Hình Tướng Của Đức Phật
-
Tinh Vân
đại sư tác, Như Nguyện dịch
Thánh tượng của Đức Phật-Kim dung của Đức Phật-Chân
thân của Đức Phật
Đức Phật nhập diệt đã hơn 2500 năm rồi, sanh trong thời đại mạt pháp của
chúng ta không thể chính mắt chiêm ngưỡng được dung nhan của Đức Phật,
như vậy khiến ta nhớ đến lời của người xưa: “Lúc Phật tại thế thì chúng
ta còn trầm luân, Phật diệt độ rồi chúng ta mới ra đời; sám hối bao
nhiêu nghiệp chướng của thân này, không thấy được kim sắc của Như Lai”.
Sau khi kim dung của hoá thân Phật nhập niết bàn, chúng ta chỉ có thể
chiêm ngưỡng thánh tượng của Đức Phật, như vậy rốt cuộc Đức Phật có hình
tướng như thế nào? Ai biết được?
1.
THÁNH TƯỢNG CỦA ĐỨC PHẬT
Các loại thánh tượng:
Đức phật tướng hảo
trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng
mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất
nhiều, có loại dùng gỗ đá để điêu khắc, có tượng dùng vàng để tạc, có
loại vẽ trên giấy. Thánh tượng có tượng ngồi tượng đứng thậm chí có cả
tượng nằm. Bất luận là tuợng điêu khắc bằng đá bằng gỗ tạc bằng vàng kim,
thêu trên vãi hay vẽ trên giấy, bất luận là tượng đứng ngồi hay nằm đều
thể hiện từ bi trang nghiêm tôn sùng vĩ đại của Đức Phật làm cho người
ta nhìn thấy thì khởi tâm kính ngưỡng hâm mộ.
Thánh tượng của Đức Phật tại sao có tượng ngồi? tượng đứng? tượng nằm?
có thể nói mỗi một hình thức đều bao hàm ý nghĩa sâu sắc tượng trưng cho
một loại tinh thần, một loại thánh cách của Đức Phật.
Trước, chúng ta nói đến thánh tượng
theo hình thức ngồi của Đức Phật. Trong
tượng ngồi có ngồi kiết già đó là tượng của lúc đang ngồi thiền; có
tượng thì tay trái đặt trên đùi chân, tay phải đưa lên lòng bàn tay
hướng ra ngoài đó là tượng của hình thức đang thuyết pháp. Trước có thể
nói tượng trưng cho tự giác của Phật, sau có thể nói tượng trưng cho
giác tha của Phật. Tự giác là nói Đức Phật sở dĩ thành Phật là trãi qua
tu hành tương đương ,tư duy quán chiếu, thâm nhập thiền định mới có khã
năng chứng đắc quả vị; Giác tha là nói Đức Phật từ Thể mà khởi Dụng, lấy
chân lý rộng làm lợi ích chúng sanh, lấy pháp thuỷ tịnh hoá nhân quần.
Kế
đến chúng ta nói thánh tượng theo hình thức đứng: tượng đứng có
hình dạng rủ cánh tay xuống, là trong lúc tiếp dẫn chúng sanh, có tượng
một chân bước trước đó là diễn tả lúc bận việc giáo hoá. Cánh tay rủ
xuống tiếp dẫn chúng sanh, nhìn thấy cánh tay từ bi duỗi ra của Đức Phật,
những con người phiêu bạt trong biển khổ thế nào mà không có mong muốn
quay đầu trở về quy y Phật? Bận việc giáo hoá, đó là thể hiện Đức Phật
với thể nghiệm chân lý nhân sanh của Ngài, tràn đầy nhiệt huyết, tuy
Ngài công hạnh viên mãn nhưng cần dùng chân lý vì chúng sanh mà phục vụ.
Sau cùng chúng ta nói về thánh tượng theo hình thức nằm của Đức
Phật: Trong tượng nằm có loại nằm theo dáng kiết tường khi ngài nhập
niết bàn, niết bàn là phước hụê vẹn toàn đạt đến cảnh giới bất sanh bất
diệt. Tượng Đức Phật niết bàn có thể nói lên ý ngĩa do động quy về tịnh.
Đức Phật lúc tại thế thuyết pháp giáo hoá đó đều là do tịnh sanh động,
động có lúc cũng ngưng, tịnh thì vô cùng dài. Sanh mệnh của Đức Phật len
lỏi khắp trời đất, lưu nhập trong thời gian vô tận nên gọi là do động
quy tịnh. Bởi vì trong thánh tượng của Phật, có một dạng thị hiện niết
bàn, nhưng Phật vĩnh viễn sống trong tâm của chúng ta, sáng mãi với thời
gian, song hành cùng trời đất.
Khởi nguyên của việc khắc tượng: Vấn đề điêu khắc tượng Phật bắt đầu
từ khi nào? Theo quyển 28 kinh Tăng Nhất A Hàm và quyển 5 Đại Đường tây
vực ký nói rằng: “Vào một mùa an cư của năm nọ, tăng đoàn không nhìn
thấy Đức Phật, Ngài đi đâu không ai biết được, chư vị đệ tử đến hỏi tôn
giả A Nan, ngài A Nan cũng không biết. Nhưng tôn giả Anan giới thiệu mọi
người đến thỉnh ý bậc thiên nhãn đệ nhất là ngài A Nan Luật. Sau khi tôn
giả A Nan Luật nhập định quan sát liền nói với mọi người rằng: Đức Phật
đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho hoàng hậu Ma Gia”.
Đức Phật vì sao không nói mà đi lên cung trời Đao lợi thuyết pháp? một
là, Ngài muốn báo đáp công ơn dưỡng dục của thánh mẫu; hai là, vì Đức
Phật thường ở bên cạnh chúng đệ tử, nên một số người ỷ lại không thích
nghe phật thuyết pháp; ba là vì trong tăng đoàn có một số việc tranh
chấp nên Ngài ra đi thời gian khiến cho những người tranh chấp có thể
thật lòng ăn năn tỉnh ngộ. Đại chúng trong giáo đoàn sau khi biết được
Đức Phật lên cung trời Đao Lợi trong lòng hoang mang. Người nhớ Phật
nhiều nhất là vua Ưu Điền nước Bạt Sa, vua Ưu Điền sau lần đầu được
vương phi hướng dẫn quy y Phật, đối với Phật sanh tâm cung kính cúng
dường vô tận. Bây giờ nghe tin Phật đi xa nhiều ngày không gặp trong
lòng lo buồn mà sanh bệnh. Khi vua lâm bệnh, các đại thần bàn bạc nhau
các phương pháp trị bệnh cho vua, trong đó có kiến nghị mời các vị thợ
điêu khắc nỗi tiếng tạc tượng Đức Phật, để tiện sớm tối chiêm ngưỡng lễ
bái. Vua vui mừng khôn xiết liền thỉnh ngài Mục Kiền Liên bậc thần thông
đệ nhất dùng sức thần thông đưa người thợ điêu khắc lên tận cung trời để
đích thân nhìn thấy kim dung diệu tướng của Phật sau đó dùng gỗ chiên
đàn khắc thánh tượng Phật cao 5 mét, tôn giả Mục Kiền Liên đã phải trực
tiếp hướng người thợ dẫn 3 lần, thánh tượng chiên đàn mới hoàn thành.
