học tập; cho
nên pháp sư Tây Chấn dặn đi dặn lại, bảo Liễu tôi phải chọn những yếu
ngữ lâm chung của các bậc cổ đức, dùng văn chữ Bạch thoại thông thường
sao chép lại để làm tài liệu học tập. Liễu tôi thật khổ não, lúng túng
vì vô học (không có học). Tuy gom nhặt được vài bản thảo, nhưng việc làm
này cũng rất ư là miễn cưỡng. Lại e rằng văn nghĩa sai lệch, làm lầm
loạn Phật pháp và để lại sự sai sót đáng tiếc cho chúng sanh. Cho dù là
xuất phát từ tâm lành, nhưng lại tạo ra đại tội ! Nhân thế, trước đem
bản thảo kính thỉnh các bậc cao tăng đại đức nổi tiếng trong nước hiệu
đính, rồi sau mới dám in ấn lưu hành. Nguyện cầu khắp nơi cùng làm liên
hữu ! Ngưỡng mong người đọc sách này chớ chê văn chữ nông cạn sơ sài.
Nếu có ai hay y cứ theo thật nghĩa mà thực hành thì người người đến lúc
mạng chung, liền cùng nhau vượt qua khỏi chốn Ta Bà, tạ từ bể khổ sanh
tử, đồng sanh về nước an dưỡng, mãi mãi hưởng thú vui mầu nhiệm Niết Bàn.
Ngày Phật hoan hỉ, mùa thu
Phật lịch 2981 năm. Tịnh nghiệp hậu học Thế Liễu kính cẩn viết lời tựa ở
tịnh xá Hương Lâm Nhất Hành.
( Thiện Phước dịch – từ
nguyên bản tiếng Hán : Sức Chung Tu Tri )
LUẬN VỀ NGƯỜI TU THEO PHÁP MÔN NIỆM PHẬT, KHI LÂM CHUNG CÓ ĐƯỢC VÃNG
SANH KHÔNG?
Phật Thích Ca Mâu Ni nói kinh A Di Đà ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô
Độc, nước Xá Vệ. Ngài khen ngợi y chánh trang nghiêm nơi thế giới Tây
Phương Cực Lạc, khuyên chúng sanh nên phát nguyện vãng sanh.
Kinh chép: “Như ta nay khen ngợi công đức không thể nghĩ
bàn của Phật A Di Đà thì tại phương Đông có Phật A Súc Bệ … phương Tây
có Phật Vô Lượng Thọ … phương Bắc có Phật Diệm Kiên … phương hạ có Phật
Sư Tử … phương thượng có Phật Phạm Âm… cùng hiện ra tướng lưỡi rộng dài,
nói lời thành thật. Chúng sanh các ngươi phải tin kinh này có công đức
không thể nghĩ bàn và được tất cả chư Phật hộ niệm.”
Vãng sanh về nước Tây Phương Cực Lạc là một nhân duyên lớn,
chư Phật ở sáu phương cùng khen ngợi. Hễ người có lòng tin, phát nguyện
niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạc thì nhất định được vãng sanh. Lý
thật, sự thật, nên tin chắc.
HỎI: Nói rằng người niệm Phật, ai ai cũng
được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, nhưng tôi thấy rất nhiều người
xuất gia, tại gia thường ngày ăn chay niệm Phật cầu sanh Tây phương, vậy
mà đến lúc lâm chung thì mê muội tán loạn, rất ít người thật sự vãng
sanh. Tại sao lại như thế?
ĐÁP: Những người ấy do lúc lâm chung không đầy đủ
nhân duyên. Nếu lúc lâm chung được đầy đủ nhân duyên thì mười người tu
vãng sanh được mười, người, trăm người tu được vãng sanh trăm người,
ngàn vạn người tu được vãng sanh ngàn vạn người.
HỎI: Thế nào là nhân duyên?
ĐÁP: Người tu hành lúc bình sanh phát lòng tín
nguyện chân thật niệm Phật cầu sanh Tây phương, đến lúc lâm chung cũng
tín nguyện niệm Phật giống như thường ngày. Tâm niệm đó chính là nhân
tự lực. Nếu như thường ngày chưa biết tín nguyện niệm Phật cầu sanh
Tây phương, đến lúc lâm chung được bạn bè thân thích hướng dẫn khiến
sanh lòng tín nguyện cầu sanh Tây phương, đây là tâm tín nguyện cầu sanh
và cũng là nhân tự lực. Giáo chủ A Di Đà Phật muôn đức hồng danh
tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh về thế giới Cực Lạc và khi lâm chung được
bạn lành trợ niệm. Đây đều là duyên tha lực.
HỎI: Người tu lúc lâm chung nều đầy đủ
nhân duyên, liền được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế nào?
ĐÁP: Người tu lúc sắp mạng chung tín thành tha thiết
niệm Phật. Đức Phật sở niệm là duyên tha lực, còn tâm năng niệm là nhân
tự lực. Ngay trong lúc tin sâu, nguyện thiết, chí thành niệm Phật là
dùng tâm năng niệm, niệm Phật sở niệm. Phật sở niệm nhân vì tâm năng
niệm mà hiển hiện, tâm năng niệm nhân vì Phật sở niệm mà được thanh tịnh.
Thời điểm này chính là tự lực và tha lực cảm ứng đạo giao, nhân và duyên
hòa hợp, cho nên được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Đây là lẽ tất
nhiên !
HỎI: Người tu lúc lâm chung, nhân và duyên
không đủ thì không được vãng sanh. Tại sao?
ĐÁP: Người thường ngày có tín nguyện tu lập pháp môn
niệm Phật mà chưa thành thạo, đến lúc lâm chung, tuy có lòng tín nguyện
cầu sanh về Tây phương (có nhân), nhưng vì bị khổ đau bệnh hoạn
bức ngặt, tâm không khởi niệm danh hiệu Phật được, không có bạn lành an
ủi, chỉ dẫn và trợ niệm (không duyên); lại vì những người trong
gia đình không biết, buồn khóc khổ đau, tạo ra các thứ trở ngại. Trong
tâm người bệnh khởi lên rất nhiều khổ não, những người trong gia đình
không nên khóc lóc làm trở ngại mà hãy giúp đỡ họ niệm Phật cầu vãng
sanh về Tịnh Độ. Tuy họ không nói ra, nhưng lúc ấy vô cùng đau khổ, đến
khi mạng chung lẽ ra thần thức người ấy được thác sanh về cõi nước thanh
tịnh trang nghiêm của Phật A Di Đà, mãi mãi hưởng thọ an lạc thành tựu
Phật đạo độ khắp chúng sanh, nhưng vì gia đình, bà con… buồn khóc, gây
ra các thứ trở ngại, một tâm niệm rốt sau ấy liền rong ruỗi theo phiền
não mà bị đọa lạc. Đây là mối tương quan giữa sự có nhân mà không duyên,
cho nên không thể vãng sanh.
Lại có người thường ngày tha thiết tín nguyện niệm Phật, đến
lúc lâm chung, trợ duyên cũng rất tốt, cũng có bạn lành đến giúp đỡ niệm
Phật và những người trong gia đình đều không khóc lóc làm chướng ngại (có
duyên). Nhưng người ấy trong lòng sanh điên đảo, tham đắm vào dục
tình thế gian và luyến ái vợ con, tài sản… không phát tâm niệm Phật để
sanh về Tây Phương Cực Lạc (không nhân), đến một tâm niệm sau cùng cũng
bị tình ái dục nhiễm lôi dắt, đọa vào ác đạo. Đây là mối tương quan có
duyên mà không nhân, cho nên cũng không được vãng sanh.
Lại có người ngày thường tuy niệm Phật, chỉ cầu nguyện cho
gia đình được bình an che chở và thọ mạng lâu dài, đến lúc lâm chung,
trong tâm luôn sợ chết. Ví như căn bệnh khi mới phát sanh, tuy cũng khởi
tâm niệm Phật, nhưng họ chỉ cầu cho bệnh tật được mau lành, không phát
tâm cầu mong sanh về Tây Phương Cực Lạc (không nhân). Bệnh tình
mỗi lúc một trầm trọng. Hơn nữa, khi bệnh khổ đã hiện bày thì họ không
thể an lòng niệm Phật, chỉ rên la, kêu réo trời đất, cha mẹ… Nếu như
những người trong gia đình không tin Phật pháp, hoặc có tin nhưng chưa
hiểu rõ nghĩa lý trong kinh đức Phật dạy thì họ chẳng những không trợ
niệm dẫn dắt (không duyên), lại còn khóc lóc, kêu réo, gây ra các
thứ trở ngại làm cho nỗi đau khổ và phiền não trong tâm người bệnh trỗi
dậy, thất rối rắm không thể nói. Đây cũng giống như người rơi xuống
giếng, lại còn ném đá theo. Thật là khổ não đau xót khôn cùng ! Đối với
hạng người này, một niệm sau khi mạng chung nhất định sẽ bị phiền não ác
nghiệp lôi dắt và đọa ngay vào trong ba đường ác. Đây là mối tương quan
không nhân và cũng không duyên, cho nên không thể vãng sanh tây phương.
Ba hạng người nêu trên lúc lâm chung có nhân tự lực, nhưng
không có duyên tha lực. Có duyên tha lực, nhưng không có nhân tự lực vì
không được hai lực tự và tha cảm ứng đạo giao, nhân duyên hòa hợp, nên
không được vãng sanh Tây phương.
HỎI: Người lúc lâm chung, nhân duyên thế
nào thì mới đầy đủ và được vãng sanh Tây phương?
ĐÁP: Nếu người có đại căn cơ, thường ngày có tín
nguyện niệm Phật; tín nguyện đã tha thiết, niệm Phật công phu lại rất
thuần thục; lúc lâm chung không cần ai ở bên cạnh trợ niệm, người ấy tự
nhiên sẽ tín nguyện niệm Phật như thường ngày, trong lòng không có các
tướng: động, tĩnh, khổ vui, thuận nghịch… niệm niệm nối nhau, an trụ
trong câu A Di Đà Phật.
Kinh A Di Đà chép: “Nhất tâm bất loạn thì liền được vãng
sanh”. Niệm tâm là nhân tự lực năng cảm; Phật cảnh là duyên tha lực sở
cảm. Đây là được đầyđủ nhân và duyên.
Lại có người thường ngày có tín nguyện niệm Phật nhưng công
phu chưa thuần thục, đến lúc lâm chung, khởi lòng tín nguyện cầu sanh
Tây phương, tha thiết hơn thường ngày, không luận là bệnh khổ hay các
thứ phiền não dấy hiện, người ấy chỉ một lòng cầu nguyện vãng sanh trước
sau không dời đổi, gia đình người ấy có tri thức, hiểu rõ việc lợi hại
lúc lâm chung, không buồn đau hay làm các thứ trở ngại; lại có thiện hữu
đến trợ niệm dẫn dắt. Trong tâm người bệnh, ỗi niệm đều nương tựa vào
hồng danh A Di Đà Phật. Đến lúc mạng chung, tâm niệm rốt sau niệm Phật
và theo Phật vãng sanh về Tây phương. Đây là người có đầy đủ nhân và
duyên.
Lại có người ngày thường không biết tín nguyện niệm Phật cầu
sanh về Tây phương, đến khi lâm chung được thiện hữu dẫn dắt hoặc nói về
sự an vui, thanh tịnh và trang nghiêm ở thế giới Cực Lạc, khiến cho
người bệnh sanh lòng hoan hỉ mong cầu. Lại nói Phật A Di Đà có phát ra
48 lời thệ nguyện tiếp dẫn chúng sanh, khiến cho người bệnh sanh lòng
chánh tín niệm Phật cầu sanh Tây phương. Người bệnh ấy khi nghe được,
liền hoan hỷ tín nhận niệm Phật và quyết định cầu nguyện vãng sanh về
thế giới Cực Lạc. Quyến thuộc đều nghe theo lời chỉ dẫn của thiện hữu mà
không làm các thứ chướng ngại, niệm niệm nối nhau, nương vào từ lực của
chư Phật tiếp dẫn vãng sanh về Tây phương. Đây là nói nhân và duyên đều
đầy đủ.
Trên đây đã lược nêu ra ba hạng người lúc sắp mạng chung,
hai lực Tự Tha đầy đủ thì cảm ứng đạo giao, nhân duyên hòa hợp, cho nên
được vãng sanh tây phương.
HỎI: Người thường ngày hoàn toàn chưa biết
tín nguyện niệm Phật, đến lúc lâm chung, gặp thiện hữu dẫn dắt, sau khi
nghe liền sanh lòng hoan hỷ, tin nhận và phát nguyện cầu sanh về Tây
phương. Những người trong gia đình đều không khóc lóc buồn thương, lại
còn giúp đỡ họ niệm Phật, khi mạng chung cũng được vãng sanh về Tịnh Độ.
Tại sao lại có chuyện dễ dàng như thế ?
ĐÁP: Trên đây đã nói rõ sáu điều kiện về người lâm
chung được vãng sanh Tây phương, còn chuyện dễ hay không thì cũng được
trình bày rất minh bạch. Sao bạn lại hoài nghi ? Nếu hiểu được hạng
người này bình thường chưa từng tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây
phương, đây là vì không biết nguyên do. Đến lúc lâm chung, vì được bạn
lành dẫn dắt, người này nghe được, trong lòng sanh hoan hỷ, đây là biểu
hiện họ có gieo trồng căn lành ở đời trước. Tâm thức người này thật
không giống với lúc bình thường, lại tin nhận niệm Phật, phát lòng cầu
sanh Tây phương, đây là nhân thù thắng. Bạn lành dẫn dắt và quyến thuộc
giúp đỡ niệm Phật. Trợ duyên này thật mạnh mẽ, lại nhờ vào nguyện lực từ
bi của Phật A Di Đà tiếp dẫn, quả là nhân và duyên in hợp nhau. Vậy
người tu lúc mạng chung nhất định được vãng sanh về Tây Phương Tịnh Độ,
lại có gì ngăn ngại được ?
HỎI: Mỗi người chúng ta phải vì cha mẹ, bà
con của mình, đến lúc mạng chung giúp đỡ họ niệm Phật và đưa họ về Cực
Lạc tây Phương; giá như mời mà các thiện hữu không thể đến được; mọi
người trong gia đình chưa hiểu về giáo lý nhà Phật, cho dù có mở bày
hướng dẫn phương pháp trợ niệm thì cũng không thể hiểu. Xin hỏi có kinh
sách gì giảng giải phương pháp trợ niệm mà văn tự tương đối dễ xem, dễ
hiểu và dễ học tập để mọi người tìm hiểu, đây không phải là việc tốt hơn
sao?
