Nhân Thừa & Bồ Tát Thừa
Nguồn: Báo Giác Ngộ số 444
Hôm nay chúng tôi sẽ nói về hai
vấn đề, một là tu bằng cách nào để đem lại sự an lạc cho tất cả mọi
người đời này và đời sau, hai là tu bằng cách nào để được giải thoát
sanh tử.
Vấn đề thứ nhất, tu bằng cách nào để
chúng ta được an lạc trong đời này và đời sau. Điều này trong kinh có nhắc
đến nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ nói thu gọn cho Phật tử dễ nhớ. Giáo lý của
đạo Phật có chia ra Ngũ thừa phật giáo, tức là năm bậc.
Bậc thứ nhất là Nhân thừa, tức lợi
ích thiết thực ngay trong đời này và cả đời sau. Thứ hai là Thiên thừa tức
giáo pháp dạy chúng ta tu để được sanh về cõi trời. Thứ ba là Thanh văn
thừa, thứ tư là Duyên giác thừa, hai giáo pháp này đều dạy chúng ta tu để
giải thoát sanh tử. Thứ năm là Bồ tát thừa, tức giáo pháp dạy chúng ta
tu vừa lợi mình vừa lợi người, cuối cùng đều đi đến giác ngộ giải thoát.
Ở đây tôi chỉ nói hai bậc là Nhân
thừa và Bồ tát thừa thôi. Nhân thừa là tu thế nào để được an lạc cho
chúng ta ngay trong đời này và đời sau. Bồ tát thừa và tu cách nào để được
giải thoát sanh tử cho mình, cho người. Hai vấn đề này là hai vấn đề
then chốt mà tất cả người tu chúng ta cần phải biết.
Trước khi muốn giải thoát sanh tử,
chúng ta phải biết sanh tử có bao nhiêu đường. Nhà Phật dạy luân hồi
trong Lục đạo là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, a-tu-la, trời.
Chúng sanh còn sanh tử luân hồi sẽ đi trong sáu đường này. Giáo pháp Phật
dạy tu để tránh địa nguc, ngạ quỷ, súc sanh; kế đó lên làm người, chư
Thiên, sau cùng dạy chúng ta tu giải thoát sanh tử.
Chúng ta thường nghe nói về ba
đường khổ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Địa ngục, ngạ quỷ khổ thế nào
ta không thấy, nhưng súc sanh thì sự khổ nhan nhãn ở trước mắt ai cũng
thấy. Cho nên đã là người quy y Tam bảo, nghĩa là quy y Phật, quy y
Pháp, quy y Tăng. Quy y Phật rồi khỏi đọa địa ngục, quy y Pháp rồi khỏi
đọa ngạ quỷ, quy y Tăng rồi khỏi đọa súc sanh. Tại sao quy y Phật rồi
khỏi đọa địa nguc? Vì địa nguc là chốn u minh tăm tối, quy y với Phật là
Bậc Giác Ngộ sáng suốt thì làm gì xuống chỗ u minh tối tăm. Tu là tránh
những đường khổ như thế. Tại sao quy y Pháp khỏi đọa ngạ quỷ. Ngạ quỷ là
loài quỷ đói. Với con mắt của Phật, Ngài thấy rõ trong thế gian này có
những loài quỷ đói sống lang thang khổ sở, chúng không có gì ăn. Nên
Phật dạy chư Tăng Ni mỗi chiều nên cúng cô hồn, tức cho các loài quỷ đói
ăn.
Có một lần ngài Mục Kiền Liên nhìn
thấy trong hư không có những loài quỷ đói lang thang, khổ sở kêu khóc.
Ngài xót xa bạch với Phật, Phật bảo : 'Ta cũng thấy như vậy nhưng Ta
không có nói". Thế thì loài quỷ đói cầu xin mình, chớ không phải ta cầu
xin nó. Vậy mà ngày nay nhiều người cúng ma quỷ cầu xin nó hộ độ cho
mình, thật là quá sai lầm. Biết thế rồi ta chỉ thương chớ không sợ ngạ
quỷ vì nó khổ hơn mình.
