Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

Nghiệp

Khải Tâm


“… Có một thanh niên tên là Sudha đến bạch cùng đức Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì giữa loài người với nhau, khi họ là loài người lại thấy có người liệt, người ưu? Có người đoản thọ, có người trường thọ, có người nhiều bệnh, có người ít bệnh? Có người xấu sắc , có người đẹp sắc? Có người quyền thế nhỏ, có người quyền thế lớn? Có người tài sản nhỏ, có người tài sản lớn? Có người thuộc gia đình hạ liệt, có người thuộc gia đình cao quý? Có người trí tuệ yếu kém, có người đầy đủ trí tuệ?”

Đức Phật dạy: “….các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.”

(Trung Bộ III, kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt.135)

Như vậy, sự hi?n hữu của con người gắn liền với sự hiện hữu của nghiệp từ vô luợng kiếp. Mỗi con người là điểm trung tâm của nghiệp. Không có một năng lực nào chi phối, không có sự mang đến từ bên ngoài, chính con người chủ động tạo nên nghiệp.

 

1.Nghiệp là gì?  Nghiệp, tiếng Sanskrit gọi là Karma, Pali gọi là Kamma, có nghĩa là hành động có tác ý của thân, khẩu, ý.  Tác ý tức là có sự chủ tâm, có ý muốn quyết định.

Tư tưởng, lời nói, việc làm do ý muốn (tác ý) làm động cơ khởi xuất làm một việc gì đó hoặc thiện, hoặc ác, hoặc không thiện không ác đều tạo thành nghiệp. Tác ý thiện thì tạo nghiệp thiện. Tác ý ác thì tạo nghiệp ác. Còn các hành động không có tác ý thì chỉ gọi là hành động chớ không được gọi là nghiệp.

Hành động nơi thân thông qua việc làm có dụng tâm (tác ý)gọi là thân nghiệp. Lời nói có dụng tâm gọi là khẩu nghiệp. Khởi ý nghĩ muốn làm điều gì đó là ý nghiệp. Ở đây, ý nghiệp là quan trọng nhất vì nó là cơ sở đưa tới lời nói và hành động. 

Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:

                        “Ý dẫn đầu các pháp

                          Ý làm chủ, ý tạo

                          Nếu với ý ô nhiễm

                          Nói lên  hay hành động

                          Khổ não bước theo sau

                          Như xe, chân vật kéo.”

                                                                  (PC. 1)

                        “Ý dẫn đầu các pháp

                          Ý làm chủ, ý tạo

                          Nếu  với ý thanh tịnh

                          Nói lên hay hành động

                          An lạc bước theo sau

                          Như bóng, không rời hình”.      

  (PC. 2)

Hai bài kệ trên cho ta thấy vai trò làm chủ của ý đối với thân và khẩu rất rõ ràng. Đồng thời cho thấy mối tương quan nhân - quả từ nơi tâm ý con người mà có quả báo thiện hay ác. Do đó, hạnh phúc hay khổ đau đều từ tâm ý con người kiến tạo ra và phải thọ nhận.

Nếu chúng ta nghĩ đến những điều tốt lành thì sẽ hưởng quả tốt lành. Bằng như chúng ta toan tính những điều bất thiện, bày mưu lập kế kiếm lợi bằng những thủ đoạn mua gian bán lận, lọc lừa dối gạt … thì dù chưa làm, chưa thực hiện hành vi đó nhưng vẫn kết thành nghiệp xấu, và tương lai sẽ thọ quả báo xấu. Vì thế, Phật dạy phải luôn chế ngự tâm, phải “chăn” giữ tâm sao cho trong sáng, thanh tịnh, phải luôn luôn “tự tịnh kỳ ý”, để thiết lập một đời sống an lạc giải thoát trong hiện tại và tương lai.

Tuy nhiên, định nghĩa “ nghiệp là hành động có tác ý hay hành động phát sinh từ nơi tâm” chỉ được dùng cho tất cả nghiệp hữu lậu, tức là mọi vấn đề có liên quan đến việc thiện-ác, hạnh phúc-khổ đau mà không phải những gì thuộc vô lậu giải thoát. Bởi lẽ, tự thân của việc không tham, sân, si đã là thanh tịnh giải thoát rồi!