Vua Ưu Điền nhân đó mà hết bệnh vui mừng khôn tả.
Đức
Phật thuyếp pháp ở cung trời Đao lợi 3 tháng, và sau đó ngài trở lại
nhân gian, Thánh tượng chiên đàn dựng để nghinh đón Đức Phật, Ngài mỉm
cười nhìn thánh tượng an ủi rằng; “ Ngài giáo hoá có vất vã lắm không?
Chúng sanh đời mạt pháp thật là nhờ vào sự hoá độ của ngài đó”! Do đó mà
nói điêu khắc thánh tựơng không phải là sau khi Phật niết bàn mà ngay
khi Phật tại thế đã có tạc tượng cúng dường rồi. Điêu khắc chiên đàn
thánh tượng để nghinh đón Phật đó là biểu trưng cho: dù là kim thân Phật
hay thánh tượng đều là sống một cách linh hoạt tại thế gian này.
Khởi nguyên của việc đúc tượng:những vấn
đề đến việc đúc tượng phật ,có từ khi nào? Theo quyển 28 kinh Tănh nhất
A Hàm và Căn bản thuyết Nhất thiết hữu bộ ni đà na có chép rằng: “một
là, vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La nghe vua Ưu Điền Dùng gỗ chiên đàn
khắc thánh tượng Phật, cũng vì lòng cung kính và thích làm nỗi nên dùng
vàng đúc thánh tượng cao 5 mét, đó là việc đúc tượng Phật sớm nhất vậy.
Hai
là, trưởng giả Cấp Cô Độc. Có một lần sau khi Đức Phật thuyết pháp ở
tịnh xá Kỳ Viên, trưởng giả đến trước đảnh lễ và bạch Phật rằng: “bạch
Thế Tôn khi có thánh tượng của Ngài dựng ở trong giáo đoàn, mọi việc trở
nên trang nghiêm, uy nghi, thanh tịnh như pháp mà sanh hoạt; có lúc Phật
đi nơi khác giáo hoá, ở đây không có ngài làm trung tâm nên thấy thiếu
một điều gì đó và tăng chúng từ trong tâm linh của mỗi người cũng cảm
thấy trống trải hiu quạnh. Chúng con khẩn cầu Ngài cho chúng con đúc
tượng Ngài để mỗi khi Ngài đi hoằng hoá ở xa chúng con có thể chiêm
ngưỡng và xem thánh tượng như nhìn thấy chính Ngài, như vậy mới có thể
duy trì được sự thanh tịnh của giáo đoàn, làm cho uy đức của Phật luôn
luôn chiếu sáng chúng ta”!
Sau khi Đức Phật nghe xong ,ngài vui vẻ đồng ý ý kiến của Cấp Cô Độc và
từ bi chỉ dạy: “ Bệ hạ vì Phật Pháp mà đưa ra mong cầu như vậy, Ta đồng
ý tâm nguyện của Ngươi”. Cấp Cô Độc lại bạch Phật “bạch Đức Thế Tôn! Bên
cạnh chổ đúc thánh tượng chúng con muốn treo tràng phan bảo cái và hương
hoa cúng dường xin Phật hứa khả cho. Đức phật nói: “ tuỳ ý các người
thôi”.
Từ
hai đoạn kinh trên chúng ta thấy khi Phật còn tại thế có rất nhiều vị
quốc vương, đại thần, trưởng giả ,cư sĩ,…phát tâm đúc thánh tượng cúng
dường chiêm ngưỡng rồi.
Khởi nguyên của việc hoạ tượng: những vấn
đề liên quan đến việc vẽ tượng có từ khi nào? Ở “Đại Đường nội điển
lục”có chép rằng “Tần Cảnh thời Hán trên đường trở về nước Nguyệt Chi
nhìn thấy tượng chiên đàn của vua Ưu Điền liền nhờ hoạ sĩ y theo đó mà
vẽ một bức sau đó mang đến Lạc Dương, nhà vua nhìn thấy liền ra sắc lệnh
để tại của thành Tây Dương cúng dường từ đó lưu truyền đến nay.
Ngoài ra “Hành sự sao” cũng có ghi “sau thời Hán các vị tăng Trung Quốc
đến Ấn Độ du học đông, lúc trở về họ đều muốn thỉnh tượng chiên đàn về
để cúng dường. Thời đó các vị quốc vương của Ấn Độ rất cung kính và bảo
vệ thánh tượng này không cho mang ra khỏi nước, nhưng Phật Pháp lưu
thông phải có cái gì để biểu trưng,Vua liền mời hoạ sĩ đến y theo tượng
chiên đàn mà vẽ, ngày nay có lưu truyền sự việc hoạ tượng là nguyên nhân
từ đó.
Theo đó mà biết thì hoạ tượng Phật khoảng sau Phật niết bàn hơn 1000 năm
nay nhưng ngoài ra trong “kinh a hàm” cũng có chép: “khi Phật niết bàn,
tôn giả Ca Diếp lo vua A Xà Thế nước Ma kiệt Đà nghe được tin này sẽ quá
bi thương mà sãy ra những việc ngoài ý muốn nên cùng với đại thần Vũ Xá
thương luợng hoạ thánh tượng Phật để giúp vua bớt nỗi đau thương, đại
khái đó là việc hoạ tương sớm nhất vậy!
Nhưng những năm gần đây tại viện bảo tàng Anh quốc hoàng gia có lưu giữ
rất nhiều bức hoạ tượng Phật, trong đó có một bức tượng được xem là quốc
bảo, đó là bức tượng lúc Phật 41 tuổi do tôn giả Phú Lâu Na tự tay hoạ,
màu sắc vẫn giữ nguyên đến ngày nay. Một vị trù trì chùa Vĩnh Bình Nhật
Bản đến nước Anh chụp hình mang về và sao ra nhiều tấm nên hiện tại ở
Đài Loan chúng ta có thể nhìn thấy tượng này. Chiếu theo thuyết nay thì
hoạ tượng Phật là có sớm nhất và còn sớm hơn cả điêu khắc và đúc tượng
mấy năm cũng không chừng.