Do nhân nào đọa làm quỷ đói? Phật
dạy những người đời trước ôm lòng tham lam, bỏn sẻn, hiểm độc sẽ sanh
vào loài quỷ đói. Vì tham lam nên cái gì cũng vơ vét hết, được mình mà
hại người cũng chẳng từ nan. Do tâm bỏn sẻn nên gặp người khổ không
giúp, dù mình rất dư dả. Do hiểm độc nên thường bày mưu này kế nọ để hại
người. Bây giờ mình tu theo Phật rồi, phải có lòng từ bi, rộng lượng,
không được tham lam bỏn sẻn hiểm độc. Như vậy nhờ tu theo Phật, chúng ta
đã chận được các đường khổ.
Tại sao quy y Tăng rồi khỏi đọa súc
sanh. Phật dạy người đời trước do si mê nên đời này đọa làm súc sanh. Si
mê thế nào? Si mê là không biết rõ thế nào là thiện, thế nào là ác, thế
nào là tội, thế nào là phước, thế nào là tà, thế nào là chánh. Người
không phân biệt rành rõ thiện ác, tội phước, tà chánh gọi là si mê. Si
mê nên chết phải đọa làm loài súc sanh.
Khi quy y xong quý thầy có bổn phận
giảng trạch rành rõ cho quý Phật tử biết, thế nào là thiện, thế nào là
ác thế nào là tội, thế nào là phước, thế nào là tà, thế nào là chánh.
Làm đau khổ cho người là ác, đem lại lợi lạc cho người là thiện. Chẳng
những người mà đối với các loài khác cũng thế. Nói chung làm lợi lạc cho
người và chúng sanh gọi là thiện, làm đau khổ gọi là ác.
Thế nào là tà, thế nào là chánh? Tà
chánh ở đây có nhiều lối. Thứ nhất chúng
ta là đệ tử Phật mà đi cầu cúng miếu bà miếu ông là tà. Tại sao? Bởi vì
do lòng tham nên tới cầu xin, mà không biết người mình đang cầu xin đó
thế nào. Phật dạy chúng ta lý nhân quả chớ không dạy cầu xin. Gieo nhân
tốt thì gặt quả tốt, gieo nhân xấu thì chịu quả xẩu. Mình làm mình chịu,
nếu cầu xin được thì không có lý nhân quả. Song lý nhân quả là chân lý ở
trên thế gian, không thể chối cãi được. Lẽ thực chúng ta không làm, lại
làm theo tưởng tượng hư dối nên gọi là tà. Đó là tà đối với chánh.
Ngoài ra, quan niệm tà trong đạo
Phật cần phải hiểu cho tường tận, nếu không khéo chúng ta cũng sẽ bị lạc
vào đó Phật dạy ba thứ độc là tham sân và si. Nếu ta tham mà bị ai ngăn
trở thì nổi sân, cho nên tham và sân gốc từ si mà ra. Nhưng Phật tử bây
giờ đi chùa có tham không, tham cái gì? Tham cầu xin. Quý thầy cô tụng
kinh cũng cầu nguyện, như vậy có tham không? Quý thầy cầu nguyện cho tất
cả chúng sanh đều sớm thức tỉnh, quốc thới dân an, mọi nguời đều được ấm
no hạnh phúc thì không phải tham. Còn Phật tử đến chùa cúng có một dĩa
quả mà xin thôi là xin, thứ nào cũng to hết. Đó chưa phải là chánh.
Người hiểu đạo cầu nguyện thế này, nguyện cho gia đình con sớm thức
tỉnh, mọi người cũng biết thức tỉnh, tất cả đều được bình an, như vậy
đâu có tội tham. Ngược lại nếu chỉ cầu cho mình không thôi đó là tham.
Đã tham thì thuộc về tà chớ không phải chánh.