2. Nguồn gốc của nghiệp

Theo Narada: “ Vô minh và Ái dục là cội rễ của mọi tội lỗi… vô minh là nguyên nhân chính tạo nghiệp”. Thế nào gọi là vô minh? Hiểu biết các pháp không đúng như thật gọi là vô minh. Như Vô ngã cho là ngã, Vô thường cho là thường… 

Ở đây, xin được nói thêm, theo nghĩa thông thường thì Vô minh là không sáng, là si mê. Theo hệ Nguyên thủy, Vô minh là không biết rõ bốn Thánh đế hay con đường đưa đến khổ diệt. Theo Đại thừa, Vô minh là không tỏ ngộ Chân tâm. Nói chung, các phiền não làm cho chân tâm lu mờ, che lấp bổn tánh, khiến không thấy rõ thực tánh của sự vật gọi là Vô minh.

Vì vô minh không nhận rõ thật tướng của các pháp vốn Không nên cứ bám níu, dính chặc vào chúng làm cho phiền não, khổ đau phát sinh. Vì u mê không hiểu rõ nguyên lý Nghiệp nên mới dẫn đến việc gây tạo nghiệp. Và dĩ nhiên, sự hình thành nên nghiệp mà con người dễ dàng nhận biết được chính là sự vận hành của thân, khẩu, ý. Từ tâm máy động lưu xuất thông qua thân, khẩu, ý mà có nghiệp.

Trong kinh có nói đến 10 nghiệp ác và mười 10 nghiệp thiện như sau:

+ Mười nghiệp ác gồm:

-Ba nghiệp ác nơi thân là:

1.Sát sanh.

2.Trộm cắp.

3.Tà dâm.

-Bốn nghiệp ác nơi lời nói là:

1.Nói dối.

2.Nói lời thô ác.

3.Nói lời chia rẽ.

4.Nói lời thêu dệt, vô nghĩa, không đúng thời, đúng chỗ.

-Ba nghiệp ác nơi ý là:

1.Tham lam.

2.Sân hận.

3.Tà kiến (Si mê).

+ Bên cạnh việc không làm những điều trên là nghiệp thiện, chúng ta cần phải nhận thức rõ điều này:

-Về ba nghiệp thiện nơi thân:

1. Không sát sanh, cần phải phóng sanh, tôn trọng và bảo vệ sự sống muôn loài.

2. Không trộm cắp, cần phải lập hạnh bố thí và giúp đỡ người khác.

3. Không tà dâm, cần phải giữ hạnh thanh tịnh, không xâm phạm hạnh phúc gia đình người khác.

-Về bốn nghiệp thiện nơi lời nói:

1. Không nói dối, cần phải nói lời chân thực.

2. Không nói lời thô ác, cần phải nói lời dịu hiền.

3. Không nói lời chia rẽ, cần phải nói lời hòa hợp, đoàn kết.

4. Không nói thêu dệt, cần phải nói lời đúng nghĩa, có giá trị.

-Về ba nghiệp nơi ý:

1. Không tham lam, cần phải quán bất tịnh, thực hành thiểu dục tri túc, bố thí giúp đỡ người khác.

2. Không sân hận, cần phải quán từ bi, lấy ân báo oán.

3. Không tà kiến, cần phải quán nhân duyên, tin sâu nhân quả, hướng dẫn, khuyến khích mọi người  bỏ ác làm lành, tin luật nhân quả- nghiệp báo.

3. Ai tạo nghiệp ?

 Ở một đoạn khác trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:

                        “Tự mình làm điều ác

                         Tự mình làm nhiễm ô

                         Tự mình ác không làm

                         Tự mình làm thanh tịnh

                         Tịnh, không tịnh tự mình

                        Không ai thanh tịnh ai”

                                                            (PC. 165)

Mình tức là Tôi hay Ta , là chỉ cho cái Ngã sanh diệt mà từ vô thỉ kiếp đến nay con người vẫn chấp là thật Ngã, thật có cái Tôi tạo ra mọi nghiệp nhiễm ô cũng như thanh tịnh. Thật ra, cái Tôi này chỉ là duyên sinh giả hiệp, nó không có chủ thể nên không thật. Ví như con người là do Ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hợp thành. Tách rời năm uẩn ra thì không có con người.

