PHẬT GIÁO LÀ ĐẠO LÝ PHỤC VỤ TOÀN DIỆN
Thích Lệ Thọ
Phật giáo, hai từ rất gần gũi đối với bất cứ ai trên
mảnh đất có hình cong chữ S này từ hai ngàn năm qua cho đến bây giờ và
mãi tận ngàn sau. Bởi vì Phật giáo đã hòa quyện cùng dân tộc như nước
với sữa, nên chuyện của dân tộc là chuyện của Phật giáo: “Mái chùa
che chở hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của tổ tông”.
Cho nên khi dân tộc chuyển sang thời hội nhập để phát triển bền vững
cùng thế giới thì vai trò của Phật giáo cũng nâng lên một tầm cao mới
trong cách hành đạo và truyền đạo để cùng dân tộc bước lên đỉnh cao Công
nghiệp hóa và Hiện đại hóa đất nước.
I. Nhập
thế:
a)
Không thụ động, nhập thế là chủ đích bao đời của đạo lý Phật giáo:
Thông thường, người ta nghĩ đã tu hành là người xuất gia sống một thế
giới riêng biệt, kể cả người theo Phật giáo cũng sống nhàn; tức là cuộc
sống làm ăn càng ngày càng thu hẹp “sống biết đủ”, bởi đã tu rồi
còn gì mà tranh đua với cuộc đời! Đó là quan điểm sai lệch, Phật giáo
không chủ trương sống tiêu cực như thế cho người Phật tử bao giờ.
Thực tế cho thấy, Tăng sĩ từ ngàn xưa đã trở thành
những vị danh tăng: Vạn Hạnh,
Đỗ Thuận,
Khuông Việt…
mà đặc biệt là sư Vạn Hạnh khi thấy Vua Lê Ngọa triều bạo ngược làm cho
trăm họ oán giận, mong một vua mới có đức, có tài lên trị vì. Trong bối
cảnh đó, sư Vạn Hạnh đã làm các bài thơ cho lan truyền
trong
dân gian, như đồng dao:
“Tột Lê trầm Bắc thủy
Lý tử thụ Nam thiên
Tứ phương can qua tĩnh
Bát biểu hạ bình an”.
Dịch nghĩa:
“Gốc Lê chìm bể Bắc
Chồi Lý mọc trời Nam
Bốn phương tan giáo mác
Tám cõi được bình an”.
Đúng như lời bài thơ, năm 1009 Lý Công Uẩn lên ngôi
vua lấy niên hiệu Thuận Thiên. Từ đó mở ra kỷ nguyên mới của nước Đại
Việt.
Điều đó cho thấy rằng, từ ngàn xưa tăng sĩ Việt Nam đã hội nhập theo
từng góc độ và từng thời kỳ. Vào ngày 25/8/1945 đất nước chúng ta lật
sang trang mới chấm dứt chế độ quân chủ chuyển sang xã hội dân chủ.
Ngày nay, con người hiện đại và nhận thức dân tộc ở
tầm cao mới nên tăng sĩ cũng đã thay đổi cách đóng góp như, giảng dạy
không còn nhận thức trừu tượng mà đã có minh họa theo từng chủ đề qua
băng đĩa, hoặc trình chiếu màn hình rộng, hay giảng thuyết không còn độc
thoại mà đã có nhiều giảng sư tham gia một chủ đề. Như mấy năm gần đây
Phật giáo Kiên Giang đã tiên phong trong lĩnh vực này rất thành công.
Cách tụng niệm cũng dần chuyển tải tiếng Hán-Việt ra thuần Việt để đáp
ứng nhu cầu cho quần chúng Phật tử lên một tầm cao mới qua nhận thức và
tu tập.
b) Sự hòa quyện giữa đạo và đời: có thể
nói khó mà phân biệt được đâu là đạo lý Phật giáo và đâu là nhận thức
của xã hội tự nhiên. Vì vậy, ngày nay lại được sự phát huy hơn nữa nên
Đạo không phải chỉ nơi Chùa, Tịnh Thất, Niệm Phật Đường…, còn đời
không phải chỉ ở nơi quan trường, chính sự, doanh thương sản nghiệp, gia
đình, và cuộc sống. Hai thứ ấy đã hòa quyện tạo nên một xã hội
Việt Nam đặc thù, không tìm đâu trên thế giới. Ngoài ra, các tôn giáo
sống với nhau thoải mái, thậm chí trong một đình có đến 4 tôn giáo. Điều
đó cho thấy dân tộc Việt Nam luôn biết chọn lọc cái hay cái đẹp, để
hướng thiện nhằm tạo cho mình một đời sống có sự thăng bằng giữa vật
chất và tinh thần.