Chúng ta phải phân biệt tà chánh
rành rõ mới khỏi đọa vào đường dữ. Người biết rõ thiệc ác, tội phước, tà
chánh bảo đảm đời sau không đọa làm súc sanh. Chư Tăng là những vị giúp
cho Phật tử biết rõ những đều này nên chúng ta phải quy y Tăng. Khi bắt
đầu quy y Tam bảo, là chúng ta đã thoát khỏi ba nhân ác địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh rồi. Trên đường tu chắc chắn không đọa lạc vào ba đường ác
chịu nhiều đau khổ. Nhưng làm sao được tới đường lành? Đường lành là
người, a-tu-la và trời.
Muốn được trở lại làm người tốt thì
phải giữ năm giới. Giữ năm giới gọi là tu Nhân thừa Phật giáo. Giới thứ
nhất không sát sanh, tức không giết người thì đời này được bình an, đời
sau sinh ra tuổi thọ lâu dài. Giới thứ hai không trộm cướp thì đời này
không bị tù tội, đời sau sanh ra có nhiều của cải. Giới thứ ba không tà
dâm thì đời này nghiêm trang tề chỉnh, có phẩm chất tốt, đời sau sanh ra
đẹp đẽ trang nghiêm. Giới thứ tư không nói dối thì đời này được mọi
nguời tin tưởng, đời sau sanh ra nói năng lưu loát, ai cũng quý cũng
tin. Giới thứ năm không uống rượu mạnh, uống say, không hút á phiện xì
ke ma túy, thì đời này được tỉnh táo sáng suốt, đời sau sanh ra thông
minh trí tuệ. Chỉ tu năm giới thôi đời này là một con người đứng đắn
trong xã hội, không ai dám khinh rẻ, đời sau sanh ra lại càng tốt đẹp
hơn. Như vậy có phải đời này được an lạc, đời sau càng an lạc hơn không?
Việc tu có lợi ích thiết thực, chớ
không phải chuyện huyễn hoặc mơ hồ. Quý Phật tử kiểm điểm lại, giả sử
trong một xóm có cả trăm gia đình tu theo Phật, giữ tròn năm giới thì
xóm đó có lo sợ gì không? Không lo sợ gì cả, không sợ người ta hại mình,
không sợ người ta trộm cắp của mình , không sợ người ta phá gia can của
mình, không sợ người ta dối gạt mình, không sợ người ta say sưa phá
phách mình, xóm làng đó bình an vô cùng. Sống như vậy là thực hiện cuộc
sống an lạc cho mình và cho mọi người. Đây là hiệu quả thiết thực của
người tu Phật. Tu giúp cho bản thân chúng ta tốt, gia đình được bình an,
mà cả xã hội cũng tốt đẹp nữa. Đạo Phật đem lại bình an cho mọi người,
đem lại sự tốt đẹp cho xã hội, mà rất tiếc Phật tử tu theo đạo Phật lại
không biết mình đang làm gì, kết quả ra sao.
Chúng ta tu đúng theo lời Phật dạy,
khi tuổi thọ sắp mãn có người tới hỏi: "Anh chị theo đạo Phật, tu cư sĩ
tại gia, vậy khi chết đi đâu?" Quý Phật tử sẽ nói "Bảo đảm tôi trở lại
làm người tốt hơn bây giờ". Cho nên bỏ thân này không tiếc, không sợ
chết, yên lòng ra đi vì nắm chắc tương lai sáng sủa hơn, đẹp đẽ hơn. Rõ
ràng việc tu có công hiệu vô cùng. Còn kẻ không biết ngày mai nhắm mắt
mình sẽ ra sao, tương lai mù mịt thì rất sợ chết. Việc này rõ ràng như
thế không nghi ngờ gì cả. Như vậy chúng ta thấy giá trị của sự tu, an
lạc đời này và đời sau. Đó là một lẽ thực vậy.