Như vậy, không có ai tạo nghiệp hết. Mà như trên đã nói, nghiệp chính là từ tâm suy tính có chủ ý muốn nhằm đạt đến mục tiêu nào đó. Tâm ấy không có Ngã cũng không phải chính nó là Ngã; bởi vì chính nó cũng không tự có mà do nhiều nhân tố khác tạo nên. Nói cách khác, Phật giáo chủ trương có sự hành động mà không có người hành động, có tri giác mà không có người tri giác, có ý thức mà không có người ý thức. Tương tự, ngoài tâm sở tác ý không có người tạo nghiệp.

TÍNH CHẤT CỦA NGHIỆP

Thường, khi nói đến nghiệp là nói đến vấn đề thiện –ác trong vòng sanh diệt và tương tục của đời sống con người. Nghiệp không nhất định là lành hay là ác mà cần phải xem tánh chất của nó mới minh định được. Nếu trong tâm thiện thì phát ra hành vi lợi lạc chúng sanh, ấy là thiện nghiệp.Và ngược lại, nếu trong tâm ác thì sẽ phát ra hành vi tổn hại chúng sinh, ấy là ác nghiệp.

Thiện-ác, theo Phật giáo phải căn cứ vào cái Tâm chứ không phải nơi việc làm. Có khi cùng một việc làm mà người này được coi là thiện, mà người kia bị xem là ác. Sự khác nhau ở đây là vì một người làm bằng cái tâm cao thượng, yêu thương, còn một người làm vì lòng ích kỷ xấu xa. Cũng như người cha, người mẹ vì thương con mà la rầy, quở phạt để răn dạy thì hành động ấy không thể nào gọi là ác được.

Cho nên,  để xác định là thiện hay là ác thì phải xem kết quả về tương lai là tốt hay xấu. Từ đó, thông qua tư duy và hành động của thân, khẩu, ý mà biết được nghiệp nhân và nghiệp quả. Có nghĩa là với tư duy và hành động mà chưa đưa đến kết quả thì gọi là nghiệp nhân. Với tư duy và một hành động tạo tác sau một tiến trình tạo thành nghiệp thì gọi là nghiệp quả. Hay nói cách khác, con người tạo ra nhân ấy gọi là nghiệp nhân, rồi chính con người thu lấy quả gọi là nghiệp quả.

 SỰ CHI PHỐI CỦA NGHIỆP

Trong kinh Thập Thiện cũng có nói rằng “Tất cả các chúng sanh vì tâm tưởng khác nhau nên tạo nghiệp khác nhau, do đó có sự xoay vần trong các nẻo”. (Nhất thiết chúng sanh tâm tưởng dị cố, tạo nghiệp diệc dị, do thị cố hữu chư thú luân chuyển).

Hằng ngày, chúng ta vẫn chứng kiến biết bao sự sai khác của muôn sự, muôn vật trên thế gian này. Như có người trông khoẻ mạnh nhưng lại chết sớm; người gầy yếu, nay đau mai ốm mà lại sống thọ. Có người giàu mà lại ngu dốt, người nghèo khó lại rất thông minh. Có người trông sáng sủa lại gian tham, có người xấu xí lại thật thà, chất phác…

Khoa học lý giải sự khác nhau giữa con người với nhau là do gen di truyền. Thế thì tại sao có những người cùng sinh ra một lượt (sinh đôi), hình thể giống nhau, cùng được nuôi dưỡng và lớn lên trong một hoàn cảnh như nhau mà tâm tư, tình cảm, cuộc đời  lại khác nhau quá chừng? Một người thích văn chương, một người thích võ thuật. Một người luôn may mắn, thành công, một người gặp toàn sự khó khăn trắc trở? Rõ ràng, nguyên nhân sự bất bình đẳng này không gì khác hơn là do nghiệp.

Theo đạo Phật, tất cả những sự sai khác không chỉ do sự di truyền, hoàn cảnh chung quanh, thức ăn uống, mà thâm sâu cốt tuỷ nhất là do nghiệp lực của tự mỗi người . Cái chuyện “cây đắng mà xanh trái ngọt”, hay “Cha làm thầy con đốt sách” thì cũng từ nơi nghiệp vậy .

Nhưng nghiệp không phải là tiền định hay số phận theo kiểu:

“Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao”.

(Nguyễn Du).