Họa tượng Phật trong quyển thượng Du Gìa nghi quỹ có ghi “các bức tượng
hoạ trên vải trên lụa lớn nhỏ tuỳ ý, đều ngồi kiết già trên đài sen hai
tay để ngang rốn như lúc nhập định”. Hoạ tượng rất phương tiện, tín
chúng có thể ở nhà mà lễ bái cúng dường, hào quang của Phật chiếu sáng
mọi nhà, người hoạ tượng có công đức vô lượng”.
Đảnh
lễ thánh tượng: thánh tượng Đức Phật được điêu khắc trên gỗ hoặc đá,
hoạ vẽ trên vãi lụa ,có người nói đó chỉ là cái tượng phỗng, tại sao
phải hướng về đó mà đãnh lễ? Có một vài linh mục thiên chúa giáo phê
phán Phật giáo vì sao lạy những tượng gỗ đá vãi lụa làm gì? Chúng ta
cũng không phủ nhận chúng ta lễ bái tượng này. bởi vì tất cả đều không
lìa khỏi lễ bái tượng gỗ…Chúng ta thấy đấy, mọi người trên toàn thế giới
đều hướng về lá cờ quốc gia (quốc kỳ) của mình kỉnh lễ, mà quốc kỳ không
là giấy thì cũng là vải, tại sao chúng ta lại kính lễ giấy hay vãi như
thế? Nên biết lá cờ đó là trung tâm của toàn dân một nước nó không phải
là giấy hay vãi mà là đại biểu tượng trưng cho một quốc gia.Tín đồ thiên
chúa lại hướng về thập tự giá mà cầu nguyện.Trên thập tự giá còn đóng
đinh một Giesu rất đáng thương và tội nghiệp, thập tự giá và Giesu không
phải làm bằng gỗ bằng sắt hay vẻ trên giấy đó sau, vì sao tín đồ thiên
chúa giáo lại hướng về gổ sắt giấy đó mà quỳ xuống cầu xin.
Cho nên, tất cả mọi người đều không lìa khỏi việc lễ bái tượng gỗ,…
hướng về tượng gỗ lễ bái chẳng có gì là không tốt. Một giới trong 10
giới của tín đồ thiên chúa là không lễ bái tượng gỗ,…đó chỉ là một trong
trăm ngàn những điều mâu thuẫn trong giáo lý của họ mà thôi.
Một mảnh vải nếu làm thành mũ thì đội trên đầu, nếu làm thành giày thì
mang dưới chân, vải chưa có giá trị là quý hay hèn mà khi làm thành vật
rồi thì mới có giá trị; một trang giấy nếu in thành hình của ba mẹ thì
mình nên trân quý cung kính và cất giữ, nếu trang giấy đó chỉ là hình vẽ
chơi của trẻ con thì chúng ta tuỳ ỳ vất bỏ cũng không thấy có gì là
không phải, như vậy giấy có quý có tiện không? Đó chỉ là do tâm chúng ta
khởi lên có quý có tiện mà thôi. Các vật thể thuộc vàng hoặc nguyên liệu
hoá học nếu tạc thành tượng Phật Thánh thì nên tôn kính lễ lạy, nếu làm
thành đồ chơi cho trẻ con thì giống như con lật đật để trên mặt đất đá
qua đá lại làm trò cười cũng không có gì không được. Tất cả vật chất đều
như nhau làm thành gì thì thành đó. Thánh tượng của Phật cũng làm từ
vàng gỗ đá vãi giấy nhưng cái đó trong tâm của chúng ta không phải vàng
gỗ …mà là Thánh tượng đại trí đại giác của Phật Đà!
Xin
hỏi tín đồ thiên chúa giáo nếu đem hình cha mẹ các bạn, tượng Giesu của
các bạn khinh bỉ vất bỏ, trong tâm bạn sẽ cảm thấy thế nào? Các bạn đối
với tượng gỗ… có khởi tâm phân biệt không? Xin các tín đồ thông minh của
thiên chúa phản tỉnh một chút. Sùng bái tượng gỗ không có gì là chẳng
tốt đó là biểu hiện quan niệm trong lòng có thánh hiền của chúng ta.
Từ
trên sự tướng mà nói, chúng ta tu hành nên có mục tiêu, tượng gỗ có thể
làm cho chúng ta phát khởi tín tâm, trợ giúp việc tu trì của chúng ta,
lúc chúng ta chiêm ngưỡng thánh tượng từ bi của Phật trong tâm ta đình
chỉ vọng nịêm tham sân; Lúc chúng ta đãnh lễ tướng hảo trang nghiêm của
Phật, hành vi trở nên đoan chánh không dám buông lung. Chúng ta đối
trước thánh tượng cung kính lễ bái chắc chắn có cảm ứng.
Từ
trên pháp tánh mà nói, là tín đồ Phật giáo chân chánh không có quan niệm
tượng gỗ… , xem một công án của thiền sư thì sẽ rõ.
Đan Hà thiền sư, lúc tá túc qua đêm ở một ngôi tự viện, khí hậu khắc
nghiệt, thời tiết rét lạnh, tuyết rơi xối xả. Đan Hà thiền sư liền lên
điện Phật lấy tượng gỗ xuống chẻ ra đốt sưởi ấm. Thiền sư giữ chùa nhìn
thấy tức giận la lớn: “đồ đáng chết, thế nào có thể đem tượng Phật xuống
đốt sưởi ấm chứ”?
Đan
Hà thiền sư từ tốn trả lời: “ Tôi không đốt sưởi ấm mà đốt tìm xá lợi”
Thiền sư giữ chùa lại hùng hổ la lên: “nói bậy, tượng Phật gỗ mà có xá
lợi à”?
Đan
Hà thiền sư từ từ cầm lấy bức tượng để vào trong lửa nói: “đã là gỗ sao
không lấy mà sưởi ấm chứ”.
Đan
Hà thiền sư mới đúng là người đệ tử chân chánh của Phật giáo, Ngài mới
là bậc thánh liễu ngộ được Phật và giác ngộ đạo lý Tâm -Phật- Chúng sanh
tuy ba nhưng không sai biệt. Lúc chưa giác ngộ chúng ta kính lễ thánh
tượng, sau khi giác ngộ rồi ngoài tâm không có Phật, đó có thể nói thánh
tượng ở trong tâm mình.
Đường Tuyên Tông lúc chưa đăng cơ là một chú tiểu nhìn thấy Hoàng Phách
Hy Vận thiền sư lễ Phật ở giữa chánh điện thì đứng phía sau chăm chú
nhìn, bổng nhiên nhớ lại lời thiền sư thường nói liền bạch thiền sư rằng:
“ Ngài thường nói không cầu Phật, không cầu Pháp, không cầu tăng, bây
giờ Ngài lạy Phật là để làm gì”?. Thiền sư nghe thế nhướng mắt nhìn
Tuyên Tông nói: “không cầu Phật, không cầu Pháp, không cầu tăng , nên
như thế mà làm”!