Kế đến nói về tu để được giải
thoát. Phần này hơi khó một chút. Chúng ta thường tụng kinh Bát Nhã,
trong đó Phật muốn đưa mình từ con người si mê tiến lên con người trí
tuệ sáng suốt để giải thoát sanh tử. Nhưng rất tiếc Phật tử tụng thì
tụng mà hiểu thì không hiểu. Chỉ câu đầu thôi "Quán Tự Tại Bồ tát hành
thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất
thiết khổ ách" nghĩa là sao ? Bồ tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu trí
tuệ Bát-nhã, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, nên vượt qua hết tất cả
khổ nạn. Một câu đó quý Phật tử có thấm chưa, có hành chưa? Có lẽ quý vị
tụng cho Phật nghe nhiều hơn là để thấm để hành.
Một câu này đủ để thấy giá trị siêu
thoát trong đạo Phật rồi. Đây là bài kinh trí tuệ, mà trí tuệ này là trí
tuệ của Phật siêu xuất thế gian, chớ không phải trí tuệ thế gian. Chiếu
kiến là dùng trí tuệ soi xét thân năm uẩn đều không, tất cả mọi khổ ách
sẽ không còn. Hết sức giản đơn, chỉ một câu thôi chúng ta vượt qua tất
cả khổ ách. Nhưng chúng ta đã tụng Bát-nhã cả trăm biến, ngàn biến mà
hết khổ ách chưa? Còn nguyên. Đó là vì chưa hiểu tinh thần Bát-nhã.
Trong Bát-nhã có chia ra ba phần :
Văn tự Bát-nhã, Chiếu kiến hay Quán chiếu Bát-nhã và Thật ướng Bát-nhã.
Văn tự Bát-nhã giống như con thuyền. Ngồi trên thuyền mà không chịu
chèo, không chịu bơi thì chừng nào mới qua sông. Cho nên Văn tự rồi phải
Quán chiếu. Có chèo bơi mới đến nơi, tức học hiểu quán chiếu tu tập rồi
mới qua hết khổ ách, đi tới Thật tướng Bát-nhã là lên bờ. Chúng ta chỉ
tụng đọc mà không soi xét tức chỉ làm việc ban đầu Văn tự Bát-nhã. Nếu
dừng ngang đó, thì chừng nào tới phần thứ hai, thứ ba. Mục đích chánh là
đến bờ, mà ta cứ ngồi trên thuyền hoài, chắc thuyền mục luôn, chớ không
tới bờ bên kia được. Đó là chỗ đa số chúng ta hiện giờ đang mắc kẹt.
Chữ "giai không" này rất nhiều
người hiểu lầm. Cho nên trong nhà Phật có câu: "Thà là chấp có bằng núi
Tu Di, không nên chấp không bằng hạt cải", chấp không là tai họa đáng
sợ. Nghe nói chiếu kiến ngũ uẩn giai không người ta tưởng đó là chấp
không. Thật ra không phải vậy. Điều này tôi sẽ dẫn chứng cụ thể để tất
cả chúng ta thấy rõ ý nghĩa chữ Không của Bát-nhã.
Như tôi
đưa bàn tay lên, co năm ngón lại. Khi co năm ngón lại thì có nắm tay.
Bây giờ chúng ta phải nhận cho ra nắm tay là thật hay không thật. Đang
thấy nắm tay nói không sao được, nhưng nếu nói nó thật thì khi tôi buông
năm ngón tay ra, nắm tay có không? Còn co thì có, buông ra thì không.
Như vậy nói thế nào cho đúng nghĩa của nắm tay. Nói không không được,
nói có cũng không được. Chúng ta không có quyền nói nắm tay thật có vì
đó là sai lầm, cũng không có quyền nói thật không vì mắt đang thấy rõ
ràng.
Ở đây tôi chia ra ba thời. Thời
thứ nhất trước khi tôi co năm ngón lại có nắm tay không?