Ở đây, “cần phải hiểu nghiệp và nghiệp lực không đồng nghĩa với thuyết cho rằng mọi sự đều được quyết định sẵn (thuyết định mệnh). Nghiệp làm cho con người tái sinh trong một cuộc đời, một hoàn cảnh nhất định, nhưng hành động con người trong cuộc đời đó vẫn có sự tự do. Nghiệp sinh ra hoàn cảnh nhưng sự phản ứng đối với hoàn cảnh này lại nằm trong tay con người.” Nếu con người có ý chí cải tiến vẫn có thể sửa đổi được nghiệp quả.

Trong kinh Tăng Nhứt A Hàm, Phật dạy:

“Nếu có ai cho rằng con người phải gặt hái trọn hậu quả theo tất cả những hành động trong quá khứ thì không thể có đời sống đạo đức, và con người cũng không có cơ hội tận diệt phiền não. Nhưng nếu nói rằng quả phải gặt tương xứng với nhân đã gieo thì ắt có đời sống đạo đức và con người sẽ có cơ hội dập tắt phiền não.”

Thế thì, theo Phật giáo, dù không hoàn toàn làm chủ được cái nghiệp nhân đã gieo nhưng  vẫn có thể hoán chuyển được nghiệp quả. Cũng trên ý đó, Hòa thượng Thanh Từ nói “Tu là chuyển nghiệp”. Nghiệp có chuyển được hay không là do ở ý chí và sự quyết tâm của chính bản thân mình.

Vâng! Bằng sự cố gắng vươn lên, một kẻ đê tiện xấu xa vẫn có thể trở nên một người trong sạch đạo đức. Bằng tất cả sự ăn năn hối cải những lầm lỗi đã trót gây ra ắt hẳn sẽ được tha thứ khoan hồng. Như Angulimala, tên sát nhân lừng danh khét tiếng một thời, sau quy y tu hành theo Phật đã trở thành một vị A La Hán và thoát khỏi quả dữ của những hành động tàn ác ấy. Hay cô Ambapali, một gái giang hồ biết hồi tâm tu hành cũng đắc quả A La Hán…

 TẦM QUAN TRỌNG KHI NHẬN THỨC RÕ NGHIỆP

Khi có sự hiểu biết chính chắn về Nghiệp, con người sẽ không còn dao động khi gặp sự cố bất ngờ. Đối với những việc khó khăn trắc trở hay những thất bại trong cuộc đời, mỗi con người chúng ta  sẽ dễ dàng “bước qua” mà không ngã quỵ vì  biết đó là do nghiệp mà chúng ta đã tạo trong quá khứ. Con người sẽ không rơi lạc vào mê tín dị đoan, van vái cầu xin thần thánh ban ân giáng phước vì đã đặt trọn niềm tin vào chính mình, không dựa vào tha lực. Con người sẽ vui vẻ nhận lãnh trách nhiệm về mình mà không đổ thừa cho hoàn cảnh bên ngoài.

Như trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du có nói:

“Đã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

Khi có niềm tin vào chính mình, con người sẽ thản nhiên đón nhận những “may rủi” của cuộc đời mà không còn lo âu, sợ hãi nữa. Mọi việc họa phước tốt xấu của kiếp nhơn sinh qua thuyết nghiệp mà tỏ rõ hơn.

Ví như khi gặp một người đầu tắt mặt tối, làm lụng vất vả cả ngày mà vẫn thiếu trước hụt sau, thì thuyết nghiệp sẽ giúp ta biết rằng vì trong một kiếp quá khứ, người đó sống bỏn sẻn, keo kiệt, không bố thí giúp đỡ ai cả.

Bên cạnh đó ta cũng biết rằng với những người không làm việc gì nhiều mà cuộc sống dư dả, sung túc là vì đời trước họ sống rộng rãi, thương người, lúc nào cũng hết lòng giúp đỡ người khác. Hoặc với người khỏe mạnh, không bệnh tật, sống thọ là nhờ đời trước biết tôn trọng sự sống con người và loài vật, không gây thiệt hại đến sự sống của người khác và muôn loài…

Tuy nhiên, cũng có trường hợp người tạo nhiều nghiệp ác trong hiện tại  mà vẫn sống sung sướng trong sự sang giàu ấy là vì trong một kiếp trước họ đã tạo nhiều nghiệp thiện nên đến đời này được quả báo lành, hưởng cảnh giàu sang phú quý. Còn những nghiệp ác mà họ tạo ra trong đời sống hiện tại  thì chưa đủ thời gian chín mùi, chưa gặp điều kiện thích hợp nên quả báo ác chưa đến (chứ không phải là không đến).