ĐÁP: Các bạn nếu thật lòng muốn thực hành đạo từ bi,
hiếu thuận, thương yêu thân bằng quyến thuộc của mình, khiến trừ sạch
những nỗi sanh tử khổ đau, trợ niệm cho họ vãng sanh về Tây Phương Cực
Lạc mãi mãi được an lạc cho đến thành tựu Phật đạo, độ khắp chúng sanh;
chỉ cần nương theo nội dung và ý nghĩa các đề mục trong sách này thực
hành, đến lúc mạng chung nhất định được vãng sanh sang thế giới Tây
Phương Cực lạc.
NHỮNG ĐIỀU QUYẾN THUỘC NÊN
CHÚ Ý
1. Cha mẹ là bậc đại ân nhân sanh dưỡng thân này, thế nên
mỗi người cần phải hiếu thuận. Anh, chị, em, vợ chồng phải thân ái. Con
trai, con gái, cháu, dâu phải từ ái. Thế nào là hiếu thuận, thân ái và
từ ái ? Thế nào là không hiếu thuận, không thân ái và không từ ái ? Đối
với vấn đề này cần phải hiểu rõ, nếu hiểu biết một cách chung chung thì
khiến cho tâm hiếu thuận – thân ái – từ ái biến thành việc ngỗ nghịch và
tệ hại. Mỗi người chúng ta muốn trừ được mối nguy này thì những vấn đề
sau đây cần phải học tập để hiểu rõ.
2. Nói đến giây phút lâm chung là việc cuối cùng của một
đời người, quyến thuộc chúng ta trong giai đoạn này phải tận tâm đối với
người bệnh để biểu hiện tấm lòng hiếu thuận – thân ái – từ ái chân thật.
Phải chăm sóc cẩn trọng trong mọi thời khắc, bất luận là việc gì nhất
nhất đều phải tùy thuộc vào ý của người bệnh, không thể khiến người bệnh
sanh phiền não dù chỉ chút ít.
3. Người sắp mạng chung, nhất định phải mời Ban hộ niệm đến
để giúp đỡ họ niệm Phật. Nếu Ban hộ niệm đến, những người trong gia đình
chúng ta đều phải nghe theo lời họ chỉ dẫn, mảy may không được chống
trái. Phải hiểu rằng ban hộ niệm vì cứu độ thần thức người thân của mình
vãng sanh tây phương, cho nên mọi người chúng ta phải hết lòng cảm ơn,
phải đối xử với họ thật tử tế ! Giả như những người trong Ban hộ niệm vì
việc khác mà đến thì phải mời họ noi theo phương pháp trợ niệm mà thực
hành, không thể thay đổi phương pháp này. Được vậy thì người mất liền
vãng sanh Tây phương. Hơn nữa, cả gia đình phải ăn chay, tuyệt đối không
được sát sanh vì người bệnh tu tạo phước lành. Trợ niệm cho đến khi thấy
căn bệnh nặng dần, lúc này phải nhất tâm vì người bệnh niệm Phật, giúp
họ vãng sanh tây phương. Nhất thiết không được một mặt thì cần người trợ
niệm, một mặt thì chích thuốc trợ tim, cho uống thuốc bổ v.v… Những việc
làm này chỉ tăng thêm đau khổ cho người bệnh thôi, làm trở ngại việc
vãng sanh của họ. Thật đáng thương tâm ! Trông mong những người trong
gia đình phải hiểu rõ mà không nên hại người thân của mình.
4. Nói đến người lúc mạng chung là lúc phân chia con đường
thánh ở tây phương, đường vui ở cõi trời – người – A tu la và đường khổ
ở địa ngục – ngạ quỷ - súc sanh.
Những người trong gia đình nếu vì người bệnh mà trợ niệm
danh hiệu Phật, chính là đưa thần thức của họ vãng sanh về con đường
thánh ở cõi Tây phương, hưởng thọ vô lượng quả vui vi diệu. Giả như đối
với người bệnh buồn thương, khóc lóc, kêu réo… thì đó là đưa thần thức
người bệnh đọa vào trong ba đường khổ là địa ngục – ngạ quỷ - súc sanh,
mãi mãi chịu mọi thứ khổ đau. Những người trong gia đình phải hiểu rõ
vấn đề này.
Đây là phân biệt rõ hiếu thuận và không hiếu thuận, thân ái
và không thân ái, từ ái và không từ ái.
5. Phải tin trong kinh, Đức Phật dạy: “Nếu bị đọa lạc vào
ba đường ác là địa ngục – ngạ quỷ - súc sanh thì phải chịu sự đau khổ
thật khôn cùng ! Thời gian thọ khổ cũng rất dài. Ở địa ngục rất khổ sở,
một ngày một đêm phải chịu muôn lần chết và muôn lần sống. cái khổ ở ngạ
quỷ lâu dài đến trăm ngàn muôn kiếp, ngay cả tên nước còn không được
nghe qua, huống gì được ăn ! Súc sanh cũng bị khốn khổ vì cảnh rút ruột
mổ bụng để cung cấp cho thân miệng người. Nếu đọa lạc trong ba đường này
thì ít nhất phải trải qua 3.000 đại kiếp, mỗi một đại kiếp lâu đến 30 ức
4 ngàn 3 trăm 84 vạn năm. Nếu đợi khi tội khổ trong 3.000 đại kiếp lãnh
thọ xong mới được ra khỏi thì không biết đến bao giờ !” Giả như sanh về
cõi Tây phương, mỗi ngày nghe Phật A Di Đà giảng kinh và thuyết pháp,
cùng làm bạn lành với Bồ Tát Quan Âm, Thế Chí… những cảnh tượng trông
thấy đều là sắc tướng mầu nhiệm trang nghiêm, tai nghe toàn là những âm
thanh hòa nhã, vi diệu, hưởng thọ những quả vui như thế thật không thể
nói ! Lại có đủ thần thông đạo lực, khi hóa độ bà con thân thích của ta,
muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, tất cả đều tự tại như ý. Hơn nữa,
trong một đời, liền được thành Phật, mỗi người chúng ta hiểu rõ cõi Tây
Phương Cực Lạc có vô lượng vô biên sự an vui như thế ! Vậy ai mà không
chịu phát tâm giúp đỡ cha mẹ, người thân của mình niệm Phật vãng sanh về
Tây phương để hưởng thọ sự an vui ? Ba đường ác là địa ngục, ngạ quỹ,
súc sanh có vô lượng vô biên khỗ não, thế thì ai lại nhẫn tâm đối với
cha mẹ và người thân của mình, buồn thương khóc lóc khiến cho họ bị rơi
vào ba đường ác cam chịu đau khổ ? Chúng ta phải hiểu rằng người lúc lâm
chung dù được sanh Tây phương, hay bị đọa địa ngục – ngạ quỷ - súc sanh.
Trách nhiệm này phần lớn là do những người thân trong gia đình gây nên.
6. Người bệnh thường ngày đã phát tâm niệm Phật cầu sanh về
Tây phương. Đó chính là việc rất tốt, nhưng nếu người không có tín tâm
hoặc không niệm Phật để cầu sanh Tây phương thì những người trong gia
đình phải nói với người bệnh rằng: “Thân người là vô thường, lại luôn
bị trầm luân trong sáu nẻo và ba đường ác là địa ngục – ngạ quỷ - súc
sanh, đó là những nơi rất khổ đau và cũng rất dễ đọa lạc”. Lại nói rằng:
“Cõi Tây phương rất an vui, người ở thế giới Tây Phương Cực lạc được hóa
sanh từ hoa sen, chỗ ngồi rất êm ái, thơm sạch, lớn đẹp, lại có ánh sáng;
người dân ở Tây phương cư trú trong lầu gác được làm bằng trân bảo,
chẳng những cao lớn mà còn đẹp đẽ; người dân ở Tây phương muốn ăn thức
ăn ngon thì liền có thức ăn ngon, muốn mặc y phục đẹp thì liền có y phục
đẹp; người dân ở Tây phương hưởng thọ những sự an lạc thật không thể nói
hết được ! Bạn (ông, bà, cha, mẹ…) muốn phát tâm niệm danh hiệu Phật A
Di Đà thì phải tha thiết mong cầu, đến khi lâm chung, Phật A Di Đà tay
cầm đài hoa đến rước bạn sanh về cõi nước ấy chỉ hưởng thọ quả vui. Nếu
bạn … chịu phát tâm niệm Phật thì nhất định được vãng sanh. Những người
trong gia đình mỗi ngày phải nói với người bệnh ba lần như thế” ! Phương
pháp nói không nên quá mau, cần phải từ từ ôn hòa khuyên bảo. Phải hiểu
được tâm nguyện của người bệnh, rất dễ dấy khởi phiền não và họ cũng rất
sợ phiền não. Nếu người bệnh đã tin thì không nên khuyên bảo nữa, sau đó
chỉ khuyến khích người bệnh nhất tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương.
7. Người bệnh nếu có việc nhà và những việc khác thường
ngày chưa nói rõ cho gia đình biết, những người trong gia đình nên đợi
cho đến lúc tâm thức của họ tỉnh táo mà hỏi. Nếu tâm thức của người bệnh
đang lâm vào trạng thái hôn mê, không hiểu được lời giảng giải hoặc
trước đó đã có hỏi qua thì không nên nói những việc trong gia đình cho
người bệnh nghe nữa, để tránh khỏi làm tán loạn chánh niệm của người
bệnh (chánh niệm là trong tâm luôn trì niệm danh hiệu Phật).
Tâm thức của người bệnh nếu sáng suốt thì những người
trong gia đình nên nói với họ rằng: “Bạn …ơi ! Tất cả mọi chuyện trong
gia đình, chúng tôi đều gánh vác được. Bạn không cần phải lo lắng nữa,
khoảnh khắc quan trong này phải chuyên tâm nhất ý niệm Phật A Di Đà để
cầu sanh về Tây phương”. Chỉ nói một lần như thế ! Từ đây trở về sau,
phải luôn luôn nhắc nhở họ nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây phương, đồng
thời cũng dùng ngón tay chỉ về hướng Tây, nói với người bệnh rằng: “Cõi
tây phương ngay trước mặt bạn, bạn phải nhất tâm niệm Phật để được vãng
sanh”. Những người trong gia đình mỗi ngày phải nhắc nhở người bệnh vài
lần như thế ! Giả như tâm thức của người bệnh đã lâm vào trạng thái hôn
mê thì không cần phải nhắc nhở nữa, mà chỉ trợ niệm danh hiệu Phật cho
họ thôi !
8. Nếu có bạn bè, thân quyến đến thăm người bệnh thì người
nhà trước phải mời họ vào phòng khác tiếp đãi và nói với họ rằng: “Việc
trọng yếu của kiếp người là lúc lâm chung”. Lại nói: “Giúp đỡ người bệnh
niệm Phật là việc rất có lợi ích; đối với người bệnh, nếu khóc lóc thì
có trở ngại rất lớn”. Thứ nhất là để cho khách khỏi sanh lòng nghi ngờ;
thứ hai là tránh ở trước mặt người bệnh buồn than, sầu não và làm ngăn
ngại Chánh niệm của người bệnh. Lại phải khuyên người khách niệm Phật
trợ duyên cho người bệnh, cầu nguyện họ được vãng sanh Tây phương, như
thế mới là tình cảm chân chánh.
9. Nếu người bệnh, nghiệp chướng quá nặng, không thích
người khác thay họ niệm Phật, chán ghét người niệm Phật hay nghe thấy
người niệm Phật thì sanh lòng buồn bã, hoặc thấy oan hồn đến trước mặt
đòi mạng… Đây là ác nghiệp của họ hiện bày, làm ngăn ngại việc vãng
sanh. Ở trường hợp này, những người trong gia đình phải dốc lòng thành
niệm Phật sám hối khiến nghiệp chướng họ tiêu trừ và mau vãng sanh Tịnh
Độ.
Năm
trước, mẫu thân của một cư sĩ bị bệnh nặng sắp mất. Ông liền thỉnh Ban
hộ niệm đến nhà để trợ niệm. Vừa nghe tiếng mọi người niệm Phật, trong
lòng bà liền sanh buồn bã và bảo Ban hộ niệm đừng nên niệm Phật nữa.
Đương lúc ấy, vị thầy của cư sĩ biết đây là ác nghiệp hiện bày, cần phải
tụng vài quyển kinh Địa Tạng để hồi hướng cho bà. Ngay cả bản thân cư sĩ
cũng ở trước Phật thay mẹ sám hối, lại trợ niệm cho mẹ. sau đó, mẹ ông
rất vui vẻ, và cuối cùng được vãng sanh Tây phương.
Trên đây đã nêu rõ việc tụng kinh tiêu trừ được nghiệp
chướng, giả như không thể tụng kinh Địa tạng thì niệm danh hiệu Bồ Tát
Địa tạng cũng được.
Lại có vị cư sĩ, phụ thân của ông đang lâm vào cơn trọng
bệnh, trông thấy người nữ và con chó đến đòi mạng. Vị cư sĩ bèn niệm
Phật, sám hối hồi hướng cho cha. Quả nhiên, cha ông không thấy người nữ
và con chó đến nữa ! Sau đó, cha ông thấy hai vị Tăng đến nói rằng: “Đời
trước, ông đã từng cản trở chúng tôi vãng sanh, bây giờ chúng tôi cũng
cản trở việc vãng sanh của ông”. Vị cư sĩ lại sám hối hồi hướng cho cha,
cầu xin hai vị Tăng tha thứ để cha ông được vãng sanh Tây phương, sau
này ông nhất định sẽ giúp hai vị Tăng vãng sanh Tây phương, ngõ hầu tạ
lỗi cha mình thuở trước. Hai vị Tăng bèn biến mất. Cuối cùng, phụ thân
của ông nằm mộng thấy một lão Tăng đến nói rằng: “Oan nghiệp của ông đã
tiêu trừ. Qua 21 ngày nữa, ông sẽ vãng sanh. Phẩm vị của ông là ở hàng
thứ năm”. Lại nói: “Sở dĩ 21 ngày là con của ông biết đạo”. Mọi người
cho rằng ba tuần là 21 ngày, trợ niệm như thế trải qua rất nhiều ngày và
mệt mỏi. Bây giờ, lại phải tiếp tục trợ niệm đến 21 ngày nữa, mọi người
cảm thấy rất vất vả. Hóa ra chỉ niệm qua 21 tiếng đồng hồ thì phụ thân
của ông liền được vãng sanh, còn hàng thứ năm thuộc trung phẩm, trung
sanh. Xét lại việc này, những người trong gia đình thay người bệnh niệm
Phật sám hối, hoặc tụng kinh Địa Tạng, hoặc niệm danh hiệu Bồ Tát Địa
Tạng thì rất có lợi ích cho người bệnh.
10. Lúc người bệnh sắp tắt hơi, ban trợ niệm nếu đông thì
những người trong gia đình phải đến trước bàn thờ Phật hoặc quỳ gối chí
thành tha thiết cầu Phật từ bi tiếp dẫn thần thức vãng sanh Tây phương.