Không có nắm tay. Thời thứ hai khi
tôi đang co năm ngón lại, nhưng nếu nhìn trên từng ngón phân tích đây
ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa... mỗi ngón riêng biệt thì có nắm tay
không? Không có nắm tay. Đó là đang lúc có mà cũng là không. Thời thứ ba
khi buông năm ngón ra, có nắm tay không? Cũng không có nắm tay. Như vậy
ba thời trước giữa và sau hay quá khứ, hiện tại và vị lai, nắm tay bản
tánh là không. Đợi năm ngón co lại là duyên hợp mới có, đã là duyên hợp
thì phải tan chớ không thể còn hoài được. Phàm những gì có hợp có tan
thì không thể gọi là thật. Nắm tay bản tánh nó là không, đợi duyên hợp
mới có. Duyên hợp mới có nên có là giả có chớ không phải thật. Đây là
một lẽ thật.
Đi xa hơn, tất cả mọi thứ chung
quanh ta đều là duyên hợp tánh không, giả có. Tánh không này không rời
các pháp, như ngay nơi nắm tay, ta biết rõ tánh nó là không. Nắm tay là
sắc tướng mà ta thấy tánh không nên kinh nói "sắc tức thị không". Không
ở đây không phải không ngơ, mà không là tánh không ngơ, mà không là
tánh không. Rồi "không tức thị sắc" là từ tánh không, duyên hợp nên có
sắc. Như vậy từ hình sắc giả tướng thấy được tánh không, từ tánh không
duyên hợp nên có hình sắc. Hiểu như vậy là hiểu được Bát-nhã.
Trở lại thân chúng ta đây là thật
hay giả? Giả. Nếu giả khi bị ai nhéo một cái hoặc mắng một câu có giận
không? Đây là chỗ thiết yếu của sự tu Chúng ta thấy đúng như thật rồi
ứng dụng tu, phải thấy chớ không thể tưởng tượng. Thân này gồm sắc uẩn
tức hình sắc do đất, nước, gió, lửa hợp lại thành. Nếu phân tích sâu hơn
nữa, Phật nói trong thân có vô số vi trùng "nhân thân chi nội hữu vô số
vi trùng tại trung di trú" Vi trùng chia làm hai loại: hộ trùng là loại
trùng bảo vệ thân này và hoại trùng là loại trùng phá hoại thân này. Y
học ngày nay gọi là tế bào. Có những tế bào phá hoại, có những tế bào
bảo vệ mình. Bốn thứ không thể thiếu một, đất hoại cũng chết, nước cạn
cũng chết, gió dưng cũng chết, hơi ấm tan hết cũng chết.
Trong kinh Phật dùng ví dụ, nếu
càng nghĩ ta càng thương xót mình. Phật nói như người đem cái lồng bắt
bốn con rắn độc bỏ vào đó. Chúng cự lộn hoài, ông chủ vừa lo cho nó ăn
vừa can gián cho nó đừng cắn nhau rất cực. Giữ gìn đáo để một thời gian,
cái giỏ lủng mỗi con chạy mỗi góc, ông chủ nhà lẽ ra phải mừng, nhưng
đằng này ông lại buồn, vội vã sắm cái giỏ mới rồi tiếp tục tìm bốn bốn
con rắn khác về nuôi nữa. Cứ như vậy mà nuôi rắn, đời này nuôi rắn, đời
sau nuôi rắn, tiếp tục mãi mãi nuôi rắn cực khổ như vậy. Chúng ta nghĩ
ông chủ đó có đáng thương không? Thật là đáng thương, tội gì làm như
vậy. Đức Phật bảo chúng sanh cũng thế rất đáng thương xót. Đất nước gió
lửa là bốn con rắn độc. Thiếu nước thì cho ly nước, thiếu gió thì kiếm
chỗ nào không khí trong lành hít thở, thiếu đất thì kiếm cơm, thiếu ấm
thì kiếm áo, ít bữa đất lấn nước hoặc nước lấn đất, thế là bệnh tật phát
sanh. Ít bữa gió thổi mạnh quá, đất rung rinh cũng sanh bệnh. Cho nên
khi trúng gió thì phải cạo gió, đuổi ra. Khi nóng thì phải kiếm đồ mát
uống vô. Lúc nào cũng can thiệp, dòm chừng hoài. Cả đời lo nuôi nó, can
thiệp cho nó hòa hợp. Vậy mà khi nó sắp hoại mất thì hoảng sợ tiếc nuối,
tìm đủ mọi cách để giữ nó lại, có đáng thương không ?