Lời
của Hy Vận thiền sư những người căn cơ thấp kém khó mà thể hội được chân
lý, chúng ta nên hướng về thánh tượng Đức Phật mà đãnh lễ, chúng ta nên
lạy tượng gỗ,… bởi vì như thế thì tâm phàm phu chúng ta và tâm Phật mới
có thể giao hoà hợp nhất.
2.
KIM DUNG CỦA ĐỨC PHẬT
Kim thân Phật: Hình
tướng chân thật của Phật là pháp thân thanh tịnh vô vi, từ pháp thân lý
thể mà hiển thị diệu dụng, đó là kim dung của Hoá thân. Pháp thân của
Phật, các bồ tát đăng địa không có khả năng lường biết được, đệ tử Phật
chỉ có thể từ tướng hảo của kim dung mà hiểu biết được sự vĩ đại của
Phật.
Kinh Tâm Địa Quán có nói: “tướng
trăm phước chói sáng trang nghiêm,chúng sanh trông thấy phát tâm kính
mến hoan hỷ”. Hơn 2500 năm trước Gíao chủ Thích Ca vì một đại sự nhân
duyên mà đản sanh ở thế giới này, có tướng tốt trăm phước trang nghiêm,
đó là 32 tướng tốt 80 vẽ đẹp thánh tướng của Phật. Thân của Phật là màu
huỳnh kim cao một trượng 6 thước, kinh A Hàm nói: “kim dung Phật là vầng
trăng tròn sáng”. Trong chúng đệ tử của Phật, có rất nhiều vị thánh đệ
tử,chưa nghe Phật thuyết Pháp,chỉ mới nhìn thấy kim dung của Phật liền
quyết chí quay về quy y rất nhiều. Tôn giả Đại Ca Diếp, là một bậc hào
phú Bà la môn ở tháp Đa Tử gặp Phật tỉnh toạ ở dưới cội bồ đề, ngài bị
kim dung tướng hảo của Phật nhiếp thọ bất tri bất giác hướng về đảnh lễ
và tuyên thệ gia nhập giáo đoàn của Phật.Trưởng giả Tu Đạt là vị khách
phương nam, trong một đêm gặp Đức Phật, dưới ánh trăng chiếu sáng Ông
nhìn thấy thánh tướng của Phật liền cảm động quỳ xuống, thỉnh cầu Phật
về quê hương mình tuyên truyền chân lý phổ độ chúng sanh.
Trong sự nghiệp truyền
giáo của Phật, Ngài nhiếp phục những người cực ác quay đầu, cảm hoá
những người ngoan cường quy y, có rất nhiều người cũng do tướng tốt uy
nghiêm từ bi của Phật mà được nhiều lợi ích.Một tên phản đồ là Đề Bà Đạt
Đa mua chuộc 6 tên cướp đi hành khích Phật nhưng bị kim dung của Phật
phát ra ánh sáng oai đức chinh phục, 6 tên cướp này đều lập tức bỏ dao
quỳ xuống trước Phật cầu xin sám hối; Ương Quật là một tên ma vương giết
người không gớm tay. Đức Phật cố ý gặp ông ta trên đường, một tên đội
trời đạp đất như Ương Quật mà vừa nhìn thấy kim dung Phật liền trong
long kinh ngạc cúi đầu thành khẩn xin phật hứa giúp cho mình cải ác hành
thiện làm lại cuộc đời. Khỉ vượn trong rừng hái trái cúng dường trước
kim thân Phật, voi điên nhìn thấy kim dung của Phật cũng rơi lệ ăn năn.
Kim dung của Phật sáng như mặt trời mặt trăng, tướng Phật trang nghiêm
vạn đức khiến cho những người hung ác khởi tâm từ bi, những người tàn ác
trở nên từ hoà. Trong 50 năm truền giáo những người được cứu độ từ kim
dung của Phật nhiều vô số kể.
Kim dung tướng hảo:
Hình dung
kim dung tướng hảo của Phật, trong kinh đều có nói Phật có “32 tướng
tốt, 80 vẽ đẹp” đó là hình trạng vi diệu, tướng hảo của Phật, có thể vừa
nhìn là hiểu tướng của Phật, không dể mà có điều tốt làm người ta vừa
nhìn thấy khởi tâm kính mến hoan hỷ. 80 vẽ đẹp là do 32 tướng tốt mà có.
Tướng viên mãn 32 tướng
tốt này không phải do trời sanh như vậy mà do Phật trãi qua 91 đại kiếp
tu hành mới thành tựu được. Nên kinh Bách Phước Trang Nghiêm nói: tu 100
phước mới trang nghiêm được một tướng. Sau đây chúng ta tìm hiểu 32
tướng tốt và 80 vẽ đẹp của Phật như trong kinh đã ghi.
Trước chúng ta nói về
32 tướng tốt:
1.
Dưới lòng bàn chân bằng thẳng không có lòm lõi.
2.
Dưới lòng bàn chân có hình bánh xe, với ngàn tăm xe trục xe, vành
xe đầy đủ.
3.
Chân tay mềm mại không thô cứng.
4.
Ngón tay nhỏ dài trắng nỏn như tuyết
5.
Tay chân có màng da lưới.
6.
Gót chân thon tròn đầy không có lồi lõm.
7.
Có mắt cá tròn
8.
Ống chân tròn đầy như con nai chúa.
9.
Tay dài quá gối, lưng thắng như núi.
10.
Nam căn ẩn tàng bên trong
11.
Tướng lưỡi rộng dài
12.
Mỗi chân lông chỉ mọc 1 sợi lông có màu xanh và thoảng ra mùi
thơm
13.
Lông mọc xoáy lên và xoáy về hướng mặt.
14.
Thân hình có màu sắc như vàng kim.
15.
Thân có hào quang, phát ra các phía.
16.
Da mịn trơn nhu nhuyến như dầu.
17.
Hai vai bằng thẳng không khuyết
18.
Hai nách đầy đặn không có lỏm
19.
Thân cao thẳng, uy nghi đỉnh đạc
20.
Thân hình đoan chánh không có cong vẹo uốn éo
21.
Lòng bàn tay chân bằng thẳng
22.
Có đủ 40 răng
23.
Răng đều đặn và trắng đẹp
24.
Răng bằng thẳng không hở khuyết.
25.
Hai má tròn đầy như má sư tử
26.
Trong cổ họng thường tiết ra nước bột đầy đủ cam lồ mỹ vị
27.
Lưỡi rộng ,dài và mềm mại.
28.
Âm thanh như tiếng chim Ca lăng tầng già, ở xa cũng có thể nghe.
29.
Mắt màu tím thẫm, trong như nước biển
30.
Lông mi đặc thù phi phàm.
31.