Ngược lại, cũng có những người sống rất thiện lành nhưng cuộc đời họ rất là cơ cực, nghèo khổ, lại hay gặp nhiều sự rủi ro, bất hạnh. Đó là vì trong một kiếp quá khứ họ đã tạo nhiều nghiệp ác nên đời này không thể tránh được quả báo đau khổ hiện tiền. Còn những nghiệp thiện họ làm trong đời này thì chưa đủ duyên để hưởng quả báo tốt. Nhưng nếu như đời này họ có được duyên lành biết đến Phật pháp, được học hiểu giáo lý nghiệp, quyết tâm bỏ ác làm lành, vui vẻ “trả nghiệp” thì tuy sống nghèo khổ nhưng tâm hồn vẫn được an vui…

Nói chung, khi đã nắm vững tầm quan trọng của Nghiệp, con người sẽ không còn mơ hồ trước những điều dường như mâu thuẫn của cuộc đời. Vì luân lý nghiệp báo cũng tức là luân lý nhân quả.

Cổ đức có câu: “Dục tri tiền thế nhân

Kim sanh thọ giả thị

Dục tri lai thế quả

Kim sanh tác giả thị”.

Nghĩa là: muốn biết đời trước tạo nhân gì, hãy xem đời nay chịu quả báo nào. Muốn biết đời sau chịu quả gì, hãy xem đời nay chịu quả gì?

Khi đã rõ được điều này rồi thì con người sẽ ý thức thay đổi thái độ sống của mình theo chiều hướng thiện. Họ sẽ sử dụng đồng tiền một cách ý nghĩa cho việc từ thiện, phóng sanh, giúp người nghèo đói thay vì phải tốn nó vào việc xin bùa cầu may hay nhờ đồng bóng cúng giải oan, giaûi haïn nhö tröôùc ñaây!

Giaùo lyù nghieäp coøn giuùp hoï bieát raèng nhöõng haønh ñoäng, lôøi noùi, yù nghó của mình là có sự ảnh hưởng, tương quan giữa mình và người khác. Gây thiệt hại cho người, cho xã hội tức là gây thiệt hại cho bản thân mình trước và giúp đỡ người tức là giúp đỡ chính mình. Cho nên, họ sẽ năng làm nhiều phước thiện hơn và luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Xã hội nhờ đó mà ngày càng trở nên tốt đẹp.

Và khi nhận thức rõ thuyết nghiệp rồi thì cuộc sống sẽ lạc quan hơn vì  ít nhiều đã hiểu  được rằng không phải đời trước chúng ta thế nào thì đời này phải như thế ấy hoặc đời sau phải hệt như đời này. Trái lại, Nghiệp luôn có sự thay đổi tuỳ theo tâm lực của chúng sanh. Chính vì thế mà nghiệp được phân ra làm nhiều loại.

 1. Phân loại theo thời gian: 

- Hiện nghiệp : Nghiệp đưa đến quả báo trong hiện tại.

- Sanh nghiệp : Nghiệp đưa đến quả báo trong đời sống kế tiếp.

- Hậu nghiệp : Nghiệp đưa đến quả báo các đời sau.

- Vô hiệu nghiệp: Nghiệp mà quả báo không thành tựu ở đời này hay đời sau.

2. Phân loại theo khả năng báo ứng:

- Cực trọng nghiệp: Các nghiệp gây ấn tượng xấu ác cực mạnh và nằm sâu trong tâm lý của con người. Thường chỉ cho sự phạm tội ngũ nghịch ( giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hoà hợp Tăng, làm thân Phật ra máu ).

- Cận tử nghiệp: Nghiệp lúc sắp chết. Nghiệp này rất quan trọng vì  ảnh hưởng đến sự tái sanh.

- Tập quán nghiệp: Thói quen hằng ngày hình thành nên cá tính con người. Nghiệp này góp phần cho cận tử nghiệp. Tập quán nghiệp tốt sẽ giúp cho cận tử nghiệp tốt và ngược lại .

- Tích luỹ nghiệp: Nghiệp chứa đựng các nghiệp của một chúng sanh được tích luỹ dần dần từ vô thỉ.