Lẽ ra khi thân này sắp mất, ta phải
thức tỉnh thôi đừng nuôi nữa. Nhưng không, bỏ cái giỏ này làm cái giỏ
khác chắc hơn để nuôi những con rắn khác. Đó là vòng luân hồi lẩn quẩn
của chúng ta. Việc làm này giống như việc làm của con dã tràng, cứ se
cát thành cát cụm, một ngọn sóng ùa vô cuốn mất hết, nó lại tiếp tục làm
cái khác. Phật thương chúng sanh là vì vậy.
Bởi thấy thân này thật nên những
nhu cầu nó cần, phải đáp ứng cho nó thỏa mãn. Nó thèm thức ăn ngon phải
chạy tìm thức ăn ngon. Nó thích mặc đẹp phải tìm y phục đẹp. Càng làm nó
lại câng không thỏa mãn. Được một nó đòi hai, được hai nó đòi bốn, cứ
tăng lên hoài không bao giờ biết đủ. Nếu tất cả thế gian ai cũng muốn
thỏa mãn nhu cầu của thân xác thịt này, có đụng chạm quyền lợi nhau
không? Vì mình muốn thỏa mãn nhu cầu đó nên ai cũng muốn gom góp tất cả
về mình. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến đấu tranh, gốc của mọi thứ đau
khổ.
Nếu chúng ta biết nó là giả,
không giành giựt với ai hết, sống vừa đủ thôi. Lỡ mang thân này thì nuôi
cho nó khỏe mạnh, chừng nào hết duyên nó tan rã, không có gì quan trọng.
Nhờ thế ta không tham, không tham thì bớt khổ . Thấy được sắc uẩn không
thật chúng ta sẽ bớt tham, bớt khổ cho bản thân và mọi người chung
quanh. Đó là nói về phần sắc thân.
Kế đến phần tâm. Hiện giờ tất cả
chúng ta khi suy nghĩ một việc gì rất kỹ, mình cho rằng suy nghĩ đó là
đúng, nếu ai phản đối bảo sai ta sẽ thế nào. Nổi giận ngay. Bởi vậy chỗ
này chúng ta phải đi sâu mới thấy giá trị của nó. Suy nghĩ của mình
không có gì bảo đảm đúng cả. Bởi suy nghĩ là tâm hư giả sanh diệt,
không phải là chân lý. Con người suy nghĩ là do kinh nghiệm, sự từng
trải rồi kết luận như vậy là đúng. Nhưng nếu kiểm tra lại, giả sử suy
nghĩ ấy có đúng cũng chỉ đúng trong một giai đoạn, một phạm vi nào thôi.
Qua giai đoạn khác, qua hoàn cảnh khác nó không còn đúng nữa. Nhưng
khi ta đã cho suy nghĩ của mình là đúng rồi, người khác nói sai ta nổi
giận nhiều ít. Chính vì cái đúng sai đó mà trong gia đình, ngoài xã hội
xảy ra không biết bao nhiêu sự buồn khổ. Chồng nghĩ một đàng vợ nghĩ
một ngả thì không bao giờ có hạnh phúc, chỉ có chia ly thôi. Anh em ruột
mà kẻ nghĩ thế này, người nghĩ thế khác, luôn luôn ngược nhau thì không
còn tình thân nữa. Thậm chí cha với con mà suy nghĩ khác cũng dẫn tới
tai họa như thương.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng
thuộc về tâm. Thọ là cảm giác vui buồn, thích hay không thích... Tưởng
là tâm tưởng. Hành là suy tư. Thức là phân biệt. Tuy có bốn nhưng nói
gọn hơn là những suy tư phân biệt của mình. Những suy tư này không phải
là chân lý, nó chỉ đúng ở khía cạnh hoặc trường hợp nào thôi. Vì vậy nó
không thật, không có định. Đức Phật dạy: "Người tôn trọng chân lý là
khi nghĩ điều gì, thì nói đây là cái nghĩ của tôi , đừng thêm chữ đúng.