Người trợ niệm nếu ít thì những người trong gia đình phải đến gần bên
cạnh người bệnh để giúp đỡ họ niệm Phật, nhưng không nên để cho người
bệnh trông thấy. Chúng ta phải hiểu trong giờ phút lâm chung, nếu để cho
họ thấy những người trong gia đình thì khó tránh khỏi sanh lòng buồn
thương luyến ái, làm trở ngại chánh kiến của họ. Tốt nhất là nên ngồi ở
hai bên hoặc ngồi phía sau mà niệm Phật, không nên bi ai. Nếu khóc lóc,
người bệnh nghe được, trong lòng sẽ khởi lên ý niệm luyện ái. Nếu có tâm
niệm như thế thì liền mất chánh niệm, chánh niệm đã mất thì không thể
vãng sanh. Cho nên, trong giờ phút này người thân thuộc chúng ta phải
cẩn thận chú ý, tuyệt đối nén nỗi buồn thương, chỉ lớn tiếng niệm Phật,
niệm mỗi câu mỗi chữ thật rõ ràng. Lúc đang niệm Phật, trong tâm phải
cầu nguyện Phật lực gia hộ cho người mất được thân tâm an lạc, chánh
niệm phân minh và mau được vãng sanh về thế giới Tây phương.
11. Sau khi người bệnh tắt hơi, toàn bộ thân thể chưa lạnh,
trong giai đoạn này, người thân thuộc chúng ta càng thêm chú ý: “ Không
nên đau buồn mà phải phát tâm niệm Phật lớn tiếng; đồng thời trong mọi
thời khắc, chớ để ruồi muỗi đậu trên thân hoặc trên mặt người mất. Nên
biết rằng người mất tuy đã tắt hơi, nhưng thân thể nếu một vài chỗ còn
nóng thì thần thức chưa rời khỏi thân xác. Nếu có vật gì tiếp xúc với
thân thể người mất thì họ vẫn cảm thấy khó chịu”. Một số người vì không
biết, cho nên luôn luôn thăm dò thân thể người mất xem hơi nóng ở chỗ
nào. Việc làm này rất tai hại, không có lợi ích gì cả ! Người mất hơn 10
giờ đồng hồ, nếu muốn biết toàn thân đã lạnh hẳn chưa thì phải mời một
người tương đối có sự hiểu biết, nhẹ nhàng từ từ mà thăm dò. Những người
trong gia đình lúc này nhất định phải nghe theo sự chỉ dẫn của Ban hộ
niệm, để tránh khỏi sự tai hại đáng tiếc cho người mất. Nếu không có Ban
hộ niệm chỉ dẫn thì nhất định phải y theo phương pháp trợ niệm mà hành
trì. Đến như người trong Ban hộ niệm cũng phải tuân theo người lãnh đạo
chỉ dẫn, không nên tùy tiện sờ mó vào thân thể người mất, càng không nên
nghe theo lời mê tín ở thế tục nói rằng: “Người sau khi chết, lúc thân
thể còn nóng, xương khớp còn mềm thay y phục là tốt nhất”. Lại nói:
“Người bệnh khi mất rồi, nếu không sớm di chuyển thì mắt không nhắm được
!”. Lại nói: “Phải khóc lóc, nếu không thì hung tính không lui đi !”.
Đây là những lời mê tín, tương truyền có vô lượng vô biên vong hồn bị
hại làm hại, chịu khổ nỗi vô cùng oan uổng, rơi vào ba đường ác là địa
ngục – ngạ quỷ - súc sanh.
Thuở xưa có vị vua tên A Kỳ Đạt thường ngày phụng thờ tin
tưởng Phật pháp, xây dựng chùa tháp, công đức cao vời. Đến lúc lâm
chung, khi hơi thở vừa dứt, vị quan hầu cận vì nhiều ngày mất ngủ nên vô
tình để chiếc quạt đang cầm trên tay rơi trên mặt ông. Lúc ấy, vua cảm
thấy rất khó chịu, bỗng nổi lòng sân, thần thức liền theo lòng sân này
mà đọa làm thân rắn. Vì vua A Kỳ Đạt lúc còn sống đã từng tu tạo nhiều
công đức lành, kính tin Phật pháp, xây dựng chùa tháp, nên sau gặp một
vị Tăng nói pháp cho nghe. Con rắn này do nhờ nghe được Phật pháp, nên
ba ngày sau thì nó chết, liền thoát khỏi thân rắn và sanh lên cõi trời.
Lại nữa, thuở xưa có hai vợ chồng luôn quyến luyến thương
yêu nhau, thường ngày cùng tín ngưỡng Phật pháp và vâng giữ trai giới.
Một hôm, người chồng bỗng dưng qua đời, người vợ buồn đau khóc lóc.
Người chồng tuy đã chết, nhưng thần thức vẫn chưa lìa khỏi xác. Vì nghe
tiếng vợ mình khóc lóc buồn thương mà nảy sinh ý niệm tình ái, thế là
ngay lúc ấy thần thức liền đầu thai làm con trùng ở trong lỗ mũi của
người vợ. Người vợ cứ buồn khóc mãi, ít hôm sau trong lỗ mũi bỗng rơi
xuống đất một con trùng. Người vợ muốn dùng chân đạp chết nó, vị Tăng
bèn nói: “Đừng làm hại chồng cô !”. Cô ta vô cùng sợ hãi hỏi duyên cớ,
vị Tăng đáp: “Chồng cô lúc còn sống vì phụng trì trai giới, lẽ ra được
sanh vào cõi trời. Nhân vì cô quá buồn đau khóc lóc nên chồng cô sanh
lòng luyến ái, thần thức liền theo ý niệm ân ái ấy mà đầu thai làm con
trùng ở trong lỗ mũi cô đấy !”. Lúc ấy, người vợ tự hối hận, bèn cầu xin
vị Tăng thuyết pháp cho trùng nghe. Con trùng sau khi nghe pháp, liền
thoát xác, thần thức sanh về cõi trời.
Hai câu chuyện này trong các kinh điển thường đề cập đến,
đều có căn cứ rõ ràng. Thuyết pháp mê tín theo khuôn sáo trống rỗng ở
thế tục như thế là không có căn cứ. Mọi người chúng ta nhất định phải
biết rõ kiểu thuyết pháp mê tín này để người mất khỏi phải bị đọa vào
địa ngục – ngạ quỹ - súc sanh một cách oan uổng. Cho nên, người mất sau
khi dứt hơi thở, tuyệt đối không được đụng chạm vào thân thể họ để tránh
gây tai hại cho họ là “không được vãng sanh”.
Nói tóm lại, tất cả đều phải nghe theo sự hướng dẫn của Ban
hộ niệm. Nếu không có sự hướng dẫn của Ban hộ niệm thì những người trong
gia đình chúng ta phải cẩn thận nhẹ nhàng thăm dò thân thể người mất,
đợi đến khi toàn thân của họ lạnh hết, rồi mới lo liệu việc tắm rửa và
thay y phục.
(Phương pháp thay y phục sẽ chỉ dẫn rõ ở phần sau).
TRỢ NIỆM VẤN ĐÁP
HỎI: Hai
chữ “trợ niệm” nghĩa là gì ?
ĐÁP: Trợ là giúp đỡ,
niệm là chánh niệm; nói gọn là giúp người lâm chung giữ được chánh niệm
hiện tiền.
HỎI: Sao
gọi là “chánh niệm” ?
ĐÁP: Chánh niệm gọi
là “Tịnh niệm”. Chánh niệm và tịnh niệm giống như tâm niệm niệm Phật.
Nhân vì tâm niệm niệm Phật là chánh nhân để thành Phật, cho nên gọi là
“chánh niệm”, lại gọi là tâm niệm niệm Phật. Vì tâm không tương ứng cùng
với lục trần, nên gọi là “chánh niệm”. Tịnh niệm cũng là tịnh nhân để
vãng sanh Tịnh Độ. Thế thì ý nghĩa của chánh niệm đại khái cũng như thế
!
HỎI: Tại sao phải đứng bên cạnh người sắp
mất để trợ niệm?
ĐÁP: Người đến lúc lâm chung thì bốn đại chia lìa.
Các khổ nhóm họp, tay chân rối rắm giống như nỗi thống khổ của con cua ở
trong chảo nước sôi. Hàng ngày dụng công niệm Phật nếu chưa thuần thục
thì ai mà không cần người đứng bên cạnh để trợ niệm lúc lâm chung? Cho
dù thường ngày có dụng công niệm Phật sáu – bảy phần, nhưng đến lúc lâm
chung thì cũng khó mà giữ được hai – ba phần. Huống gì người lúc còn
sống chưa từng dụng công niệm Phật thì sao lại không cần người ở bên
cạnh để trợ niệm lúc lâm chung ? Nên biết, người lúc lâm chung tự mình
không thể làm chủ được cho dù chỉ là chút ít, hoàn toàn phải nương vào
người bên cạnh giúp họ niệm Phật và giúp họ được tự chủ.
HỎI:
Người bệnh khi chết rồi vẫn phải trợ niệm. Việc ấy có tác dụng gì ?
ĐÁP: Vì người bệnh
vừa tắt hơi, tuy đã chết nhưng thần thức vẫn chưa hẳn rời khỏi xác, chưa
biết đời sau sanh về cõi thiện hay ác, nhưng hiện tại nếu được giúp đỡ
niệm Phật thì có diệu dụng rất thù thắng. Phải hiểu rằng người đến lúc
lâm chung chính là ranh giới của thánh đạo, thiện đạo và ác đạo. Chúng
ta từ vô thỉ kiếp cho đến nay vì tạo ra những nghiệp thiện ác nhiều vô
lượng vô biên, trong tâm dấy khởi tâm niệm thiện ác nối nhau không dứt.
Đa phần đều là tâm niệm ác, niệm thiện rất ít. Người lúc lâm chung, tâm
niệm rốt sau nếu là ác thì sẽ bị đọa vào ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh. Nếu tâm niệm rốt sau nhớ nghĩ đến việc thiện thì liền sanh lên cõi
trời, khi cảnh lành hiện đến thì một tâm niệm khi mạng chung bèn theo
thiện cảnh mà thác sanh vào cõi lành. Tâm niệm sau cùng nếu niệm Phật,
nguyện cầu vãng sanh Tây phương thì thế giới Cực Lạc Tây Phương liền
hiện ra, Phật A Di Đà cùng các thánh chúng đến tiếp dẫn vãng sanh. Chúng
ta nên hiểu ý nghĩa của việc giúp đỡ người khác niệm Phật trong lúc lâm
chung, trong tâm niệm Phật chính là một niệm cần thiết sau cùng của
người sắp mất. Một niệm sau cùng nếu biết niệm Phật thì Phật A Di Đà
ngay trong tâm niệm ấy mà hiện ra tiếp dẫn. Chính trong tâm mình niệm
Phật, theo Phật vãng sanh Tây phương thì nghiệp sanh tử ở cõi nước Ta Bà
dứt sạch, mãi mãi hưởng thọ an vui. Giúp đỡ người sắp mất niệm Phật có
diệu dụng rất thù thắng như thế !
LÂM CHUNG NHẤT NIỆM
VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG
HỎI: Thế giới Tây Phương Cực Lạc cách xa
Ta Bà tới mười muôn ức cõi Phật. Như vậy, người sắp mất chí nhất tâm
niệm Phật thì làm sao mà vãng sanh được ?
ĐÁP: Người lâm chung nhất tâm niệm Phật vãng sanh về
thế giới Cực Lạc Tây Phương, vì có ba lực không thể nghĩ bàn:
I. PHẬT LỰC: Chính là 48 lời đại nguyện của bậc đại
từ đại bi A Di Đà Phật, tiếp thọ chúng sanh tín nguyện niệm Phật vãng
sanh về Tây Phương Cực Lạc.
II. TÂM LỰC: Chính là một tâm niệm hiện tiền của
mỗi chúng ta. Một tâm niệm này có ba nghĩa:
1. Tâm thể:
Bản thể của một niệm này tương đồng với tâm niệm của
chư Phật, không có mảy may nào sai khác. Chư Phật vì đã giác ngộ, không
còn mê vọng, nên trái với trần lao hợp với tánh giác, tâm ý thanh tịnh
đầy đủ vô lượng công đức trí tuệ. Chúng ta vì thường mê vọng, không tỏ
ngộ nên hợp với trần lao trái với tánh giác. Tâm này bị nhiễm dơ, đầy
dẫy vô lượng phiền não hoặc nghiệp. Giả như chúng ta phát tâm niệm Phật
A Di Đà, đang lúc niệm A Di Đà ấy chính là đang từ bỏ những mê vọng để
trở về với bản tánh giác ngộ trái với trần lao, hợp với tánh giác.
Vô lượng vô biên phiền não hoặc nghiệp hoàn toàn được
thanh tịnh. Vô lượng công đức trí huệ đều được hiển bày. Đây là đang lúc
tâm niệm Phật thì đồng với tánh giác của chư Phật. Cho nên, người xưa
nói: “Một niệm tương ứng với một niệm niệm Phật”. Thánh nhân và phàm
phu cùng một tâm thể. Chư Phật và chúng sanh cùng một nguồn tâm. Niệm
Phật thì được thành Phật, tỉ như nấu gạo thì sẽ thành cơm. Đây là lẽ
đương nhiên !
2. Tâm lượng:
Tâm lượng rộng lớn vô biên. Kinh chép: “Tâm bao thái
hư, lượng trùm pháp giới”. Tại sao gọi là rộng lớn ?
Trong kinh nói rằng trong bầu thái hư có vô số cõi
Phật như vô số vi trần. trung ương có một thế giới tên là Phổ Chiếu Thập
Phương Xí Nhiên Bảo Quang Minh. Thế giới này hàm tàng cả 20 tầng thế
giới. Thế giới Cực Lạc ở ngoài cõi nước Ta bà của chúng ta đến mười muôn
ức cõi, cùng ở trong tầng thứ 13 của thế giới Phổ Chiếu Thập Phương Xí
Nhiên Bảo Quang Minh. Một thế giới còn rộng lớn như thế, huống gì thế
giới của chư Phật nhiều như vô số bụi trần ! Có rất nhiều thế giới vẫn ở
trong bầu thái hư, mà bầu thái hư ấy lại ở trong một tâm niệm của mỗi
chúng ta. Do dây, có thể thấy tâm lượng của mỗi chúng ta thật rộng lớn
vô biên, cho nên nói rằng: “Tâm bao thái hư, lượng trùm pháp giới”.
Mọi người chúng ta phải rõ được tâm lượng một niệm
của mình cũng rộng lớn vô biên như thế ! Vậy đối với người tu pháp môn
Tịnh Độ, lúc lâm chung, nếu nhất tâm niệm Phật thì việc vãng sanh về thế
giới Tây Phương Cực Lạc tự nhiên không thể ngờ vậy !