Giữa hai lông mày có lông trắng phóng hào quang
32.
Trên đảnh đầu có nhục kế, và không nhìn thấy đảnh đầu.
Thứ đến là 80 vẽ đẹp:
1.
Không thấy đảnh tướng
2.
mũi cao thẳng, lổ mũi không lộ
3.
Lông mày như trăng non
4.
Trái tay rũ xuống
5.
Thân rắn chắc
6.
khớp xương chắc như móc khoá
7.
Mỗi lúc trở mình chuyển hình như voi chúa
8.
Đi cách đất và có ấn dấu chân
9.
Móng như màu đồng đỏ
10.
xương đầu gối tròn đẹp
11.
Thân trong sạch
12.
Da mềm mại
13.
Thân cao đẹp không cong vẹo
14.
Ngón tay tròn thon nhỏ
15.
Vân tay ẩn kín
16.
Mạch sâu chẳng hiện
17.
Mắt cá ẩn
18.
Thân mềm mại mượt mà
19.
Thân hình tròn đầy
20.
Không uốn éo
21.
Dung nghi đầy đủ
22.
Đi đứng khoan thai
23.
Đứng không động
24.
Uy chấn hết thảy
25.
Người thấy được an lạc
26.
Khuông mặt vừa vặn
27.
Dung mạo đoan chính
28.
Diện mạo viên mãn
29.
Môi màu sắc đỏ
30.
Âm thanh vang trầm trong vắt
31.
Rốn sâu tròn đẹp
32.
Lông xoáy về hướng phải
33.
Tay dài qua gối
34.
Tay chân như ý
35.
Vân tay sáng thẳng
36.
Vân tay dài
37.
Vân tay chẳng đứt
38.
Người thấy hoan hỷ
39.
Mặt rộng và đẹp
40.
Mặt như vầng trăng tròn
41.
Nói năng hoà nhã
42.
Lỗ chân lông xuất ra mùi thơm
43.
Trong miệng thaỏng ra hương thơm
44.
Dáng điệu cử chỉ như sư tử
45.
Đi đứng như voi chúa
46.
Tướng đi như ngỗng chúa
47.
Đầu như trái Ma đà na
48.
Các thành phần đầy đủ
49.
Răng trắng đẹp
50.
Lưỡi dài có màu đỏ
51.
Lưỡi mỏng mà rộng
52.
Lông nhiều và có màu hồng
53.
Lông mềm mà mướt
54.
Mắt dài và rộng
55.
Tướng tử môn đầy đủ
56.
Tay chân trắng hồng như màu hoa sen
57.
Rốn không lộ
58.
Bụng không lồi
59.
Bụng thon đẹp
60.
Thân khuynh động
61.
Thân trì trọng
62.
Thân lớn dài
63.
Tay chân mềm mại sạch bóng
64.
Bốn phía có hào quang dài một trượng
65.
Khi đi có hào quang chiếu sáng khắp thân
66.
Xem chúng sanh bình đẳng như nhau
67.
Không xem thường chúng sanh
68.
Thân tướng hùng vệ
69.
Âm thanh không tăng giảm
70.
Thuyết pháp không chấp trước
71.
Tuỳ duyên thuyết pháp
72.
Thứ đệ thuyết pháp
73.
Pháp âm ứng với âm tahnh của chúang sanh
74.
Chúng sanh ngắm thân Phật ngắm mãi không hết
75.
Ngắm mãi không chán
76.
Tóc dài và đẹp
77.
Tóc dài không rối
78.
Tóc xoắn đẹp
79.
Tóc như màu ngọc xanh
80.
Đầy đủ tướng tốt của bậc phước đức
Trên đã nói rõ 32 tướng
tốt,80 vẽ đẹp của Đức Phật, như trong kinh đã ghi chép, tuy có chút them
bớt nhưng kim dung của Ngài khác với phàm nhân, bất khả tư nghì.
Kỳ thật, Kim dung của
Phật có thể hình dung trong 32 tướng tốt 80 vẽ đẹp, đó cũng là cách nói
Phật có sắc tướng thân vàng cao 6 mét. Lúc đó có ngoại đạo hoài nghi nên
dùng thước đo thử Phật cuối cùng cao bao nhiêu nhưng đo mãi mà vẫn không
hết. Như tiểu thuyết Tây du Ký kể rằng: Tôn Ngộ Không nhảy lộn một cái
là 18.000 dặm, thế nhưng lộn 10 cái cũng lộn không qua lòng bàn tay của
Phật, như vậy chúng ta có thể hình dung được kim dung tướng tốt của Phật
cao hơn cả núi Thái, sâu rông hơn cả đại dương.
Trong 32 tướng tốt có
tướng lưỡi rộng dài, đó là hình dung âm thanh thuyết Pháp của Phật, ở
rất xa cũng có thể nghe.
Âm thanh của Ngài có
thể truyền đi xa bao nhiêu? Trong kinh Bảo Tích nói: “bậc đại thần thông
đệ tử của Phật là ngài Mục Kiền Liên, có một lần muốn đo thử âm thanh
thuyết pháp của Phật, liền bay đến Đông phương Phật quốc cách thế giới
Ta bà xa vô cùng tận để đo lường âm thanh của Phât, và vẫn nghe được
Phật thuyết pháp. Hiện tại ở châu Âu châu Mỹ phát sóng chúng ta cũng có
thể nhận được huống chi công đức cao vời vợi của Phật xuất ra từ tướng
lưỡi rộng dài biến khắp tam thiên đại thiên thế giới?32 tướng tốt 80 vẽ
đẹp chỉ là phàm phu chúng ta hiểu về Phật, Kim dung tướng tốt chân chánh
của Phật chẳng lẻ 32 tướng tốt 80 vẽ đẹp có khả năng bao hàm sao?
TÁM TƯỚNG THÀNH ĐẠO:
Kim dung của Phật tuy
là tướng tốt vô luợng nhưng Ngài đản sanh trong nhân gian thì ngài vẫn
là con người. Liên quan đến kim dung ứng hoá thân của Phật, giáo hoá ở
nhân gian 80 năm, nói rõ trãi qua một đời của Đức Phật, đó là 8 tướng
thành đạo, sau đây là lược thuyết 8 tướng.
Từ cõi Đâu Suất mà
giáng sanh:
Đức Phật được phật
Nhiên Đăng thọ ký là bổ sanh bồ tát của thế giới Ta bà, trước phải ở nội
viện của cõi Đâu suất trãi qua 4000 năm, để quán sát cơ duyên gíao hoá ở
cõi Ta bà.
Nhập thai:
Sau khi ở nội viện của cõi Đâu Suất tròn 4000 năm, cởi voi trắng sáu ngà
từ cõi trời mà giáng thế, nhập thai vào nách phải của thánh mẫu Ma Gia.