Không có chữ đúng thì không cãi nhau, bởi vì ai cũng có quyền nghĩ riêng
của mình. Hiểu như vậy là tôn trọng chân lý. Nếu ta nói đúng mà người
không nghe thì mình phản bác lại. Đó là bệnh độc tài.
Sắc uẩn và tâm uẩn, chúng ta
biết hai thứ này không thật là độ tất cả khổ ách rồi. Vì vậy lời Phật là
lời vàng. Chỉ một câu nếu chúng ta khéo tìm hiểu thấu đáo, ứng dụng tư
hành thì sẽ vượt qua hết các khổ nạn. Người học đạo phải có cái nhìn
tường tận, chớ không phải đọc thuộc lòng lời Phật dạy là đủ. Nhìn tường
tận rồi ứng dụng trong cuộc sống mới là tu. Như thấy thân không thật,
tâm suy nghĩ không thật nên hết khổ. Đó là ta đã sống an lành tự tại vì
không giành giựt nhau trên vật chất, không độc tài trên tinh thần.
Đạo Phật đặc biệt ở điểm dạy
chúng ta tu, chớ không bắt chúng ta phải tin theo. Điều này hết sức rõ
ràng. Như khi quý thầy giải thích năm giới rồi hỏi lại Phật tử, giới thứ
nhất suốt đời không được sát sanh, Phật tử giữ được không? Nếu giữ được,
quý vị tự nói "Dạ, con giữ được". Nếu giữ chưa được thì làm thinh, Phật
không bắt buộc chi cả. Vì lợi ích cho chúng ta Phật phương tiện chế ra
các giới luật như vậy, chớ không phải ta giữ giới cho Phật. Hiểu thế mới
thấy giá trị của đạo Phật.
Bởi chúng ta mê chấp thân, mê
chấp tâm lăng xăng vọng tưởng nên quên mất cái chân thật của chính mình.
Khi ruồng dẹp hết hai thứ chấp đó thì cái chân thật hiển lộ ra. Vì nó đã
sẵn trong ta từ xưa đến nay nên nói được không đúng. Cho nên Phật nói
tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Vì chấp lầm thân tâm nên ta không
nhận ra, khi hết chấp thì tánh Phật hiện ra. Bồ tát nương nơi đó mà xa
rời những sợ sệt, những khủng bố, đến được cứu kính Niết bàn. Ba đời chư
Phật cũng nhờ trí tuệ đó mà đến chỗ giác ngộ viên mãn gọi lâ Vô thượng
Chánh đẳng Chánh giác.
Như vậy Phật nhờ trí tuệ Bát nhã,
ban đầu dẹp phá được các thứ chấp, sau mới thành Phật. Bồ tát cũng thế.
Tu một bài kinh Bát Nhã đủ cho chúng ta giải thoát rồi. Các Tổ luôn luôn
thấy nó quan trọng vậy, nên tụng kinh gì không bỏ qua Bát Nhã. Nhưng tội
cho chúng ta tụng mà không thấy được điều này. Tụng cả năm này tháng kia
mà không phá được chút chấp nào hết, vì vậy việc tu không tiến.
Như vậy trí tuệ thế gian với trí
tuệ của Phật khác nhau xa hay gần? Rất xa. Nếu ai cũng học được Phật và
có trí tuệ như vậy thì thế gian này không còn khổ nữa, mọi người thương
nhau không hết, có đâu giành giựt. Vì vậy đạo Phật lâ đạo của từ bi và
trí tuệ, chúng ta trải lòng thương tất cả và an ủi chúng sanh cùng trong
cõi khổ của mình. Ta tự tu tập và giúp cho mọi người cùng tu tập bớt khổ,
tỉnh sáng không còn lầm mê nữa. Đó là mục đích chủ yếu của đạo Phật.
phatphap.wordpress.com &
phatphapnhiemmau.com
***