3. Tâm cụ:
Trong tâm niệm của mỗi chúng ta có đầy đủ mười pháp
giới: Phật, Bồ Tát, Duyên giác, Thinh văn, Trời, Người, A tu la, Súc
sanh, Ngạ quỷ và Địa ngục. Nhưng mười loại pháp giới này chỉ do một niệm
mình thành. Trong tâm niệm của mỗi chúng ta, nếu tạo ra mười ác nghiệp
chính là đã khơi mở ra ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu
tạo ra mười nghiệp lành thì đó chính là khơi mở ra ba đường lành: Trời,
người, A tu la. Trong tâm niệm của mỗi chúng ta thường hay niệm Phật thì
đó chính là tác tạo nên một vị Phật. Thế nên, trong kinh chép: “Thị tâm
tác Phật, thị tâm thị Phật” (Tâm ấy làm nên Phật, tâm ấy là tâm Phật).
hay nói một cách khác, ngay trong tâm nếu gây nhân chúng sanh thì tâm ấy
chính là chúng sanh, cho nên trong tâm niệm của mỗi chúng ta nếu niệm
Phật thì tức là Phật. Tâm này niệm Phật đương thể chính là Phật, nếu
hiểu được trong tâm niệm của mỗi chúng ta xưa nay vốn đầy đủ công đức
trí huệ Phật. Trong một tâm niệm, nếu niệm Phật thì ta chính là Phật.
Đây là lẽ tâm đầy đủ, tâm tạo tác. Giả như mọi người đều hiểu được ý
nghĩa này, đối với việc niệm Phật nhất định sẽ được thành Phật, không
thể không tin !
Trên đây đã trình bày về tâm thể, tâm lượng
và tâm cụ. tuy nói rằng có ba loại, nhưng thật ra chẳng thể
phân biệt. Trong tâm niệm của mỗi chúng ta, vì có sự diệu dụng vô cùng
tận như thế, cho nên mới nói tâm lực của chúng sanh không thể nghĩ bàn.
III. PHÁP LỰC:
Chính là tín nguyện niệm Phật, sẽ có sự cảm ứng không thể nghĩ bàn.
Phàm có lòng tin chân thật, ý nguyện tha thiết và chí
thành niệm danh hiệu Phật A Di Đà thì năng lực của Phật, năng lực của
pháp và tâm lực của chúng sanh, lại gồm nhiếp dung hợp trong một câu
danh hiệu Phật A Di Đà. Nhân vì có ba thứ lực không thể nghĩ bàn này,
chúng dung hợp trong một niệm. Cho nên khi lâm chung, nếu tâm được nhất
niệm thì liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tây Phương. Người xưa
nói: “Hội tam lực ư đồng thời, thâu thành công ư nhất niệm”. (Cùng một
lúc biết được ba lực, sẽ được thành công trong khoảng một niệm) là nghĩa
nầy vậy !
VÀI ĐIỂM QUAN
TRỌNG NGƯỜI TRỢ NIỆM CẦN HIỂU RÕ
1. Phát tâm giúp đỡ người khác trợ niệm vãng sanh
Tây Phương. Đây là một trọng trách thay thế đức Như Lai gánh lấy trách
nhiệm hóa độ mọi loài liễu sanh thoát tử. Chúng ta khi thực hành đại sự
cứu độ chúng sanh thì nhất định phải hành sự một cách nghiêm túc, không
được phô diễn làm mê lầm đại sự nhân duyên liễu sanh thoát tử của người
khác. Thất thận trọng !
2. Khi đến nhà người bệnh để trợ niệm, trước phải
mời những người thân đến và nói rõ mối tương quan trọng yếu siêu thăng
hay đọa lạc của người sắp mất: “Đây là trách nhiệm của toàn thể gia
đình bạn. Nếu các bạn muốn người thân mình được siêu thăng, không đọa
lạc thì nhất định phải nghe theo lời chỉ dẫn của chúng tôi, không nên
trái nghịch dù chỉ là chút ít, thế mới bảo đảm được người sắp mất nhất
định vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tây Phương”.
3. Người trợ niệm đến phòng người bệnh phải có thái
độ thành khẩn, lời nói phải hòa nhã; người bệnh khi nghe được, trong
lòng sẽ không hoài nghi; trước phải khen ngợi những việc làm làng trong
đời sống thường ngày của họ khiến cho họ sanh lòng hoan hỉ. Kế đến lại
nói các pháp để họ sanh lòng an lạc và khởi niềm tin chân chánh cầu sanh
về Tây phương. Người trợ niệm phải nghĩ rằng họ chính là thân thuộc của
mình. Phải biết rằng ở đời này, tuy không phải là người thân thuộc chân
thật, nhưng một – hai – ba đời về trước cũng từng làm thân thuộc lẫn
nhau. Người trợ niệm nếu quán tưởng người bệnh là thân thuộc của mình
thì tâm trợ niệm danh hiệu Phật sẽ tha thiết hơn nhiều.
4. Trong phòng bệnh, ngoài người khai thị cho người
bệnh ra, còn tất cả những người khác không được tiếp chuyện với người
bệnh, cũng không cho ở trong phòng bệnh rảnh rang ngồi nói chuyện tạp
khiến cho người bệnh nghe được, rồi phân tâm quên mất chánh niệm. Nếu có
bà con hàng xóm muốn đến thăm viếng thì người trợ niệm phải hỏi họ rằng:
“Bạn đến để giúp cho người bệnh niệm Phật phải không ?” Nếu quả đúng như
vậy thì phải nghe theo lời chỉ dẫn của người trợ niệm để khỏi bị trở
ngại. Nếu không phải đến để trợ niệm thì phải tùy thời mà nói rõ với
người thân dẫn khách đến chỗ khác để tiếp chuyện, hầu tránh cho người
bệnh thấy sanh tình cảm luyến ái, làm trở ngại đến chánh niệm của họ.
Đây là trách nhiệm của người trợ niệm, không nên nể tình. Nếu vì nể tình
làm trở ngại cho người bệnh quên mất chánh niệm, không được vãng sanh
thì đó chính là trái với bổn hoài độ sanh của chư Phật và cũng không hợp
với tông chỉ trợ niệm !
5. Niệm Phật bốn chữ, sáu chữ, mau chậm, cao thấp
nhất định phải hỏi qua sở thích của người bệnh. Nếu người bệnh không thể
nói được thì niệm Phật không nên quá mau, nếu quá mau thì nghe không rõ.
Cũng không nên quá chậm, vì quá chậm thì dễ bị hụt hơi và hôn trầm. Cũng
không nên niệm với thang âm cao quá, nếu cao quá thì người trợ niệm mau
mệt khó mà trì niệm lâu được. Cũng không nên quá thấp, nếu thấp quá thì
nghe không rõ. Cho nên, niệm Phật tốt nhất là vừa phải, không mau, không
chậm, không cao, không thấp. Mỗi câu, mỗi chữ phải rõ ràng, khiến cho
mỗi câu, mỗi chữ phải vào tai và thâm nhập vào tâm thức người bệnh. Niệm
Phật như thế mới đúng là trợ niệm. Tất cả không thể niệm nhanh chậm, cao
thấp một cách tùy tiện theo sở thích của mình. Nếu niệm Phật như thế,
tuy gọi là trợ niệm, nhưng người bệnh khó được lợi ích.
Nếu hiểu rằng việc trợ niệm là vì lúc người bệnh sắp
mất, nguyên khí suy vi, tự mình không thể niệm Phật được, hoàn toàn phải
nương vào người khác niệm câu hồng danh A Di Đà Phật. Niệm cho rõ ràng
khiến người bệnh trở về với danh hiệu Phật. A Di Đà Phật hiện hữu mãi
trong tâm họ; luôn luôn soi xét tất cả sự việc, không để cho tâm niệm
của người bệnh bị dao động, khiến cho người bệnh giữ được chánh niệm.
Niệm niệm nối nhau đến lúc mạng chung, tâm niệm rốt sau được bất loạn
thì nhất định vãng sanh về thế giới Tây Phương. Đây là nói trợ niệm đạt
đến mục đích chân thật, thay thế Như Lai gánh lấy trách nhiệm hóa độ
chúng sanh liễu thoát sanh tử !
6. Có khi trợ niệm trải qua một thời gian thì tinh
thần người bệnh bỗng dưng sáng suốt hơn trước, nào là nói năng, than thở,
thậm chí thân thể cử động được… Nếu người trợ niệm gặp các hiện tượng
như thế thì cần phải chú ý, không nên hấp tấp đến xem. Người bệnh nếu có
phát sanh những trạng thái như thế thì tối đa chừng 2 giờ đồng hồ nữa sẽ
tắt hơi; giống như chong đèn, khi dầu sắp hết thì ngọn đèn cũng lu dần,
đến lúc dầu hoàn toàn hết thì ngọn đèn bỗng phựt sáng lên trong giây lát
rồi tắt hẳn. Người bệnh lúc sắp tắt hơi cũng có nhiều hiện tượng như thế.
Từng nghe: “Trợ niệm nhiều ngày, tinh thần người bệnh
bỗng dưng sáng suốt, nói năng, than thở… Người trợ niệm nếu không có
kiến thức và kinh nghiệm, đang lúc người bệnh có hiện tượng như thế thì
ngừng trợ niệm. Mọi người đến xem xét, nhưng chưa qua 2 giờ đồng hồ thì
người bệnh tắt hơi”. Cho nên, đối với các hiện tượng như thế, người trợ
niệm chúng ta cần phải có sự nhận thức rõ ràng.
7. Người trợ niệm mới đến, nếu gặp người bệnh vừa tắt
hơi hoặc đã tắt hơi một – hai – ba giờ đồng hồ thì phải hiểu rằng lúc
này là thời điểm rất quan trọng, tốt nhất trước phải lớn tiếng khai thị
qua một lần, rồi sau mới trợ niệm. Nhân vì người bệnh sau khi tắt hơi,
không luận là những người thân thuộc có gào khóc hay không, nhưng tâm
của họ nhất định bị não loạn. Nếu ta lớn tiếng chỉ dẫn thì tâm của người
mất vẫn còn hat biết. Do còn sự hiểu biết nên:
a. Tâm người mất có chỗ để nương về,
ngay lúc não loạn thì trở về chánh niệm.
b. Cũng biết phát nguyện cầu sanh Tây
phương. Người khai thị nên cao giọng, lời nói phải đơn giản rõ ràng, nói
rằng: “Bạn… lúc trước có làm việc lành và việc ác. Tất cả đều không nên
nhớ đến. Con cháu, tài sản trong nhà phải buông bỏ tất cả, mảy may không
nên vướng bận. Tâm ý phải chuyên nhất niệm Phật A Di Đà để cầu sanh Tây
phương. Chúng tôi đang giúp đỡ bạn niệm Phật, bạn phải nhất tâm lắng
nghe mọi người niệm Phật, mỗi niệm nương vào câu A Di Đà Phật mà cầu
sanh Tây phương. Bạn phải nhất tâm lắng nghe mọi người niệm Phật, mỗi
niệm nương vào câu A Di Đà Phật mà cầu sanh về Tây phương” (Phải nói
2 lần như thế).
Khi khai thị xong thì mới bắt đầu trợ niệm. Việc trợ
niệm lúc này phải cao giọng chuyên niệm bốn chữ A Di Đà Phật. Nếu người
mất ngày thường có lòng tín nguyện cầu sanh về Tây phương, thì nhất định
được vãng sanh về Tây phương. Nếu người thường ngày không có lòng tín
nguyện cầu vãng sanh, đến lúc lâm chung, nhờ nghe danh hiệu Phật sẽ có
công đức cũng không thể nghĩ bàn.
Kinh Địa Tạng chép: “Người lúc mạng chung, nghe được
một danh hiệu Phật, dù có tội nặng bị đọa vào địa ngục ngũ vô gián đi
nữa thì cũng liền được tiêu diệt”.
Cho nên, công đức giúp đỡ người khác niệm Phật lúc
lâm chung to lớn thật không thể lường !
NHÂN QUẢ TỐI THẮNG CỦA
NGƯỜI TRỢ NIỆM
Có nhân thì nhất định sẽ có
quả. Chúng ta nếu hay phát tâm giúp đỡ người khác niệm Phật để cầu vãng
sanh Tây phương, đến khi ta lâm chung, tự nhiên sẽ được người phát tâm
đến trợ niệm cho chúng ta được vãng sanh Tây phương, sau này nhất định
hõ sẽ từ Tây phương hầu Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, dùng thần lực gia hộ
chúng ta, khiến cho chúng ta không mất chánh niệm vãng sanh về thế giới
Cực Lạc Tây Phương.
Lại nữa, chúng ta thường giúp đỡ người khác niệm Phật vãng
sanh Tây Phương nên chúng ta biết rất rõ những việc lợi hại khi lâm
chung. Sau này, đến lúc mình lâm chung, nhất định sẽ vận dụng được những
kinh nghiệm ấy, khiến cho tất cả những việc không như pháp chẳng phát
sanh, quyết định vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tây Phương.
Chúng ta phải hiểu rằng Đức Như Lai sở dĩ ra đời chính là vì
độ thoát tất cả chúng sanh, khiến thành tựu Phật quả. Trong 49 năm, Đức
Thích Ca thuyết pháp chính là sự kiện này. Phật A Di Đà phát ra 48 lời
nguyện, trang nghiêm thế giới Cực Lạc Tây Phương cũng là sự kiện này.
Toàn bộ giáo lý của đạo Phật đều nương vào tự lực mà tu tập. hành giả
phải hoàn toàn đoạn sạch phiền não thì mới lìa khỏi sanh tử. Những pháp
môn ấy rất khó thực hành, còn pháp môn Tịnh Độ thì chỉ nương nhờ nguyện
lực tiếp dẫn của Phật A Di Đà mà được vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tây
Phương, không cần đoạn hết phiền não, liền vượt ra khỏi sanh tử, chỉ
trong một đời thì thành tựu được Phật đạo, Pháp môn ấy rất dễ thực hành.
Hiện tại, chúng ta giúp đỡ người niệm Phật vãng sanh Tây phương là thay
thế Đức Như Lai gánh vác lấy trách nhiệm độ thoát chúng sanh, khiến cho
người được chúng ta trợ niệm sớm vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Vì tu tập theo pháp môn dễ thực hành, lại nương nhờ nguyện lực của
Phật A Di Đà nên rất mau thoát khỏi sanh tử và trọn thành Phật đạo. Thế
nên, người trợ niệm có công đức rất trọng đại. Loại công đức này chính
là nhân lành để giúp chúng ta thành tựu được Phật quả. Về sau, chúng ta
nương nhờ vào công đức này thì cũng được sanh sang thế giới Cực Lạc Tây
Phương, thoát khỏi biển khổ sanh tử và thành tựu Phật đạo. Do gieo nhân
thành Phật mà thành tựu được Phật quả, đây là lẽ tất yếu vậy !