Đản sanh:Vào
ngày 8 tháng, đản sanh tại vườn Lâm tỳ ni, vừa đản sanh đã có thể đi bảy
bước và nói rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”.
Xuất gia:
Lúc 19 tuổi, nhân vì cảm nhận được cuộc đời vô thường, kẻ mạnh ăn thịt
kẻ yếu, cuộc đời nhiều bất công, liền quyết chí vượt thành xuất gia học
đạo.
Hàng phục ma quân:Lúc
tu đạo, nội tâm có ma phiền não tham sân si, ngoại cảnh có ma thanh sắc
danh lợi, chinh phục các tà ác của ma quân và không bị nữ sắc mê hoặc.
Đó là tinh thần hàng phục ma tất yếu của bậc vô uý đại hùng đại bi đại
trí.
Thành đạo:
Sau khi hàng phục ma ,vào ngày 8 tháng 12, trên toà kim cang dưới cội Bồ
đề, lúc sao kim mọc chứng thành chánh giác.
Chuyển pháp luân:
Sau khi thành đạo suốt 50 năm giảng kinh thuyết pháp, đem chân lý truyền
khắp nhân gian, làm cho bánh xe pháp thường chuyển ở đời.
Niết bàn:
Ngày 15 tháng 2 năm Ngài đúng 80 tuổi, nhân duyên giáo hoá đã viên mãn,
vì động quy tịnh,
đem sanh mệnh hoà nhập
vào vũ trụ tạo hoá, dưới cội Sala thị hiện niết bàn.
Đức Phật là bậc đại
thánh ở thế gian và đã sanh ra ở thế gian này,tướng hảo kim dung của
Ngài tuỳ theo mỗi thời như trẻ thơ, nhi đồng, thanh niên, tráng niên,
lão niên mà không giống nhau, tôn giả Đại Ca Diếp bảo đại thần Vũ Xá hoạ
vẽ 8 tướng thành đạo, thông qua đó nói rõ di tích một đời hoằng hoá của
Phật.
Kim Thân bị nạn:Thánh
thân kim dung của Đức Phật sao mà trang nghiêm tốt đẹp, chúng ta cứ nghĩ
rằng ứng thân của phật sinh hoạt tại thế gian, tuỳ tâm như ý không có gì
là trở ngại, đó là cách nghỉ sai lầm.
Gíao Pháp của Phật
nói rõ sự vô thường khổ của thế gian, những người đã thành phật rồi, có
xa lìa vĩnh viễn và nằm ngoài định luật này không? Tuyệt đối không có
đạo lý như vậy.Từ biến hoá thánh thân kim dung một đời của Phật, nói rõ
chân lý chư hành vô thường của thế gian. “ Thân giáo phải khớp với ngôn
giáo”, Đức Phật giảng về đạo lý khổ- vô thường- vô ngã ở thế gian mà
ngược lại thân Ngài thì ngàn năm trẻ mãi, không bệnh, không già như vậy
chẳng phải mâu thuẩn đó sao? Đức Phật thị hiện ở thế gian ngài có sắc
thân nên kim dung tướng hảo cũng phát sanh không ít những tai nạn.
Bất luận nói thế nào,
những công đức tu tập tích tụ nên 32 tướng tốt,80 vẽ đẹp luôn vì có thân
tướng hữu vi, không phải là pháp thân vô vi, thánh thân kim dung hữu vi
biến hoá của Phật bị các tai nạn cũng là việc bình thường thôi.
Lúc Phật đi đường gặp
hai tai nạn, một lần là Ngài đi qua núi Kha địa la bị một cây độc có tên
là Khiếp đà la gỗ rớt xuống tua tủa làm mắt cá bị thương ; lần thứ hai
là lúc Ngài đi ngang dưới chân núi Kỳ xà quật bị Đề Bà Đạt Đa lăn đá
xuống làm cho chân phải rướm máu.
Đức Phật cũng tuyên bố
trong đại chúng hai lần Ngài bị bệnh. Một là lúc danh y Xà Bà điều trị
bệnh kiết cho Ngài; lần khác là lưng ngài đau sai tôn giả Anan vào thành
xin sữa và bảo tôn giả Đại Ca Diếp trì niệm Thất bồ đề phần thì Ngài mới
hết đau. Đức Phật cũng có hai lấn gặp nạn đói, là lúc an cư ở thôn Bà La
gặp năm mất mủa đói khát, trong 3 tháng an cư chỉ ăn lúa ngựa, lần khác
thì đi khất thực nhưng không có thức ăn mang bình bát không về nhịn đói
chờ đến ngày mai.
Đức Phật cũng bị một
phụ nữ ngoại đạo vu oan, bị vua Thiện Gíac của thành Câu Lợi phê phán và
những người này đều nhận lấy kết quả bất hạnh. Một nhà tôn giáo vĩ đại
luôn có tai nạn bức hại thử thách tinh thần.
Kim dung thánh thân
của Phật gặp rất nhiều tai nạn như vậy, chúng sanh nếu không hiểu được ý
nghĩa sâu xa của lý nay dể sanh tâm nghi ngờ. Vì thế vua Ba Tư Nặc nước
Kiều Tát La đã từng đưa ra vấn đề này thỉnh vấn Đức Phật như sau: “Bạch
Thế Tôn! Kim dung tướng hảo của Ngài, phẩm đức oai nghiêm, trên trời và
nhân gian không ai có được, nhưng trong sự nghiêp truyền bá chân lý của
Ngài, vì sao phải gặp một số tai nạn” ?
Phật dạy: “Đại vương!
pháp thân của chư Phật Như Lai là thân vĩnh hằng, nhưng vì độ chúng sanh
mới có ứng hiện những tai nạn, những việc như: mắt cá chân bị thương,
đau lưng, xin sữa, uống thuốc cho đến niết bàn, phân chia xá lợi xây
tháp cúng dường tất cả đều là những phương tiện thiện xảo là vì muốn cho
chúng sanh biết được nghiệp báo không mất, làm cho chúng sanh có tâm sợ
sệt mà đoạn trừ tội lỗi, tu các hạnh lành mới chứng đắc pháp thân vĩnh
hằng, tuổi thọ vô cùng ,quốc độ thanh tịnh, không có sắc thân hữu vi lưu
luyến thế giới Ta bà.
Vua Ba Tư Nặc nghe
xong dứt hết nghi ngờ, vui vẽ reo mừng, Vua không chỉ hiểu thấu đáo được
kim dung của Phật mà còn thể hội được tâm từ bi sâu xa của Phật!
