Học Phật Bằng Các
Nào
Sưu tầm : Viên Quý –
Ngọc Trâm
Nguồn : Tham khảo chìa khoá học phật - HT.THÍCH
THANH TỪ và Xây dựng đời sống trên nền nhân quả luân hồi -
HT.THÍCH THIỆN HOA.
Ở thế
gian môn học nào cũng có phương pháp riêng của nó. Ví như môn toán học,
người học trò trước phải biết số, kế học thuộc cửu chương, học cách cộng
trừ nhân chia, lên nữa phải học công thức, phương trình… Môn văn chương,
trước phải biết chữ cái, học ráp vần, viết chính tả, học văn phạm, tập
cách làm văn…như vậy học Phật cũng cần một phương pháp để hiểu đúng,thực
hành đúng những lời Phật dạy.
Phương
pháp học phật tức là 3 môn Huệ học : Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ. Bởi vì
muốn vào cửa giác ngộ, thì trí tuệ là đòi hỏi đầu tiên. Như ta đã biết
Phật pháp là những chân lý là những sự thật, nếu không có ngọn
đuốc trí huệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chung quanh,
không cần trí huệ, chỉ dùng lòng Tin đến với đạo phật, để học Phật pháp,
thật là sai lầm lớn lao. Đây là chứng bệnh trầm trọng của Phật
tử hiện thời. Cần chữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt để ba
môn Huệ học vào công trình tu học Phật pháp.
THẾ
NÀO LÀ VĂN HUỆ.
Văn là
nghe, do nghe giáo lý Phật pháp trí huệ mở sáng, gọi là Văn huệ. Chúng
ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chư tăng, của thiện hữu tri thức
đã tu học trước ta. Những lời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của
Phật, trong đó chứa toàn lời lẽ chân chính, chỉ bày mọi sự thật cho
chúng sanh. Càng nghe trí huệ ta càng sáng. Hoặc chúng ta ,trực tiếp đọc
kinh sách Phật khiến mở mang trí huệ cũng thuộc Văn huệ. Chịu khó nghe
giảng dạy, chịu khó nghiên cứu kinh sách phật, đó là người biết từ cửa
Văn huệ tiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.
THẾ
NÀO LÀ TƯ HUỆ
Tư là
suy xét phán đoán, do suy xét phán đoán những lời dạy trong Phật pháp,
trí huệ càng tăng trưởng. Chúng ta được nghe lời chỉ dạy của thầy bạn,
dẫn từ trong kinh Phật ra,song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học
phật. Buộc chúng ta phải dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếu
quả thật đúng, từ đó chúng ta mới tin. Có thế, mới thực hành
đúng câu « các ngươi phải tự thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc lên với
chánh pháp » trong kinh Pháp Cú. Chúng ta muốn mở mang trí huệ, song tự
mình làm sao mở được, phải mồi ngọn đuốc trí huệ của mình với ngọn đuốc
chánh pháp của Phật,trí huệ mới phát sáng.
Mồi
bằng cách nào ?
Ví như
chúng ta nghe vị sư giảng rằng : « tất cả thế giới đều là vô thường ».
sau đó phải dùng trí huệ của mình phán đoán xem đúng hay không ? Chúng
ta tự đặt câu hỏi, tất cả thế gian đều là vô thường, có sự vật nào thoát
ngoài luật lệ ấy chăng ? nếu có, câu nói này chưa phải chân lý. Bằng
không, mới thật đúng chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàn tin. Thế rồi ta tự
khảo sát :
Con
người có phải vô thường không ? từ ông bà đến cha mẹ chúng ta đều có
sinh ra, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu, rồi chết. Kể luôn cả ta, khi nào
còn nhỏ bé, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. trong gia
đình thân tộc chúng ta đã thế, ngoài xã hội cũng thế, cả nhân loại trên
thế giới cũng thế, ngàn xưa là thế,mãi sau này cũng thế. Quả là con
người vô thường.
Đến
những sự vật, nào nhà cửa, bàn ghế, xe cộ… có bị vô thường không ? chính
cái nhà của mình, khi mới cất thì tốt đẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy
cũ dần, đến năm mười năm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng
xem bóng loáng tốt đẹp, dùng mấy năm đã thấy cũ, tróc sơn sờn mặt, rồi
đây sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạp khi mới mua đem về mới toanh, chạy
được một năm vỏ đã rách,cổ lỏng các con ốc lờn…vài năm nữa sẽ hư. Thế
là, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ… những vật cần dùng bên cạnh chúng ta thảy
bị vô thường chi phối. Cho đến trăm ngàn vật khác, nếu khảo sát đều thấy
đồng một số phận như nhau.