VẤN ĐỀ TRONG SẠCH Ở PHÒNG BỆNH
Trong phòng bệnh, phải quét dọn cho sạch sẽ. Phàm tất cả
những vật có thể di chuyển được thì tốt nhất phải dời đi để cho gian
phòng trống trải thoáng mát. Thứ nhất là tránh sự dao động ngăn ngại đối
với người bệnh. Thứ hai là tránh sự bất tiện cho những người trợ niệm
khi ra vào. Tâm thức người bệnh nếu còn tỉnh táo thì nhất định phải quay
mặt về hướng Tây, thường chỉ cho người bệnh quán tưởng, hướng về thế
giới Cực Lạc Tây Phương và dạy cho họ nằm theo tư thế “kiết tường”
(nghiêng về bên hữu). Giả như người bệnh quá bức ngặt vì đau đớn, tâm
không an định được thì phải xoay trở liền. Nếu người bệnh biết được là
phải làm thế nào mới đề khởi chánh niệm được dễ dàng thì phải thuận theo
ý họ. Trước giường người bệnh khiến họ thấy mà sanh lòng kính ngưỡng.
Giả như người bệnh có đại tiểu tiện nhơ uế thì phải lau rửa sạch sẽ.
Người bệnh nếu hơi thở sắp tắt, thân thể có đại tiểu tiện nhơ uế đi nữa
thì cũng không nên vội vàng lau rửa hay thay quần áo, chỉ nên nhất tâm
niệm Phật. Cho dù có nghe mùi hôi đi nữa thì người trợ niệm phải hiểu
rằng trợ niệm là gánh vác trọng trách của Như Lai để cứu độ chúng sanh
ra khỏi biển khổ sanh tử. Há vì một chút uế khí kia mà ruồng bỏ trách
nhiệm của mình sao ? Thân thể phần đoạn sanh tử này của mỗi chúng ta lúc
lâm chung, ai bảo đảm rằng không dơ uế ? Nếu nghĩ như vậy thì tâm này tự
nhiên không còn đoái hoài đến sự hôi hám nữa. Đối với những chỗ dơ uế
trên thân người bệnh vừa mất, nhất định phải đợi đến khi toàn thân lạnh
hết thì mới được tắm rửa và thay y phục. Trước giường người bệnh, thờ
cúng Phật tượng lẽ ra không nên để uế khí bừa bãi, nhưng vì quan tâm đến
chánh niệm của người sắp mạng chung, cho dù có đồ dơ uế đi nữa cũng
không nên tắm rửa và thay y phục, e rằng làm ảnh hưởng đến việc vãng
sanh của người bệnh. Lúc này, không thay quần áo tắm rửa là việc bất đắc
dĩ, tuy có uế khí bừa bãi nhưng không có tội.
PHÁ TRỪ NGHI CHƯỚNG
Nếu người mắc bệnh quá nặng thì phải cảnh sách họ rằng: “
Lại còn việc gì vướng mắc nữa không ?”. Giả như còn việc gì vướng mắc ở
trong lòng thì phải giúp họ tháo gỡ, giảng cho họ hiểu, sớm phá trừ hoài
nghi của họ để tránh làm trở ngại việc vãng sanh Tây phương. Nếu người
bệnh không có việc gì vướng mắc thì chỉ hỏi qua một lần, về sau không
nên hỏi nữa để người bệnh không bị phân tâm mà quên mất chánh niệm. Phải
nên chú ý !
Nếu người bệnh có tâm ngờ rằng tuy tâm họ niệm Phật, nhưng
thời gian không còn nhiều; lại sợ tội nghiệp của họ rất nặng, chẳng biết
có được vãng sanh không …thì người trợ niệm phải nói với họ rằng: “Phát
tâm niệm Phật, sớm muộn gì thì vấn đề ấy cũng không có trở ngại, nhưng
điều tối quan trọng là từ lúc phát tâm cho đến khi lâm chung đều lấy tâm
bất thối làm chuẩn. Ngay cả người sắp cận kề bên cái chết, sau khi được
thiện hữu khai thị, họ mới hiểu được mà phát tâm niệm Phật thì đó cũng
là điều rất tốt.
Trong kinh, đức Phật dạy: “Người thường ngày tạo tội rất
nhiều, lại rất nặng, đến khi lâm chung, nhờ thiện hữu khai thị mới phát
tâm niệm Phật thì cũng được vãng sanh Tây phương”.
Trong kinh lại chép: “Niệm một câu A Di Đà Phật thì tiêu trừ
được 80 ức kiếp tội nặng sanh tử”. Cho nên, việc phát tâm niệm Phật và
thời gian không còn dài hoặc tội nghiệp rất nặng. Tất cả không nên nghi
ngờ, chỉ cần bạn nhất tâm niệm Phật và quyết chí nguyện cầu sanh về Tây
phương, đến lúc mạng chung, nhất định tự mình thấy Phật A Di Đà đến tiếp
dẫn vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.
Nếu người bệnh có tâm luyến ái quyến thuộc, tài sản, thì
người trợ niệm liền phải nói với họ rằng: “Con người trong thế giới
chúng ta rất khổ sở. Già cũng khổ, bệnh cũng khổ, sắp chết cũng khổ… Các
thứ khổ sở nói không thể hết ! Còn người ở thế giới Cực lạc Tây Phương
rất an lạc, không già, không bệnh và không chết. những sự an lạc ấy thật
vô lượng vô biên ! Nếu bạn muốn cầu sanh về Tây Phương để cứu độ quyến
thuộc sanh về Tây phương cùng hưởng thọ sự an lạc, nhưng trong tâm bạn
có sự luyến ái đến quyến thuộc sanh về Tây phương cùng hưởng thọ sự an
lạc, nhưng trong tâm bạn có sự luyến ái đến quyến thuộc và tài sản thì
sẽ trở ngại cho việc vãng sanh. Vậy bạn phải mau mau buông bỏ tất cả,
nhất tâm niệm Phật để tự mình sanh về Tây phương trước. Nếu sanh về Tây
phương rồi thì có đạo lực thần thông, nương theo nguyện lực mà trở lại
để độ những người thân thuộc của mình được sanh về Tây phương, làm pháp
thuộc của Phật A Di Đà, mãi mãi hưởng thọ an vui. Từ nay trở đi, nếu có
tâm nghĩ tới quyến thuộc và tài sản thì bạn phải tự trách mình: Thế giới
Ta Bà là khổ sở, thế giới Tây phương có sự an lạc như thế ! Tại sao mình
phải điên đảo, luyến ái quyến thuộc và tài sản, làm chướng ngại đến con
đường vãng sanh của mình; lại bị mê lầm, quyến thuộc đời đời kiếp kiếp
không được cứu độ. Sau đó, phải nhất tâm niệm Phật cầu sanh về Tây
Phương Cực Lạc”.
Người bệnh nếu có tâm ngờ rằng tự mình niệm Phật rất nhiều,
nhưng tại sao không thấy Phật, lại ngờ rằng tự mình đến lúc mạng chung,
chẳng hay Phật A Di Đà có đến rước hay không … thì người trợ niệm phải
nói với họ rằng: “Phàm hiện tại có được thấy Phật hay không là đều
không liên quan”. Giả như hiện tại không thấy Phật, nhưng đến lúc lâm
chung, nhất định sẽ thấy Phật. Điều rất quan trọng là câu A Di Đà Phật,
mỗi niệm phải hiện tiền. Đến lúc mạng chung, Phật A Di Đà tự nhiên ở
trong tâm niệm niệm Phật của bạn hiển hiện ra mà tiếp dẫn. Bạn cũng ở
ngay trong tâm niệm niệm Phật ấy theo Phật về Tây Phương Cực Lạc, Bạn
phải để tâm niệm Phật, nhất thiết không nên nghi ngờ. Giả như tâm ngờ
phát sanh thì tâm bạn có sự ngăn cách với tâm Phật A Di Đà, tự mình
không được vãng sanh Tây phương. Nếu bạn không sanh lòng nghi ngờ, nhất
tâm niệm Phật thì tâm bạn cùng với tâm Phật A Di Đà cảm ứng đạo giao,
nhất định vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, mảy may không nên nghi ngờ.
Nên biết người lúc lâm chung thấy Phật đến tiếp dẫn khi sớm, khi muộn.
Thấy trước một – hai ngày, hoặc một vài tiếng đồng hồ, vài phút, vài
giây …đều bất đồng. Nếu chậm nhất là sát na sau cùng khi người mạng
chung – lúc thần thức sắp lìa khỏi xác, Phật mới ứng theo niệm mà hiện
đến tiếp dẫn. Lúc Phật hiện ra là lúc hành giả thấy Phật và vãng sanh về
Tây phương.
Người bệnh ban đêm, ban ngày, lúc tĩnh tâm niệm Phật, hoặc ở
trong mộng niệm Phật, nếu thấy cảnh ác, nghe tiếng ác rồi sanh lòng sợ
hãi, làm trở ngại đến chánh niệm thì người trợ niệm phải nói với họ rằng:
“Những cảnh ác, tiếng ác này đều do oan gia từ nhiều kiếp trước cho đến
nay bị bạn giết hại. Chúng biết bạn phát tâm niệm Phật, quyết định vãng
sanh Tây Phương Cực Lạc, cho nên các cảnh hung ác hiện ra để tâm bạn sợ
sệt và ngăn ngại không cho bạn niệm Phật vãng sanh về Tây phương. Tâm
bạn không nên sợ hãi, không nên nhìn, không nên nghe chúng. Phải chuyên
tâm dốc ý vào câu A Di Đà, niệm niệm chí thành khẩn thiết, không nên có
một mảy may nào gián đoạn thì các thứ ma quỷ oan trái kia không có chỗ
để nương tựa nữa, thế là chúng tự nhiê lui mất thôi !”
Có người thấy quyến thuộc của mình đã qua đời như ông bà,
cha mẹ … đến tiếp dẫn thì phải hiểu rằng ông bà, cha mẹ … ấy đều là quỷ
thần trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh biến hóa ra lôi dắt
bạn vào trong đó chịu khổ. Bạn không nên quan tâm đến họ, chuyên nhất
vào câu A Di Đà Phật, niệm niệm không dừng thì những ông bà, cha mẹ … do
quỷ thần biến hóa ra đó tự nhiên sẽ không còn; hoặc trông thấy nào là
trời, thần đến tiếp dẫn bạn sanh về cõi trời hay làm thần thuyết thì bạn
càng phải nên thận trọng. tâm niệm của bạn không nên để mảy may nào
khuấy động, chỉ có Phật A Di Đà cõi Tây phương ở ngay trong tâm niệm
thanh tịnh của bạn niệm Phật mà hiện đến tiếp dẫn, nhưng bạn phải theo
Phật để vãng sanh. Rất nên chú ý !
LÂM CHUNG KHAI THỊ
Bạn phải hiểu rằng thế giới này không ai tránh khỏi hai điều:
Bệnh khổ và tử vong. Nếu bạn là người có bệnh khổ thì tâm của bạn không
nên đoái hoài đến bệnh khổ mà phải chuyên tâm dốc ý niệm Phật. Mỗi niệm
tự mình phải để tâm vào danh hiệu Phật. Được vậy, bệnh khổ đó sẽ nhẹ đi
nửa phần.
Người niệm Phật chúng ta đến lúc lâm chung, không luận là
việc gì, đều phải buông bỏ tất cả. Nên để tâm rỗng rang thanh tịnh, mỗi
niệm sáng suốt rõ ràng, dốc lòng chấp trì một câu A Di Đà Phật; không
luận là ba ngày, năm ngày, bảy ngày … đều được vãng sanh. Ta chỉ nên để
tâm vào một câu niệm Phật này mà cầu sanh về Tây phương, trước sau không
nên thay đổi. Nếu bạn thực hành đúng như vậy thì chắc chắn bạn sẽ được
vãng sanh. Hy vọng rằng bạn không giống hạng người không hiểu biết, đến
lúc lâm chung, có bệnh khổ liền kêu réo cha mẹ, cầu nguyện trời đất quỷ
thần gia hộ. Đây là sự sai lầm rất lớn, phải hiểu rằng người niệm Phật
khi lâm chung, không luận là có bệnh khổ hay không, cuối cùng phải cầu
sức từ bi của Phật A Di Đà đến tiếp dẫn.
Trời đất thần tiên quỷ vật, ngay cả bản thân họ càng đang
đắm chìm trôi lăn trong sáu nẻo thì có năng lực gì mà tiếp dẫn chúng ta
ra khỏi sanh tử ? Chỉ cầu sức từ bi của Phật A Di Đà có 48 lời thệ
nguyện, có đầy đủ đạo lực thần thông mới cứu độ bạn thoát khỏi biển khổ
sanh tử luân hồi. Nếu bạn có ý cầu trời, tiên, thần và quỷ gia hộ thì
phải mau buông bỏ tất cả, nhất tâm niệm Phật cầu sanh về Tây phương.
Nếu mạng sống của bạn chưa hết thì nhờ niệm Phật mà tiêu trừ
được nghiệp chướng và mau hết bệnh. Nếu thọ mạng đã hết thì bạn nhất
định sẽ được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Giả như bạn chỉ cầu mong
cho mau hết bệnh mà không mong cầu sanh về Tây phương, cho dù thọ mạng
của bạn đã hết thì cũng không được vãng sanh. Nếu thọ mạng chưa hết thì
bệnh khổ nhất thời cũng khó lành. Chẳng những khó hết mà lại càng trầm
trọng hơn. Bạn thử nghe xem, thế giới của chúng ta có bao nhiêu khổ não
? Nếu sanh về Tây Phương thì có bao nhiêu điều vui sướng ? Giả như bạn
có tâm cầu trời đất thần tiên quỷ vật gia hộ, như thế là trong lòng bạn
sợ chết ! Nếu có lòng sợ chết thì tâm của bạn cùng với bổn nguyện của
Phật A Di Đà đã có sự ngăn cách, cũng không thể vãng sanh Tây phương,
như thế sẽ mãi mãi ở trong biển khổ không có ngày thoát ly. Nếu bạn có
tâm sợ chết thì phải tự trách: “Ta vì phát tâm niệm Phật, quyết chí cầu
sanh về Tây phương, thế sao phải tâm sợ chết làm chướng ngại con đường
vãng sanh về Tây phương ?” Sau đó một lòng khẩn thiết niệm Phật và cầu
Phật từ bi sớm đến tiếp dẫn. Phải hiểu rằng bệnh khổ hiện ra lúc lâm
chung là do ác nghiệp của bạn từ nhiều đời nhiều kiếp mà chiêu cảm đến,
hoặc do oan gia bị bạn giết hại từ nhiều đời trước đến đòi nợ, cho nên
các thứ bệnh khổ hiện ra khiến cho tâm bạn dấy lên phiền não và ngăn
không cho bạn niệm Phật vãng sanh.