Đức Phật bậc thầy vĩ
đại, kim dung thánh thân của Ngài tuy chúng ta không thấy nhưng Ngài vẫn
sống mãi trong tâm chúng ta. Hình ảnh trăm vạn nhân thiên của Linh sơn
hội thượng và Phật trang nghiêm tướng hảo ngồi chính giữa vẫn còn lởn
vởn trong đầu chúng ta: “ Trên trời dưới đất không ai bằng Phật, mười
phương ba đời cũng không ai sánh kịp; Tất cả những người ở thế gian con
nhìn thấy, hết thảy không ai như Phật vậy”.
3.
CHÂN THÂN CỦA ĐỨC PHẬT
Chân thân vô tướng:
Thánh tượng của Đức Phật, chúng ta đi đến đâu cũng có thể chiêm ngưỡng;
Kim dung của Phật, hơn 2500 năm trước quả là đã xuất hiện ở thế gian,
nhưng chân thân của Phật có hình tướng như thế nào?
Chân thân của Phật là
pháp thân, pháp thân mới là hình tướng chân chánh của phật, nhưng pháp
thân vô tướng hàng Bồ tát củu trụ còn không thể thấy, huống gì chúng ta
là những chúng sanh bị vô minh phiền não che mờ? Pháp thân, vô vi vô tác,
không hình không tướng, không đến không đi, không đầu không cuối, chúng
ta làm sao mới có thể nhìn được Pháp thân của Phật chứ?
Trong kinh có chép:
“đoạn một phần vô minh, chứng một phần pháp thân” cho nên có thể thấy
Pháp thân không phải ở trên hình tướng mà thấy, mà hình tướng của Pháp
thân hoàn toàn là do tu tập.
Trong kinh Hoa Nghiêm
có ghi: “ Pháp tánh vốn vắng lặng, không thể chấp thủ cũng không thể
thấy, tánh không tức là cảnh Phật, không thể suy lường được”. Pháp thân
xa lìa cảnh giới ngôn ngữ, văn tự và suy luờng, “nếu có người muốn biết
cảnh giới Phật, tâm ý nên thanh tịnh như hư không”. Pháp thân là hư
không thân, tuy không hình không tướng, không nói không thấy, nhưng vô
hình mà không phải vô hình ,vô tướng mà không phải vô tướng. pháp thân
biến khắp mười phương, bao trùm pháp giới.
Có một lần Thượng toạ
Thái Nguyên Phù giảng kinh Niết Bàn tại Dương Châu, giảng đến đoạn tam
đức của Pháp thân, giảng rộng về đạo lý pháp thân. Lúc đó có vị thiền sư
đang ngồi trong hội chúng nghe được liền cười. Thượng toạ Thái Nguyên
Phù giảng kinh xong thì y áo chỉnh tề đãnh lễ vị thiền sư đó thưa: “đệ
tử vừa giảng về Pháp thân, có chổ nào không đúng”? Thiền sư nói: “nếu
ngài muốn giảng Pháp thân, xin ngài ngưng nói ba ngày, nhắm mắt suy nghĩ,
pháp thân cuối cùng có hình tứơng như thế nào”?Thượng toạ nghe xong thì
tuyên bố trong chúng hội ngưng giảng kinh Niết Bàn ba ngày,tự mình nhắm
mắt tham cứu, ba ngày sau hình như đã có sở ngộ về Pháp thân, vui vẽ nói:
Lý của pháp thân
giống như hư không,
Bao hết ba đời biến
khắp muời phương
Bao trùm bát cực bao
quát lưỡng nghi
Tuỳ duyên phú cảm
không đâu mà không biến.
Từ công án này chúng ta
có thể thấy Pháp thân không thể từ trên hình tướng mà hiểu cũng không
thể dùng ngôn ngữ mà nói rõ được. Kim dung thánh tượng, hoặc nói hoặc
nhìn thì có thể biết nhưng chỉ có pháp thân không thể lấy mắt tai để
biết, chân thân vô tướng của Phật nên dùng tâm mà hiểu.
Tác dụng của Pháp
thân:Thể của pháp thân tuy không có hình để thấy có tướng để xem
nhưng Dụng vi diệu đức tướng trang nghiêm của Pháp thân không phải hoàn
toàn không thấy được.
Đại luận nói: “ Thể
pháp thân xét tận cùng không ngoài thân tướng hảo này; không lìa khỏi
pháp thân tuy hai mà không khác”. Kim dung thánh thân của Phật không
phải là pháp thân, nhưng kim dung thánh thân lại từ pháp thân mà hiện
các tướng dụng
Mật tích kinh nói:
“Thánh thân Phật tuy có phân thành pháp thân, báo thân, ưng thân tuy có
ba nhưng cũng không khác bởi vì ứng thân báo thân là từ pháp thân lý thể
mà hiển hiện, lìa pháp thân sẽ không có báo thân và ứng thân. Cho nên từ
kim dung của ứng thân cũng có thể biết được Pháp thân của Phật. Khi Phật
ứng hoá ở thế gian đến khắp nơi thuyết pháp, trong mỗi pháp hội giảng
kinh, có khi thấy thân Phật là sắc vàng, có thấy thân Phật sắc bạc thậm
chí thấy thân Phật là màu sắc lưu ly sa cừ mã não, có lúc thấy Phật và
người khác nhau, có lúc thấy Phật cao 6 thước cùng với chuyển luân vương
không đồng, hoặc là ba thước trăm ngàn thước các loại thân không giống.
Thậm chí âm thanh thuyết pháp của Phật cũng có các loại không đồng, có
lúc âm thanh mềm mại vi diệu, có khi âm thanh vang dội như sư tử hống.
Các thời pháp cũng tuỳ theo căn cơ của thính chúng mà nghe có khác có
khi nghe bố thí trì giới,có khi nghe thiền định trí tuệ, giải thoát, đại
thừa,…như thế sao có thể nói là kim dung hảo tướng bình thường được? Đó
không phải là từ bản thể chân thân mà hiển hiện ra thần lực pháp thân
bất khả tư nghì đó sao?
Từ trong các kinh điển
chúng ta có thể thấy Gíao chủ Thích Ca, thường thường cùng trong một
thời gian nhưng ở trong ngàn vạn quốc độ làm Phật sự có các danh hiệu
các hình tướng và các cách giáo hoá khác nhau, đó không phải là tướng
dụng của tất cả hiển hiện từ pháp thân đó sao? Nếu không có Pháp thân
làm sao hiện các tướng dụng mà đến nơi này? Quốc độ của một Phật là tam
thiên đại thiên thế giới, thế giới Ta bà chỉ là một thế giới nhỏ trong
tam thiên đại thiên đó, Đức Phật ứng hiện ở thế gian, nếu không có pháp
thân làm sao hiện tướng dụng đến khắp nơi và thế nào có thể giáo hoá
được tam thiên quốc độ?
Khởi Tín luận nói:
“Pháp thân tự thể đã có ánh sáng trí huệ rộng lớn, chiếu khắp pháp giới.