3. Phân loại theo tiến trình nhân quả:

- Dị thời nhi thục (Khác thời mới chín): Thời gian chín mùi của nghiệp khác với thời gian tạo nghiệp. Ví dụ như quả xoài sống và chín không cùng một lúc.

- Biến dị nhi thục (Biến khác rồi mới chín): Kết quả bị biến thái và biến tướng so với thời gian mới tạo nghiệp. Nghĩa là quả chẳng giống nhân, mà nhân cũng khác hẳn quả. Ví dụ như  quả xoài non thì  màu xanh, khi chín thì lớn mà vàng.

- Dị loại nhi thục (Biến ra loài khác rồi mới chín): Kết quả bị biến chất so với thời gian mới tạo nghiệp. Ví dụ như quả xoài khi sống thì chua, mà khi chín lại ngọt.

4. Một số tên gọi khác của nghiệp:

- Bạch nghiệp ( Nghiệp trắng): Các nghiệp thiện.

- Hắc nghiệp   ( Nghiệp đen):    Các nghiệp ác.

- Phi hắc phi bạch nghiệp: Các hành động duy tác (vô ký- không thiện, không ác).

- Biệt nghiệp: Mỗi người có một nghiệp riêng.

- Cộng nghiệp: Nghiệp chung của tập thể (gia đình, cộng đồng).

- Duy tác nghiệp: Nghiệp không có sanh y (không có quả).

- Thánh nghiệp: Nghiệp đưa đến thánh đạo.

- Chướng nghiệp: Nghiệp cản trở sự kết thành quả.

- Đoạn nghiệp: Nghiệp tiêu diệt các năng lực sinh nghiệp.

- Dẫn nghiệp: Nghiệp quyết định nơi thác sinh.

- Mãn nghiệp: Chúng sanh tuy sinh cùng cảnh giới nhưng vận mệnh có nhiều loại.

- Định nghiệp: Các nghiệp nhất định đưa đến kết quả.

- Bất định nghiệp: Nghiệp không đưa đến kết quả hay kết quả xuất hiện ở một thời điểm rất xa không định được.

Tóm lại, Nghiệp là một năng lực cá biệt được chuyển từ kiếp này sang kiếp khác, nghiệp thủ một vai trò quan trọng trong việc cấu tạo tâm tánh con người. Nghiệp dẫn đi luân hồi trong lục đạo. Nghiệp giải thích mọi hiện tượng mà ta gọi là vĩ nhơn, là thiên tài, là thần đồng…

Hiểu về giáo lý nghiệp, chúng ta có trách nhiệm với mình hơn mà không dựa vào các thế lực siêu nhiên khác. Chúng ta sẽ là người chủ động trong việc kiến tạo nên một đời sống an lạc ngay trong cuộc đời  này và tạo nền tảng vững chắc ở ngày mai.

“ Tự mình y chỉ mình

Nào có y chỉ khác

Nhờ khéo điều phục mình

Được y chỉ khó được.”

(PC.160)

 

Khải Tâm

Sách tham khảo

1/ HT. Thích Minh Châu. (dịch), Kinh Pháp Cú, NXB tôn Giáo, Hà Nội, 2000.

2/ HT. Thích Minh Châu. (dịch). Kinh Trung Bộ III, TP.HCM: Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, 2001.

3/ Phạm Kim Khánh (dịch), Đức Phật và Phật pháp, NXB TP.HCM, TP.HCM, 1998.

4/ Thích Hoàn Quan (dịch), Phật Tổ Ngũ Kinh, NXB TP.HCM, TP.HCM, 1999.

5/ HT. Thích Thiện Siêu, Chữ Nghiệp Trong Đạo Phật, NXB Tôn Giáo,Hà Nội, năm 2002.

6/ HT. Thích Thanh Từ, Buớc đầu học Phật, Thành Hội Phật Giáo TP.HCM ấn hành 1991.

7/ Thích Thanh Từ, Tu là chuyển nghiệp, 1993.

8/ Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, NXB TP.HCM, TP.HCM, 1999.

9/ Ban Hoằng Pháp Trung Ương, Phật học cơ bản, tập 1 (Phật học hàm thụ), NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2003.

***

 

  http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/nghiep.htm

 


Vào mạng: 09-06-2009

Trở về mục "Đức Phật và Phật pháp"

Đầu trang