Nếu hiểu rõ ý chỉ này thì trong tâm bạn không còn bị các thứ
phiền não quấy nhiễu nữa. Phải chí thành niệm Phật, mỗi niệm không nên
lơ là, toàn thân nương vào danh hiệu của Phật A Di Đà mà cầu vãng sanh
về thế giới Cực Lạc Tây Phương.
TÌM HIỂU VỀ NHỮNG
BỆNH KHỔ LÚC LÂM CHUNG
Người niệm Phật khi lâm chung, nếu căn bệnh quá nặng thì
không nên khởi tâm nghi ngờ và sợ sệt. Thuở xưa, pháp sư Đường Huyền
Trang khi lâm chung cũng có rất nhiều bệnh khổ, huống gì hàng phàm phu
chúng ta há không có bệnh khổ hay sao ? Ta phải hiểu những bệnh khổ này
là do ác nghiệp đời trước của mình gây tạo mà cảm vời ra. Nếu bạn không
dốc lòng niệm Phật thì những ác nghiệp này sẽ chiêu cảm đến tội báo nặng
nề nơi địa ngục trong đời sau. Nếu bạn là người có căn lành lớn và hiểu
được những ác nghiệp này, chính là bạn nương nhờ vào sức từ bi gia hộ
của Phật A Di Đà mà tội báo nặng nề nơi địa ngục ở đời sau, chuyển làm
những bệnh khổ nhẹ nhàng ở hiện tại. Bệnh khổ là tạm thời, khi mạng
chung lập tức vãng sanh về Tây phương. Thế nên, bạn phải dốc hết lòng
thành niệm danh hiệu Phật A Di Đà, niệm niệm phải nương vào câu A Di Đà
Phật, không nên có một niệm nào bị bệnh khổ chiếm đoạt, Bạn phải biết
rằng đây là giao lộ giữa địa ngục và Tây phương. Nếu tâm bạn rong ruỗi
theo phiền não vì bệnh khổ, cuối cùng sẽ sanh vào địa ngục. Nếu tâm bạn
được chánh niệm trì danh hiệu Phật A Di Đà thì liền vãng sanh về thế
giới Tây Phương Cực Lạc. Rất nên cẩn thận !
Hơi thở của bạn nếu ngắn, không niệm hết bốn chữ A Di Đà
Phật thì niệm một chữ Phật cũng d. ! Nhưng điều quan trọng là từng tâm
niệm phải duyên theo chữ Phật này và khởi ý tưởng mình sẽ được vãng sanh
ở Tây phương. Nếu vì duyên cớ bị bệnh khổ bức bách, ngay cả chữ Phật
cũng không niệm được, thì bạn nên quán tưởng trước mắt mình thật sự đang
có Phật A Di Đà từ bi duỗi tay tiếp dẫn. Mỗi niệm trong tâm bạn phải
nghĩ mình được vãng sanh Tây phương, khi mạng chung tâm niệm nhất định
theo hạnh nguyện mà được vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Tron gkinh từng dạy: “Khi lâm chung, không thể quán và niệm,
chỉ khởi tâm biết có Phật là người mạng chung được vãng sanh”.
Lược giải thích: Người lúc thường ngày tu quán tưởng, quán
tưởng niệm Phật, công phu không được chánh định. Người tu pháp trì danh
niệm Phật, công phu không được nhất tâm. Một mai đến lúc mạng chung vì
bệnh khổ bức ngặt, thân tâm không được an tịnh và bị các chướng ngại.
Quán tưởng, quán tượng không được, trì danh lại cũng không được. Nếu hay
tưởng thật sự trước mặt mình có Phật A Di Đà từ bi duỗi tay tiếp dẫn,
mỗi niệm quán tưởng mình sẽ được vãng sanh Tây phương. Nếu có lòng nhất
niệm cầu sanh thì ngay một tâm niệm cầu sanh ấy liền được vãng sanh Tây
phương.
PHƯƠNG PHÁP TRỢ NIỆM
Đối với việc trợ niệm, trước tiên phải xem người bệnh như
thế nào ! Nếu nhẹ thì thư thả phải đọc một bài tán Liên Trì, tụng một
biến kinh A Di Đà và tụng ba biến chú Vãng Sanh (tốt nhất là 21 biến),
đọc bài kệ Tán Phật 8 câu (A Di Đà Phật thân kim sắc v.v…), kế tiếp niệm
câu Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ bi A Di Đà Phật, kế đến
niệm 6 chữ Nam mô A Di Đà Phật, niệm vài mươi câu thì lại chuyển niệm 4
chữ A Di Đà Phật. Nếu bệnh trạng quá nặng, đến thời kỳ nguy ngập thì
niệm 4 chữ A Di Đà Phật. Pháp khí sử dụng chỉ được dùng dẫn khánh, mõ
nếu tiếng quá trầm thì không nên dùng. Người trợ niệm ban ngày thì chia
làm 2 nhóm, ban đêm chia làm 3 nhóm, mỗi nhóm ít nhất là 2 người trở lên,
có thể hạn định một tiếng đồng hồ thay phiên.
Phương pháp niệm Phật:
Ban ngày: Nhóm thứ
nhất niệm ra tiếng, nhóm thứ hai niệm thầm, niệm một tiếng đồng hồ. Nhóm
thứ hai niệm ra tiếng, nhóm thứ nhất niệm thầm, cũng niệm một tiếng đồng
hồ, luân lưu thay đổi như thế !
Ban đêm: Nhóm thứ
nhất niệm ra tiếng, nhóm thứ hai, ba niệm thầm hoặc nghỉ ngơi, niệm một
tiếng đồng hồ. Nhóm thứ hai niệm ra tiếng, nhóm thứ nhất, ba niệm thầm
hoặc nghỉ ngơi, niệm một tiếng đồng hồ. Nhóm thứ ba niệm ra tiếng, nhóm
thứ nhất, hai niệm thầm hoặc nghỉ ngơi, cũng niệm một tiếng đồng hồ,
luân lưu thay đổi như thế.
Như thế mới có thể niệm trì lâu dài, không luận là ba ngày,
năm ngày, bảy ngày, nửa tháng, một tháng… mỗi nhóm theo thứ tự thay nhau
niệm. Từ nhóm thứ nhất, nhóm thứ hai, nhóm thứ ba, nhóm nào niệm xong
lại tiếp tục tới nhóm thứ nhất. Như thế, cuối rồi trở lại đầu, ngày đêm
tiếng Phật nối nhau, mỗi ngày ba bửa ăn cơm đều do những người đổi nhóm
phụ trách. Nếu ăn cơm xong mà chưa đến giờ thay phiên thì phải thay nhau
nghỉ ngơi để lấy lại tinh thần.
Lúc trợ niệm, nhất định phải nói với người bệnh rằng: “Nếu
bạn muốn cùng với mọi người niệm Phật thì cứ niệm theo. Giả như nguyên
khí của bạn suy kém, không thể niệm theo được thì phải để tâm chú ý lắng
nghe mọi người niệm Phật. Tuy nhiên, từng chữ từng câu, tai của bạn phải
nghe rõ ràng và tâm của bạn phải ghi nhớ rõ ràng. Bạn phải dốc hết tâm
ý hướng về danh hiệu Phật A Di Đà”.
Sau khi nói như thế, liền bắt đầu trợ niệm. Nếu người bệnh
có lúc bị hôn trầm giống như ngủ, mê mờ không hiểu không nghe thì người
trực Ban hộ niệm phải dùng dẫn khánh để gần bên tai người bệnh, đánh lớn
một hoặc nhiều tiếng, đồng thời cũng phải cao giọng niệm Phật vài câu,
khiến mỗi niệm trong tâm của người bệnh không còn bị hôn mê.
Lúc người bệnh sắp tắt hơi thở cuối cùng, những người trong
gia đình tốt nhất là cùng nhau đến trước đức Phật, hoặc quỳ niệm, hoặc
lạy niệm; trong tâm mỗi người cùng một lúc quán tưởng có Phật A Di Đà
đang phóng ra ánh đại quang minh tiếp dẫn người mất. Người mất ở trong
ánh quang của Phật, chấp tay vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Đến lúc
này, toàn thể người trợ niệm phải phân làm hai nhóm, mỗi nhóm thay phiên
nhau niệm một tiếng đồng hồ. Từ lúc này, nhất định cất cao giọng niệm
Phật, niệm cho đến ba tiếng đồng hồ, sau đó lại niệm liên tục như trước.
Người bệnh lúc sắp tắt hơi, người trợ niệm phải để tâm chú
ý, nếu trên mặt người bệnh có xuất mồ hôi, hoặc trên mặt hiện ra tướng
buồn lo, toàn thân (đầu, mình, chân, tay) ngọ ngoạy không an thì đây là
do hiện tượng bệnh khổ bức ngặt hoặc giống như ngủ mê không hề hay biết.
Nếu có những trường hợp như thế phát sinh, đó là do hàng ngày người bệnh
niệm Phật chưa chuyên nhất, trong giờ phút này thật khó mà làm chủ được
chánh niệm. Thế thì người trợ niệm cần phải đến gần người bệnh, lớn
tiếng nhắc nhở: “Tây phương đang ở trước mặt bạn, Phật A Di Đà đang duỗi
tay tiếp dẫn, nhất định bạn sẽ vãng sanh về Tây phương”. Liên tiếp nói 2
lần như thế, lại xem môi và dung mạo của người bệnh; nếu bất động như
trước thì phải nói lại một lần nữa. Nếu người bệnh kiến giải quá sâu thì
bảo rằng: “Tây phương ở trong danh hiệu của Phật A Di Đà”, tối đa không
quá ba lần, sau đó chỉ lớn tiếng niệm Phật.
Người sau khi tắt hơi trong giai đoạn thân thể chưa lạnh hẳn
thì người trực Ban hộ niệm cần phải đặc biệt chú ý, tuyệt đối không cho
những người trong gia đình khóc lóc hay sờ mó vào thân thể của người mất.
Mọi người chỉ phát tâm niệm lớn tiếng danh hiệu Phật, phải trải qua một
ngày một đêm mới được mời người tương đối có hiểu biết và có kinh ngiệm,
nhẹ nhàng chậm rãi sờ vào thân thể người mất. Cho đến khi toàn thân lạnh
hẳn thì mới được dừng trợ niệm, lại đến trước bàn thờ Phật cầu nguyện
cho họ được vãng sanh Tây phương. Nếu toàn thân chưa lạnh hết thì cho dù
là một, hai hay ba ngày… mọi người nên phát tâm lớn tiếng niệm Phật liên
tục và phải hiểu rằng trong lúc này chúng ta là những người thay thế Đức
Như Lai cứu độ chúng sanh thoát khỏi biển khổ sanh tử. Nhất thiết không
nên vì lao nhọc trong một thời gian ngắn ngủi mà làm cho thần thức của
người mất bị mê lầm, không được vãng sanh Tây phương.
Mỗi người chúng ta đều phải phát tâm, lớn tiếng niệm Phật và
trợ niệm cho đến khi toàn thân của người mất lạnh hẳn mới thôi ! Trợ
niệm như thế mới thật là người chân chánh phát Bồ đề tâm và thực hành
hạnh Bồ Tát !
THỜI GIAN TẮM RỬA VÀ THAY Y
PHỤC
Người mất khi thân hoàn toàn lạnh hẳn chừng 2 giờ đồng hồ
thì mới được tắm rửa và thay y phục. Nếu những khớp xương đã cứng thì ó
thể dùng khăn thấm nước nóng đắp lên khớp xương, qua vài phút thì sẽ mềm
mại ngay. Mắt nếu không khép lại được thì cũng dùng khăn thấm nước nóng
đắp lên hai mắt, vài phút sau cũng khép lại được. Đối với việc mặc y
phục cho người đã mất, tốt nhất là mặt y phục thường. Y phục liệm cho họ
không nên quá nhiều và quá tốt. Chúng ta phải hiểu rằng, thương người
mất không gì hơn là khiến cho họ được vãng sanh Tây phương, đó mới thật
sự hiếu thuận, thân ái và từ bi. Nếu chỉ phô trương hình thức bề ngoài
để người khác thấy khen ngợi, bên ngoài chưng dọn lòe loẹt, lại tổ chức
tẩn liệm an táng rình rang, việc làm này thật sự không có lợi ích gì cho
người mất. Đây là sự sai lầm rất lớn !
BIỆN PHÁP TỐT NHẤT
ĐỂ SIÊU TIẾN VONG LINH
Người sau khi mất, đối với chuyện siêu tiến vong linh thì
phải lấy việc ăn chay niệm Phật làm chủ. Tốt nhất là thỉnh vài vị Tăng
Ni đến để trợ niệm. Số ngày nhiều ít phải lượng xem kinh tế ở gia đình
mình rồi mới quyết định. Việc niệm Phật tiến vong, tốt nhất là những
người trong gia đình phải tham gia. Vì gia đình có mối quan hệ thân ái,
sẽ được nhiều lợi ích hơn so với người khác.
Người niệm Phật không luận là Tăng hay tục, nếu đem lòng chí
thành khẩn thiết thực hành thì sẽ được công đức rất lớn. Phàm công đức
mỗi ngày niệm Phật phải ở trước bàn linh mà hồi hướng cho người mất được
vãng sanh Tây phương. Nếu người mất đã vãng sanh thì thêm cao phẩm vị
hoa sen, còn chưa vãng sanh thì cũng nhờ công đức niệm Phật này mà được
siêu thoát sanh tử.
Người đời phần nhiều cho rằng tụng kinh, bái sám và phóng
diệm khẩu (bùa chú ??) là những việc làm đặc biệt, còn niệm Phật là
chuyện tầm thường. Những người như thế thật không hiểu Phật lý. Quán
kinh chép: “Niệm một câu A Di Đà Phật, tiêu trừ 80 ức kiếp tội nặng sanh
tử”. Vậy ai dám nói rằng niệm Phật là chuyện tầm thường ?
Lại nữa, trong phần Hạ phẩm Thượng sanh của Quán kinh chép:
“Nghe được tên của 12 bộ kinh thì tiêu trừ được 1000 kiếp tội nặng ác
nghiệp, còn niệm một câu A Di Đà Phật thì tiêu trừ được 500 vạn đại kiếp
tội nặng sanh tử”.
Lại nói: “Chỉ nghe được danh hiệu của Phật A Di Đà mà còn
dứt trừ được vô lượng đại kiếp tội nặng sanh tử”. Đây là căn cứ vào kinh
điển để chứng minh, không phải là lời nói ngoa. Như thế, có thể biết
được công đức niệm Phật vô cùng to lớn.