Do vậy có thể biết, tất cả thế giới Ta bà không có cái gì là không phải
tướng dụng của Pháp thân, nên nói “ tiếng suối chảy là tướng lưỡi
rộngdài, núi xanh biếc cũng là pháp thân thanh tịnh” “ hoa vàng rực rỡ
là Bát nhã, trúc xanh mơm mởn cũng luôn là pháp thân”. Trong con mắt của
bậc thánh giác ngộ không có một cái gì không phải là chân thân của Phật,
khắp cả vũ trụ kông nơi nào mà không có chân thân của Phật. Phật Đà vì
có thân hữu vi mà có nhập niết bàn, đó là khế hợp pháp tánh của
Phật,chân thân của Phật biến vào trong tất cả pháp, không có một pháp
nào mà không có chân thân Phật. Đức Phật cho đến ngày nay vẫn còn sống
cùng chúng ta,chúng ta sống trong Pháp thân của Phật.Kinh Lăng Nghiêm
nói: “mười phương hư không thế giới đều là trong tâm của Như Lai, như
mặt trời giữa hư không, đều là chân thân của Phật ,vũ trụ vạn tượng đều
là tướng dụng của chân thân Phật.
Nơi nơi đều có Pháp
thân: Pháp thân là chân thân của Phật, chân than này biến khắp muời
phương hư không pháp giới, hào quang chiếu vô lượng quốc độ, chỉ có Bồ
tát đầy đủ Thập trụ Mới có thể thường nghe được diễn thuyết diệu pháp
của Pháp thân. Pháp thân lá cảnh giới của Phật, Kinh Lăng Nghiêm chép:
“Nước trong đại dương co thể uống hết, bụi trong vũ trụ có thể đếm
được,gió trong hư không có thể cột lại nhưng cảnh giới của Phật thì
không thể nói được”.
Đức Phật trong các kinh
điển luôn luôn chỉ đạo các đệ tử tu tập nên nhận thức về chân thân của
Phật rất thân thiết. Đức Phật cũng dạy: “ thấy duyên khởi tức thấy pháp,
thấy pháp tức thấy Phật”, pháp thân của Phật tức tự tánh của các pháp,
nếu có khả năng từ pháp duyên khởi, hiểu thông tánh không của các pháp
và như thế là có thể thấy đựơc chân thân của Phật. Kinh Kim Cang cũng
viết: “Chổ nào có kinh điển thì chổ đó có Phật”. Trong pháp có phật, tin
pháp là tin Phật, gọi là phật bởi vì Ngài có thể khế hợp pháp tánh,
chứng ngộ pháp tánh và cùng pháp tánh hoà thành một thể; không tin pháp,
không kính pháp,không hiểu pháp thì không thể nhận thức được chân than
của Phật.
Đức Phật ứng hoá thân
vì nhân duyên, nhân duyên hết rồi thì nhập niết bàn, hàng đệ tử nhìn
cảnh Phật niết bàn rất đổi bi thương, Phật liền dạy: “các ngươi chớ có
bi thương, ứng thân hữu vi tuổi già này cũng như chiếc xe cũ mục, chiếc
xe cũ mục lúc hư, nếu đem sữa lại sử dụng đó không là phương pháp tốt
nhất, nếu cái sanh mệnh nhục thể hữu vi của ta sống ngàn vạn năm cùng
các ngươi nhưng có hợp tất có biệt ly, đó là đạo lý không thay đổi được!
Đức phật vào niết bàn ở trong pháp tánh chiếu cố đến các ngươi làm cho
sanh mệnh của Phật tương ưng với pháp thân vô vi, sanh mệnh này song
hành cùng trời đất, chiếu sáng như mặt trời mặt trăng, các ngươi sau này
nên y theo giáo pháp của Ta mà hành, màu lục của dương liễu đó ,màu xanh
của tùng bách đó đều là pháp thân của Phật”nếu có thể y theo giáo pháp
của Phật mà hành thì thấy được chân thân của Phật.
Do đó, các pháp tam vô
lậu học giới định huệ là chân thân của Phật, 37 phẩm trợ đạo, thập lực,
tứ vô uý,…là chân thân của Phật. Thậm chí hành một số pháp vì tăng đoàn
đều là chân thân của Phật.
Chân thân thường trụ:Chân
thân của Phật, pháp thân hụê mệnh của Phật là sáu pháp lục hoà của Tăng
đoàn. Đức Phật thường nói: “ nếu cúng dường tăng tức là cúng dường Ta
rồi” Phật sao mà xem trọng chúng tăng đến thế, cho nên “tiếp nối long
mạch Phật pháp”, “kế tục hụê mệnh của Phật”, đều nương vào tăng đoàn, hy
vọng tăng đoàn sau này không nên nghĩ rằng Phật đã vào niết bàn rồi, nên
biết sức từ bi của Phật luôn gia trì chúng ta, chúng ta nên đi về mọi
nơi để hoằng Pháp lợi sanh, làm cho chân thân Phật biến khắp nơi trên
thế giới.
Hoàng đế Thuận Tông
đời Đường không biết chân thân Phật cuối cùng sẽ ở đâu, nên đến Phật
Quang Như Mãn thiền sư thỉnh vấn như sau:
“Phật từ xứ nào đến
Diệt rồi đi về đâu
Đã nói thường trụ
thế
Hiện tại Phật ở
đâu”?
Thiền sư đáp:
“Phật từ vô vi đến
Diệt trở về vô vi
Pháp thân đầy hư
không
Thường trụ vô tâm xứ
hữu niệm quy vô niệm
Hữu trụ quy vô trụ
Đến vì chúng sanh
đến
Đi vì chúng sanh đi
Biển thanh tịnh chân
như
Thể thường trụ sâu
xa
Trí giả khéo suy
nghĩ
Chớ có nên hoài nghi”.
Hoàng đế trả lời thiền
sư và vẫn còn hoài nghi
“Phật tại hoàng cung
sanh
Diệt tại rừng song
thọ
Trụ thế bốn chín năm
Lại nói không thuyết
pháp
Sơn hà và đại hải
Trời đất và nhật
nguyệt
Đến thời quy về hết
Ai nói không sanh
diệt
Nghi tình như ở đây
Trí giả khéo phân
biệt”.
Thiền sư lại trả lời:
“Phật thể vốn vô vi
Mê tình vọng phân
biệt
Pháp thân khắp hư
không
Chưa từng có sanh
diệt
Hữu duyên Phật ra
đời
Hết duyên Phật nhập
diệt
Xứ xứ hoá chúng sanh
Giống như trăng dưới
nuớc
Không thường cũng
không đoạn
Không sanh cũng
không diệt
Sanh cũng chưa từng
sanh
Diệt cũng chưa từng
diệt
Thấy rõ vô tâm xứ
Tự nhiên không pháp
thuyết”.
***