Chúng
ta có thể kết luận rằng : « tất cả thế gian đều là vô thường », quả thật
là chân lý. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khác đi, cũng không làm
lay động được lòng tin của ta. Bởi lòng tin này đã được gạn lọc qua sàng
lý trí, nên nó vững chắc không dễ gì làm lung lay.
Lại một
thí dụ, chúng ta nghe một vị sư giảng lý luân hồi, bảo rằng : « muôn vật
ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi ». ta tự đặt câu hỏi :tại sao
muôn vật đều luân hồi ? có vật nào không luân hồi chăng ? chúng ta bắt
đầu xét từ thực vật :
Cây cối
hình thành bắt nguồn từ hạt, hạt nảy mầm
tăng trưởng thành cây, nở hoa, kết trái ; trái sinh hạt, hạt lại nảy
mầm…đảo đi đảo lại không biết bao nhiêu lần.
Nước do
ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọng lại, rơi xuống
thành nước ; nước lại bốc hơi… mãi mãi không cùng.
To như
quả địa cầu vẫn quay tròn quanh cái trục, sáng rồi tối, tối lại sáng.
Căn cứ vào sự quay tròn của nó, người ta chia ra ngày giờ tháng năm,
thời tiết Xuân Hạ Thu Đông, xoay vần thế mãi không cùng.
Thân
người hay thú vật cũng thế cũng phải bị Luân hồi. Xét cho cùng thì cũng
do tứ đại mà có(đất, nước, gió, lửa). Những chất cứng dẻo như : da,
thịt, gân, xương là thuộc về đất ; những
chất đượm ướt như máu, mỡ, mồ hôi, nước mắt là thuộc về nước ; hơi thở
ra vào, trái tim nhảy, phổi hô hấp, tay chân cử động là thuộc về gió ;
hơi nóng trong người là thuộc về lửa. như trên chúng ta đã thấy, tứ đại
đều Luân hồi thì thân người do tứ đại mà có, cũng phải luân hồi thôi.
Khi thân này chết và đến lúc tan rã, thì chất cứng dẻo trả về cho đất,
chất đượm ướt trả về cho nước, hơi nóng trả về cho lửa, hơi thở và sự cử
động trả về cho gió. Rồi bốn chất này tuỳ theo nhân duyên chung hợp lại,
làm thành cây cỏ hay thân người khác. Người đến khi chết rồi, bốn chất
đó cũng trở về bản thể cũ của chúng.Trôi nổi trong 3 nẻo,sáu đường
(Trời, Người, A Tu La, Địa Ngục, Ngạ Quỷ,
Súc Sanh), không phải thường còn, cũng không phải mất hẳn mà là Luân
hồi.
Do sự
khảo sát trên, chúng ta khẳng định rằng « muôn vật ở thế gian đều xoay
quanh vòng luân hồi » là sự thật không còn gì phải nghi ngờ.
THẾ
NÀO LÀ TU HUỆ
Sau khi
phán xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụng trong cuộc sống hàng
ngày của mình, khiến chánh lý càng ngày càng hiện sáng tỏ, là tu huệ.
Ví như, đã biết rõ « tất cả thế gian là vô thường »chúng ta ứng dụng sự
vô thường vào đời sống của mình, trong những trường hợp như sau :
Đã biết
rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đến với bản thân ta, ta vẫn
giữ bình tĩnh không hốt hoảng, sợ hãi. vì biết chắc điều đó ở thế gian
không ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hoàng chỉ làm rối thêm vô ích. Bởi
không sợ nên tâm ta bình tĩnh sáng suốt, giải quyết mọi việc một cách
tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốt để khuyên giải cho những người đồng
cảnh ngộ bớt đau khổ.
Biết rõ
thế gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tài sắc… lòng ta
nguội lạnh. Tranh giành những thứ tạm bợ ấy làm gì, để rồi chuốc khổ về
mình, gây đau khổ cho người, rốt cuộc chỉ thành việc mò trăng bắt bóng.
Lòng tham lam giành giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.