Phàm nếu làm các pháp sự như tụng kinh, bái sám và phóng
diệm khẩu, nếu có lòng chí thành thì công đức ấy cũng rất lớn, nhưng
thật đáng tiếc cho thời nay rất ít người có tâm chí thành.
Đại sư Ấn Quang nói: “Tăng sĩ bây giờ phần nhiều là phô
trương những việc làm không đúng như pháp, chỉ pha trò lòe loẹt luống
chạy theo hình thức rỗng tuếch. Nếu hành trì pháp môn niệm Phật thì mọi
người đều niệm được, công đức lại càng thiết thực rộng lớn, đồng thời
hồi hướng cho chúng sanh trong khắp pháp giới vãng sanh về Tây phương
thì công đức người mất càng rộng lớn hơn”.
Người mất sau khi vãng sanh về Tây phương, những người trong
gia đình phải ăn chay niệm Phật và giữ gìn năm giới (không sát sanh,
không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu và không
ăn thịt trong 49 ngày). Nếu được như vậy thì kẻ còn người mất đều được
lợi ích rất lớn.
VẤN ĐÁP VỀ MỐI
TƯƠNG QUAN CỦA THÂN TRUNG ẤM
HỎI: Người sau khi
mất, trong gia đình phải ăn chay niệm Phật trong 49 ngày, tạo các công
đức để siêu độ cho người quá cô,việc làm này có ý nghĩa gì ?
ĐÁP: Người mất nếu thật sự được sanh về Tây phương,
những người trong gia đình ăn chay niệm Phật tu tạo công đức lành để
siêu độ, có hai nghĩa:
- Một là tăng thêm phẩm vị hoa sen của họ.
- Hai là mỗi người trong gia đình đều được phước vô lượng.
Giả như không được vãng sanh Tây phương, tuy đã chết nhưng
vẫn còn chưa quyết định để thọ sanh thì trong thời kỳ này gọi là thân
trung ấm. lúc bấy giờ, gia đình phải niệm Phật hồi hướng, tu tạo các
công đức và khơi mở căn lành Tịnh Độ, khiến họ trong thời kỳ thân trung
ấm sanh tín tâm, phát thệ nguyện niệm Phật cầu sanh về Tây phương. Chỉ
cần người trong gia đình và đích thân họ có đầy đủ ba tư lương: Tín,
nguyện, hạnh thì nhất định được Phật tiếp dẫn về Tây phương.
HỎI: Trung ấm nghĩa là gì ?
ĐÁP: Người chết sau khi thần thức đã lìa khỏi xác,
tức là khi chưa đi đầu thai, ví như người từ trong gian phòng này đi ra
định đến một gian phòng khác mà chưa vào được, còn ở khoảng giữa, đây
nghĩa là trung ấm. Người chết biết niệm Phật thì được vãng sanh Tây
phương, người làm lành thì được sanh lên cõi trời, người làm ác thì bị
đọa xuống địa ngục Vô gián, các hạng người này không trải qua thời kỳ
thân trung ấm. Thân trung ấm nếu mau thì chỉ trong khoảng một khảy móng
tay liền thác snah vào sáu đường; chậm thì đến 49 ngày hoặc qua 49 ngày,
không nhất định.
HỎI: Người sau khi chết, vì sao không được
đi đầu thai liền, lại phải vào thân trung ấm và trải qua 49 ngày ?
ĐÁP: Nhân vì người mất từ nhiều kiếp cho đến nay đã
tạo ra những nghiệp thiện ác chưa nhất định là nặng hay nhẹ. Đó là do
vọng tâm vô minh nghệp thức, một tâm niệm lành, một tâm niệm ác, sanh
rồi diệt, diệt rồi sanh. Nghiệp thiện ác thường không nhứt định. Nếu
định nghiệp lành thì sanh vào cõi lành, tâm lành cũng có bậc thượng
trung hạ, cho nên mới cảm đến ba con đường lành Trời, người, A tu la.
Nếu định nghiệp ác thì đầu thai vào cõi ác, tâm ác cũng có thượng trung
hạ, cho nên mới chiêu cảm đến ba đường ác Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh.
Chúng ta phải hiểu vì có mối quan hệ như thế, cho nên những
người thân trong 49 ngày hẳn phải ăn chay niệm Phật, thay người mất tu
tạo các công đức lành khiến cho người mất nương vào các công đức ấy tiêu
trừ được tội ác, phước lành thêm lớn, được vãng sanh Tây phương, hoặc
thác sanh vào cõi trời, người. Nếu những người trong gia đình không phát
tâm ăn chay niệm Phật và tu tạo các công đức lành, lại gây tạo các ác
nghiệp như sát sanh, tà dâm, ăn thịt, uống rượu … như thế túc nghiệp của
người mất cho dù là lành đi nữa thì cũng chuyển làm ác nghiệp; nếu lúc
nghiệp của họ là ác thì ác nghiệp lại chồng thêm ác nghiệp, mà ác nghiệp
cộng thêm ác nghiệp thì chính là phẩm ác bậc thượng; người mất sẽ bị đọa
ngay vào địa ngục chịu khổ mãi mãi.
HỎI: Nếu gặp người có gia cảnh nghèo cùng
khốn khổ, trong 49 ngày ăn chay niệm Phật, lại gây tạo các công đức lành
thì làm sao có thể duy trì được cuộc sống ?
ĐÁP: Muốn tu tạo các công đức, chỉ cần niệm Phật là
có công đức rất lớn. Nếu cuộc sống gia đình chật vật khó khăn thì đâu
cần phải thỉnh Tăng Ni, tổ chức các pháp hội để siêu tiến ... toàn thể
gia đình cứ ăn chay niệm Phật thì công đức đó quá lớn rồi. Mỗi ngày phải
quy định thời gian niệm Phật.
Sáng sớm, khi niệm Phật xong, liền đến trước linh vị của
người mất mà hồi hướng công đức cho họ, sau đó mới ăn cơm sáng.
Buổi trưa, niệm Phật trước hoặc sau khi ăn cơm, nên xem xét
có trở ngại gì trong công việc của mình không, rồi mới định thời khóa.
Buổi tối, khi ăn cơm chiều xong thì mới niệm Phật, niệm xong
lại ở trước bàn linh mà hồi hướng công đức cho họ. Mỗi ngày niệm Phật ba
lần như thế và mỗi lần đều phải hồi hướng.
Ngoài ra, trong lúc làm việc, tâm miệng cũng phải niệm thầm
câu Phật hiệu. Phương pháp niệm Phật độ vong như thế đối với kinh tế
chẳng những tiết kiệm, lại còn giản tiện, không bị trở ngại trong sinh
hoạt, công đức lại càng lớn, gia đình được mát mẻ bình an, mọi người
trong gia quyến đều được phước và người mất cũng được lợi ích rất lớn.
Đây là phương pháp tốt nhất cho kẻ còn lẫn người mất đều được lợi.
DẪN CHỨNG VÀI
ĐIỂM TRỌNG YẾU TRONG PHẨM THỨ BẢY
“KẺ CÒN NGƯỜI MẤT ĐỀU ĐƯỢC
LỢI” CỦA KINH ĐỊA TẠNG
Trưởng giả Đại Biện chắp tay cung kính hỏi Bồ Tát Địa Tạng
rằng: “Đại sĩ, chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù đề, sau khi mạng chung,
quyến thuộc kẻ lớn người nhỏ vì tu tạo các công đức, thiết trai cúng
dường, gieo trồng các nhân lành niệm Phật, ăn chay, giữ giới, cúng dường
Tam bảo .v.v…). Vậy người mạng chung có được lợi ích và thoát khỏi sanh
tử chăng?”.
Bồ Tát Địa Tạng đáp: “Trưởng giả ! Thuở hiện tại cùng vị lai,
nơi có các chúng sanh sau khi mạng chung nếu nghe được một danh hiệu
Phật, Bồ Tát, Bích Chi Phật… không luận là có tội hay không tội, đều
được giải thoát” (vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tây Phương).
Lại nói: “Con quỷ vô thường không hẹn mà đến, thần hồn mê mờ,
chưa rõ là tội hay phước, trong 49 ngày như ngây, như điếc, hoặc ở tại
các ty sở để định đoạt về nghiệp quả; sau khi thẩm định xong, lại căn cứ
vào tội nghiệp mà thọ sanh. Trong khoảng thời gian chưa phân định ấy, họ
phải lãnh chịu muôn ngàn điều sầu khổ, huống gì bị đọa vào các nẻo ác !
Nếu người mạng chung chưa được thọ sanh khoảng 49 ngày, mỗi niệm luôn
luôn trong mong quyến thuộc tu tạo phước lành để cứu vớt. Khi qua khỏi
49 ngày thì cứ theo nghiệp mà thọ lãnh quả báo. Nếu có tội thì phải trải
qua trăm ngàn kiếp (thường ở trong ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc
sanh chịu vô lượng khổ), không có ngày giải thoát. Nếu mắc tội năm vô
gián thì bị đọa vào đại địa ngục, trải qua muôn ngàn kiếp mãi mãi chịu
muôn thứ khổ đau”.
Lại nói: “Sau khi người thân thuộc mất trong khoảng 49 ngày,
tạo các công đức lành khiến cho các chúng sanh mãi mãi xa lìa nẻo ác:
Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, được thác sanh làm Trời, người hưởng thọ vô
lượng quả vui và quyến thuộc hiện tại cũng được lợi ích vô lượng”.
BỔ SUNG THÊM HAI CÂU VẤN ĐÁP
HỎI: Có người thường ngày tín nguyện niệm
Phật, nhưng đến lúc lâm chung thì bị trúng gió không nói được, thần thức
hôn mê. Lúc này, mọi người trợ niệm có tác dụng gì không ? Nếu có tác
dụng thì thần thức người này vốn đã hôn mê, không hay biết. Vậy tác dụng
ở chỗ nào ? Nếu không có tác dụng thì những công đức tín nguyện niệm
Phật lúc thường ngày chẳng luống uổng ư ?
ĐÁP: Niệm Phật có công đức không thể nghĩ bàn. Nếu
người thường ngày tín nguyện niệm Phật, đến lúc lâm chung bị trúng gió,
không thể nói được và thần thức bị hôn mê; nếu gặp bạn lành trợ niệm cho
họ thì người lâm chung được lợi ích không thể nghĩ bàn. Nếu thần thức
người ấy chưa lìa khỏi xác, khi tỉnh lại nghe được tiếng niệm Phật, phát
lòng tín nguyện niệm Phật như thường ngày thì lúc mạng chung nhất định
sẽ nương nhờ Phật lực tiếp dẫn vãng sanh về Tây phương không ngăn ngại
vậy ! Giả như hôn mê đến chết, thần thức khi lìa khỏi xác, vì nghiệp lực
của người này ở đời trước hoặc hiện tại chưa định nên cần phải trải qua
thân trung ấm. Trong thời kỳ thân trung ấm, nếu được quyến thuộc và
thiện hữu vì họ mà niệm Phật, bấy giờ người mất liền nhớ lại tâm tín
nguyện niệm Phật lúc thường ngày, nương nhờ Phật lực tiếp dẫn vãng sanh
về Tây Phương Cực Lạc. Nếu không được như vậy, chỉ gặp thắng duyên niệm
Phật của các thiện hữu, cho dù không được vãng sanh thì cũng tăng thêm
căn lành tịnh độ ở đời sau.
Kinh chép: “Vào thời Phật còn tại thế, có một người gặp con
hổ, ông bèn leo thoắt lên cây, vì sợ quá nên niệm một tiếng Nam mô Phật.
Do căn lành này mà ông được gặp Phật và được độ thoát”. Huống gì khi còn
sống chúng ta đã tín nguyện niệm Phật ! Do đó, công đức niệm Phật thật
không luống uổng vậy !
HỎI: Người điếc lúc lâm chung, tuy có người trợ niệm,
nhưng họ không nghe được tiếng niệm Phật thì việc trợ niệm ấy có tác
dụng gì ?
ĐÁP: Người điếc do vì nhĩ căn của họ ở đời trước đã
tạo ác nghiệp, cho nên bị quả báo như thế ! Song người điếc tuy không
nghe được tiếng niệm Phật, nhưng lúc lâm chung, có người trợ niệm cũng
được vãng sanh. Vì sao ? Người điếc tuy bị kém thiếu về nhĩ căn, nhưng
tánh nghe vẫn chưa từng bị mất đi, chỉ cần người ấy tự tâm tỉnh táo, tín
nguyện vững vàng và một lòng cầu sanh về Tây phương. Lại có bạn lành trợ
niệm cho họ, khi mạng chung nhất định sẽ được cảm ứng, đức Phật đến tiếp
dẫn. Do tâm lực của chúng sanh không thể nghĩ bàn, danh hiệu của đức
Phật không thể nghĩ bàn. Vì vậy, người vãng sanh Tây phương giống như
thuận gió mà giương buồm, xe nhẹ mà đường quen, trạng thái vô cùng dễ
dàng và thuận lợi. Lại có người lúc lâm chung, nghiệp trước sắp hết,
nghiệp sau chưa sanh, tuy thức thứ tám có tác dụng, nhưng nghiệp chướng
ở đời trước còn nên đời nay không có được nhĩ căn, lại không có nhĩ thức.
Đến lúc này, quả trước đã hết thì thức thứ tám tự nghe và tự biết được
thôi !
LỜI BẠT
Kinh chép: “Lìa ba đường ác, được thân người là khó”. Chúng
ta tuy may mắn được sanh làm thân người, nhưng mạng sống khó bảo tồn
trăm năm. Sắc thân tứ đại này cuối cùng rồi sẽ bị hoại diệt, chỉ có thần
thức lại theo nghiệp duyên mà thọ sanh, như kẻ thiếu nợ, người mạnh lôi
đi trước, cho dù lúc còn sống, nghiệp lành mạnh mẽ, siêng tu giới định;
sau khi chết đi, thác sanh vào cõi trời, sống lâu muôn kiếp, nhưng đến
khi hưởng hết phước trời thì vẫn phải bị trôi giật luân hồi, trọn kiếp
chẳng hết !
Phật diệt độ đã lâu, thời Phật đã cách xa. Chúng sanh phần
hiều nghiệp chướng nặng nề, căn cơ cạn mỏng, dù có lý mầu của Thiền
và Giáo, nhưng ít người tu tập; nếu có tu tập đi nữa thì cũng khó
chứng quả. Nhân vì họ còn dục vọng, nên việc liễu sanh thoát tử siêu
phàm nhập thánh không thể đạt được !
Kinh Đại Tập, đức Phật dạy: “Vào thời mạt pháp, ức ức người
tu hành, ít có người nào ngộ được đạo, chỉ có người nương vào câu niệm
Phật thì mới được độ”.
Xem việc này có thể biết rằng ba ngàn năm trước đức Thích Ca
Như Lai đã dự biết như vậy, Ngài có lòng thương xót chúng sanh nói ra ba
thừa giáo. Trong đó pháp môn Tịnh Độ ứng hợp ba căn, chỉ dạy chúng sanh
phát lòng tu tập, hoặc chuyên quán tưởng, hoặc chấp trì danh hiệu, tu
tập các công đức và phát nguyện hồi hướng về Tây phương. Khi lâm chung
nhờ Phật lực tiếp dẫn vãng sanh về Cực lạc, hóa sanh từ hoa sen, sống
lâu vô lượng; từ đấy tiến tu mãi mãi không còn thối chuyển, cho đến khi
thành tựu Phật quả mới thôi ! Pháp môn thù thắng vắn tắt thích hợp như
thế gọi là phương tiện trong phương tiện, lối tắt trong lối tắt. Từ xưa
đến nay, người tu theo pháp môn này được vãng sanh trải qua kiếp số khó
mà tính đếm suy lường được !
Nếu có người niệm Phật mà chưa được vãng sanh, vì các nhân
duyên khác chưa đầy đủ, có sự sai lầm khiến cho họ mê man mất đi chánh
niệm, có sự ngăn cách với Phật, cuối cùng không được vãng sanh, chứ
chẳng phải Phật không đến tiếp dẫn; có người lúc bình sanh, tuy phát tâm
niệm Phật, nhưng chỉ mong cầu phước báo, không biết phát nguyện cầu sanh
Tây phương; có người thường ngày tuy tín nguyện nhưng không tha thiết và
không thường xuyên niệm Phật; có người vì lúc lâm chung không được trợ
niệm hộ trì đúng như pháp; có người nhân tuy được trợ niệm nhưng quyến
thuộc ở bên cạnh cứ nói lời nhảm nhí khiến họ phiền não bất an; có người
vì thân bằng quyến thuộc thương xót khóc lóc, tình ái trói buộc, khó mà
xa lìa dứt bỏ; có người lúc sắp qua đời, mời thầy thuốc đến chích thuốc,
hy vọng được sống lại, khiến họ phải chịu sự đau khổ; có người nhân vì
khi tắt hơi toàn thân chưa lạnh, thần thức chưa lìa khỏi xác, người còn
sống lại dùng tay sờ mó để xem rõ việc nóng lạnh; hoặc có người sau hki
chết, thân thể còn ấm, lại cho tắm rửa, thay y phục, gắng gượng xoay trở
…
Các thứ nhân duyên chưa hoàn bị nói trên và những sự mê lầm
khác đều khiến cho người bệnh mê mờ mất đi chánh niệm và không được vãng
sanh. Người niệm Phật phải hiểu biết điều đó ! Xưa có quyển “Sức chung
Tân Lương” chỉ dẫn rất tường tận, vì văn từ ý chỉ quá sâu, người có kiến
thức nông cạn khó mà hiểu rõ. Năm trước, pháp sư tây Chấn ở Ô Châu đem
sách đến nhờ pháp sư Thế Liễu dùng văn Bạch thoại để diễn ra cho dễ
hiểu, lại soạn ra một quyển, đặt tên là “Sức Chung Tu Trì” (Hành
trang cho ngày cuối) với ý nghĩa vô cùng cặn kẽ. Sau khi soạn xong,
được Hòa thượng Diệu Công ở Hoằng Hóa Xã đính chính viết lời tựa in ấn
lưu hành. Bản in lần đầu gồm 2000 quyển, nhưng chưa bao lâu thì số sách
ấy đã hết, lại còn rất nhiều người thích đọc. Nay dự định tái bản, nên
pháp sư Tây Chấn gởi sách đến nhờ tôi viết lời bạt, nhưng tôi rất lấy
làm hổ thẹn vì không có văn chương, chẳng thể phụ giúp nên đành phải
lược nêu những điều mắt thấy tai nghe trong mấy mươi năm nay để chứng
minh, khiến người đọc tin sâu hiểu rõ, lưu truyền nhau mãi, hầu tránh sự
ngộ nhận về sau.
Tôi nghe, thuở xưa có một cư sĩ làm quan ở Phủ Đài – Giang
Tô, sau phát tâm xuất gia trong một ngôi chùa nhỏ, gần Linh Nham. Vợ ông
cũng rất tin Phật, thường đi cúng dường và khuyên bảo ông hãy trở về
nhà. Bà nói: “Nay ông đã là Bồ Tát xuất gia thì phải cứu độ chúng sanh,
không nên tu một mình. Nếu ông trở về nhà, cần dùng gì thì tôi đều cung
phụng”.
Bà vợ nhiều lần khuyên bảo, vì không từ chối được nghĩa cũ
tình xưa, và một phần do nơi ấy không được yên tĩnh lắm, sợ có sự nhiễu
hại, nên lòng ông cảm thấy khó chịu, luôn nghĩ tới sự nguy hiểm. Cuối
cùng ông quyết định trở về nhà, nhưng may là được bà vợ lo lắng, nên ông
chu toàn mọi thứ, nên ông yên tâm niệm Phật.
Một hôm, ông nói với vợ: “Phật A Di Đà đã đến rước, tôi
phải về Tây phương thôi !”.
Người vợ bèn lễ bái ông và khóc lóc: “Bồ Tát ơi, nay ông đi
rồi, bỏ tôi ở lại cõi đời này một mình biết nương nhờ ai để sống ?”.
Chợt bị tình ái của người vợ quyến luyến, nên ông khó mà thoát ly được !
Thế là ngay lúc ấy, ông mê mờ mất đi chánh niệm, đôi mắt rươm rướm tuôn
rơi dòng lệ. Sau lại cầu mong Phật A Di Đà đến tiếp dẫn nhưng không thấy
nữa ! Câu chuyện này chính tôi được nghe cư sĩ Hồ Tùng Niên kể.
Lại nghe sư Thường Thanh nói rằng: “Phụ thân sư ăn chay rất
nhiều năm, tuy phát tâm niệm Phật, nhưng chỉ mong cầu phước báo mà không
biết phát nguyện cầu sanh Tây phương”. Năm sư Thanh 9 tuổi, phụ thân qua
đời, cả nhà tăm rửa và thay y phục cho ông. Hôm sau, khi chưa liệm ông
vào quan tài thì bà cô đến khóc bên tai ông. Lúc ấy, Ngài thấy cha rơi
nước mắt.
Qua hai điều này, ta có thể biết người đang và sau khi mất,
toàn thân chưa lạnh, thần thức vẫn chưa lìa khỏi xác, quyến thuộc không
nên ở bên cạnh khóc lóc để họ khỏi bị ái tình ràng buộc, khiến mê mờ mất
đi chánh niệm không được vãng sanh. Nếu không nén lòng được thì phải nên
lánh xa, cẩn thận chớ có ở gần bởi vì nhân duyên vãng sanh Tây phương
trăm ngàn muôn kiếp khó gặp ! Những người trong gia đình nên thay họ
phát tâm niệm Phật, giúp cho họ được vãng sanh lìa khổ được vui thì đó
gọi là sự hiếu hạnh chân thật xuất thế. Sự hiếu thuận ở thế gian không
thể sánh bì !
Lại xét thân sau khi hỏa hóa, những chuyện này trong sách
chưa hoàn toàn đề cập đến. Người bị hỏa hóa là một cư sĩ tại gia, cũng
có trường hợp là tỳ kheo xuất gia. Trong đại tòng lâm, thiêu cho người
chết phần nhiều có thời gian là bảy ngày hoặc ít hơn đều không nhất
định, thậm chí chết buổi trưa buổi chiều đã đem thiêu, cho nên cần phải
hiểu rõ để khỏi tránh sự lầm loạn. Nay tôi xin phân biệt và bàn luận
việc ấy.
Người chết cũng tùy thời tiết nóng lạnh không giống nhau.
Nếu gặp thời tiết lạnh, trong vòng bảy ngày, thi thể vẫn không biến sắc,
ở trường hợp này chưa đầy bảy ngày đem thiêu thì e rằng họ bị thống khổ,
cho nên phải mãn bảy ngày. Khi thời tiết nóng nếu để qua bảy ngày thì
thịt thối rửa, ở trường hợp này tuy chưa đủ bảy ngày mà đem đi thiêu,
thì người mất cũng không đến nỗi đau khổ !
Tôi nhớ, lúc mới xuất gia tại núi Long Phụng – Quảng Xương –
Tỉnh Giang Tây, có vị sư pháp danh là Viên Minh, viên tịch vào buổi sáng
tháng tư, các thầy liền cho tắm rửa và thay y phục, để ngồi vữn trên
chiếc ghế. Đệ tử của Ngài là sư Thánh Kim, mở sách ra xem và nói rằng:
“Hôm nay thiêu thầy tôi rất tốt !”. Thế là sau khi ăn cơm trưa, nhục thể
Ngài được đưa đến lò thiêu. Lúc ấy, vì tôi bận chút việc nên phải đi qua
chùa Đại Thừa, vài ngày sau mới trở lại và nghe mọi người nói rằng:
“Đang lúc thiêu, hai tay của thầy Viên Minh từ từ đưa lên ngang cổ”.
Sau này, tại chùa Thừa Ân – Nam Xương, vào một buổi chiều
ngày rằm tháng tám, có một tỳ kheo vừa viên tịch. Ngay lúc ấy, thầy giám
viện pháp danh là Hiền Mậu cho lấy ván đóng một chiếc quan tài, bên
trong thì đổ tro củi vào, thầy cùng một tỳ kheo khác hè nhau ráp lại,
khi ráp xong thì đậy nắp quan tài. Đến chập tối, mọi người thay phiên
nhau niệm Phật. Hôm sau, quan tài được chuyển đến khu đất trống ở ngoại
thành để thiêu. Tôi theo mọi người đưa quan tài ra khỏi chùa rồi trở về,
sau nghe thầy giám viện nói rằng: “Ngay trong lúc thiêu, hai tay của
thầy ấy bỗng dưng hướng hai bên quan tài mà đẩy bật ra”. Qua đó ta cũng
cảm nhận được sự đau khổ biết dường nào rồi !
Xem hai việc này, có thể biết rằng nếu trời không nóng, chưa
đầy bảy ngày mà đem đi thiêu thì người mất sẽ còn cảm giác và rất đau
khổ. Chẳng những không được vãng sanh Tây phương mà e rằng vì một niệm
sân hận khiến họ phải bị đọa lạc vào đường ác. Người có lòng từ bi, ai
mà không thương xót ?
Lại nữa, lúc tôi ở núi Bách Trượng, gặp một vị tỳ kheo tên
là Đức Nhã, tự kể rằng: “Năm trước tôi ở am Tảo Lâm – Lê Xuyên, bị bệnh
nặng đã chết qua một lần. các thầy tắm rửa và thay y phục cho tôi, để
tôi nằm tạm trên giường, ngày đêm thay nhau niệm Phật. Hôm sau, tôi bỗng
dưng tỉnh dậy”. Nghe thế tôi liền hỏi: “Vậy thầy có thấy hiện tượng gì
lạ không?”. Thấy ấy đáp: “Tôi gặp một người đang đi trên bờ sông, chợt
nghe có tiếng kêu: “Trở lại, chớ nên đi nữa !” Tôi liền giật mình tỉnh
dậy. Mọi người trong lúc đang trợ niệm, thấy tôi tỉnh dậy, ai nấy đều
vui mừng nói rằng: “ Thầy đã chết một ngày một đêm, vậy mà còn tự biết
rõ ư ?”
Lại nữa, lúc tôi triều bái núi Phổ Đà, nghe nói có pháp sư
Duy Sùng (người ta thường gọi ngài là Ma Vương) ở núi Liên Hoa – Ninh Đô
– Giang Tây. Tháng 10 năm ấy, Ngài đã chết 6 ngày. Lúc đầu, liệm ở liêu
Như Ý và để nơi ấy ba ngày, sau đại chúng đưa đi thiêu, lại quàng ở lò
thiêu ba ngày nữa. Nửa đêm ngày thứ sáu, pháp sư Duy Sùng bỗng dưng sống
lại, nhưng không người nào biết cả. Đến ngày thứ bảy, pháp sư Thông Huệ
đem Ngài hỏa táng. Khi vừa định châm lửa, pháp sư thông Huệ chợt nghe
trong lò có tiếng nói rằng: “Đừng ! Xin đừng ! Tôi chưa chết, không thể
thiêu được !”.
Pháp sư Thông Huệ nghe xong, sợ hãi thốt lên: “Này Ma Vương,
ngươi chớ dọa người nhe !”.
Pháp sư Duy Sùng đáp: “Pháp sư Thông Huệ, tôi chưa chết,
không thể thiêu được !”. Mọi người đều nghe, bèn mở cửa lò ra, rồi đưa
về điều dưỡng. Không bao lâu, Ngài mạnh khỏe như thường. Bảy năm sau,
vào tiết tháng sáu, pháp sư Duy Sùng đích thân triều bái núi Phổ Đà.
Nhân lúc Ngài lên núi, tôi gặp Ngài và hỏi lại chuyện xưa thì Ngài nói
rằng: “Tất cả đều là sự thật”.
Tôi hỏi: “Sư có thấy hiện tượng gì lạ không ?”
Ngài đáp: “Tôi thấy có một cái cổng thật to, nhiều người
chen lấn ra vào. Tôi cũng theo họ ra vào. Lúc bấy giờ người giữ cửa cầm
roi ngăn không cho tôi theo vào, tôi mới giật mình tỉnh dậy. Ngay lúc ấy,
lưng tôi rất lạnh. Tôi dùng tay sờ bốn bên thì thấy đều là ván cây, ở
phía dưới lại lót bằng tro củi, tôi mới ngồi dậy, cố thoát thân ra khỏi
lò. May nhờ các thầy đưa tôi về !”.
Xét hai việc này, có thể biết rằng nếu trời không nóng,
người chết trong bảy ngày được âm ty thả về, có thể sống lại. Sau khi
pháp sư Duy Sùng hồi dương, Ngài lại sống thêm mười mấy năm nữa. Nếu
thiêu sớm thì thật oan uổng cho một kiếp người ! Cẩn thận thay !
Toàn bộ nội dung sách này tóm thuật việc cuối cùng của đời
người, dù tăng hay tục đều cần phải biết, không nên câu chấp, vì thế gọi
là “Hành trang cho ngày cuối”. Nếu như xem hình thức biết nội dung và y
theo pháp mà hành trì, khiến cho người sau này cũng niệm Phật thì ai nấy
đều được thoát khỏi Ta Bà, đồng sanh về Cực lạc. Thật không cô phụ tấm
lòng của pháp sư Thế Liễu một phen từ bi trước tác vậy !
CẢM ĐỀ
Một hành trang một cuộc đời
Lang thang lữ khách quê nhà thời xa
Sen vàng nở giửa Ta bà
Trần gian sanh tử Phật Đà hiện thân.
Viên Giác đêm thu năm năm Ất Dậu (2005) – Thích Thiện
Phước
***