Do thấy
lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờ chết. Phải cố gắng làm mọi
việc lành, nếu cơn vô thường đến, chúng ta có muốn làm cũng không sao
làm được. Lại biết quý tiếc thời giờ, một ngày qua rồi không tìm lại
được. Phải cấp bách nỗ lực làm lợi mình lợi người, không thể chần chừ.
Đó là 3
trường hợp cho biết « thế gian vô thường » chúng ta khéo ứng dụng tu
hành trong cuộc sống hiện tại của mình. Bao nhiêu
sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo đó mà tăng trưởng. Sự tu hành ấy, đi đôi với
tâm trí tỉnh táo sáng suốt, nên gọi là « tu huệ ».
Ví dụ
khác, chúng ta nhận rõ « muôn vật luân hồi », liền ứng dụng lý luân hồi
vào cuộc sống của mình. Nếu phải luân hồi, chúng ta chọn cái luân hồi
nào tốt đẹp an ổn hơn. Ví như, biết các loài
thảo mộc từ hạt nảy mầm, sinh trưởng
thành cây, đơm hoa, kết quả ; hạt lại nảy mầm.. chúng ta nên chọn lựa
hạt giống tốt ngon đem ương để sau này kết quả ngon, cho ta và mọi người
được thưởng thức vị ngon. Cũng thế, trong vòng luân hồi bản thân ta cũng
không thoát khỏi, ta cần tạo những nhân tốt, nhân an vui, để mai kia có
lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt, chỗ an vui.
Đã biết
muôn vật luân hồi, chúng ta phải tìm xem nguyên nhân nào lôi cuốn vào
trong ấy. Biết rõ nguyên nhân rồi, phải tìm cách thoát ra ngoài vòng
luân hồi. Không đầu hàng khuất phục, để chịu lăn mãi trong luân hồi.
biết luân hồi đê tìm cách thoát ra, chính là tinh thần « tu huệ ».
« văn
huệ », « tu huệ » rất cần thiết, song tu huệ lại càng quan trọng hơn.
Nếu có văn huệ, tư huệ mà thiếu tu huệ thì
chỉ là huệ rỗng, không lợi ích thiết thực cho đời sống con người. Nhờ tu
huệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trên va giúp cho văn tư dược
kết quả viên mãn.
Vì thế
đức phật dạy hàng phật tử đi chùa là cốt gặp Sư tăng, Sư Ni, gặp Tăng Ni
rồi cần phải thưa hỏi Phật pháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi
cần phán xét, phán xét rồi cần phải tiến tu. Được vậy mới đúng tinh thần
phật tử (phỏng theo bài kinh Ma Ha Nam trong Tạp A Hàm. Bồ Tát Quan Thế
Âm cũng trình với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngài gặp phật dạy tu phương
pháp văn,tư, tu được vào chánh Định và cho
hiệu là Quan Thế Âm.
Ba môn
huệ học này hoàn toàn thích hợp với tinh thần khoa học hiện nay. Bất cứ
môn học nào trước tiên học lý thuyết, kế phê bình lý thuyết, sau thí
nghiệm hay thực hành lý thuyết. Lý thuyết tức là Văn huệ, phê bình tức
Tư huệ, thí nghiệm tức Tu huệ. Có như vậy môn học mới tiến bộ.
Như
chúng ta đã biết Phật học xoay vào nội tâm của mình, gạn lọc đào thải
những tâm thức nhơ xấu, kiến tạo một tâm hồn trong sáng an vui tự tại.
Vì thế
3 môn học đều căn cứ trên nguyên tắc « xem lại chính mình ».Chúng ta hãy
luôn chủ động học hỏi những kinh điển,nghe lời chỉ dạy của thầy bạn,rồi
sau đó ta phải dung trí tư duy quán chiếu và cuối cùng hãy vận dụng vào
hiện thực cuộc sống để đó không phải là những lý thuyết
xuông . Trí tuệ cộng với lòng kiên nhẫn và
niềm tin vào chính mình và có phương pháp học Phật(văn,tư,tu) sẽ giúp
chúng ta rất nhiều trên con đường tu tập cũng như cuộc sống. Nắm vững
nguyên tắc này, đọc kinh sách phật, chúng ta nhận định phán xét không bị
sai lầm.
phatphap.wordpress.com & phatphapnhiemmau.com & phatphapdaithua.com
***