Đời và đạo có thể được xem như hai
trạng thái có liên hệ mật thiết với nhau trong một thực thể thống nhất.
Đời có thể hình dung như thế giới vật chất hữu hình sinh động bên ngoài,
còn đạo lại bao hàm cảnh giới tâm tinh thần trầm mặc bên trong nội thể
con người. Cho nên, dù là vật chất hay tinh thần đều không độc lập tách
rời nhau, mà phải nhịp nhàng hỗ tương qua lại.
Vì vậy, trong 25 năm qua
Tăng Ni, Phật tử đã đạt được nhiều thành tựu Phật sự
quan trọng, công tác hoằng dương chánh pháp phát triển rộng khắp, làm
sáng tỏ giáo lý trong cuộc sống nhân gian; công tác từ thiện xã hội được
thực hiện kịp thời, góp phần tích cực cùng toàn dân giải quyết những vấn
đề xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai; quan hệ của Phật giáo trong cộng
đồng thế giới được củng cố và rộng mở. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú
Trọng khẳng định: “Những đóng góp thiết thực của Phật giáo Việt Nam
đã chứng tỏ Phật giáo hoàn toàn là tôn giáo nhập thế, luôn đồng hành
cùng dân tộc, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, đồng thời
cũng cho thấy vai trò quan trọng của đời sống Phật giáo trong đời sống
xã hội ngày nay.”
II. KINH TẾ:
Liên quan đến vấn đề được gọi là kinh tế, đức
Phật đã dạy thực tiễn, khả dĩ góp phần cho một giải pháp toàn diện về
những vấn nạn của con người xưa cũng như nay.
Những định nghĩa đầu tiên về kinh tế - chính trị của
thế gian chỉ đơn giản là sự nghiên cứu về tài sản. Sự tiếp cận mang tính
khoa học đầu tiên về đề tài này đã được bắt đầu bởi Aristotle,
người vẫn còn ảnh hưởng đến ngày nay với sự hiện hữu của trường phái
Austrian. Adam Smith, tác giả của quyển sách có ảnh hưởng lớn
The Wealth of Nations và được một số người xem là “cha đẻ của
kinh tế hiện đại”. Nhìn chung, những định nghĩa về kinh tế là làm sao
lưu thông cho được hàng hoá giữa cung và cầu. Họ không đả động gì đến
những hậu quả đạo đức của những hoạt động kinh tế hay giai đoạn sau khi
đáp nhu cầu. Chẳng hạn, nhà sản xuất hoặc buôn bán rượu chỉ nghĩ
là làm sao bán cho được càng nhiều rượu càng tốt và họ không cần biết
đến hậu quả của sự tiêu thụ rượu đó có thể là tai nạn giao thông, bạo
hành gia đình...
Đạo Phật với pháp môn thiền định cùng những kỹ thuật
quán chiếu nội tâm ngày càng được biết nhiều ở phương Tây. Nhưng đồng
thời, một hình ảnh về đạo Phật luôn gắn bó với khổ hạnh hoặc xuất ly thế
gian để nhập vào một cảnh giới tịch mịch, ẩn dật và riêng tư vẫn còn khá
phổ biến trong suy tư của nhiều người. Tuy nhiên, những lời Phật dạy có
liên hệ đến nhiều lĩnh vực của đời sống và chỉ cho ta cách hành xử thế
nào để được hoà hợp và an vui trong một thế giới đầy bất ổn.
Mục đích của đạo Phật là nhằm đem lại lợi ích, làm
giảm khổ đau và mang lại sự bình an nội tâm cho con người.
Tuy nhiên, chỉ tụng đọc kinh điển thôi thì không đủ. Và, phải
ngang qua hành thiền, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp người ta mới thật sự đạt được sự hoà hợp giữa nội tâm và ngoại
cảnh.
Đức Phật tuyên bố rằng, thế giới là thiếu thốn,
khao khát và nô lệ cho tham ái (taṇhā).
Và chính nó là nguyên nhân cho mọi bất an của xã hội trên nhiều lĩnh vực
bao gồm cả kinh tế.
Về kinh tế ngày nay, đất nước đã đạt được những thành
tựu cho nhu cầu mình. Tuy nhiên, những thành tựu đó như con dao hai
lưỡi, có thể giúp ích và cũng có thể làm hại con người.
Đức Phật rất quan tâm đến môi trường sống, ngài dạy
các vị tăng là chớ làm hại các hột giống và các loại cây cỏ, không nhận
các hạt sống, không nhận thịt sống.
Đức Phật thừa nhận rằng thật khó để có một đời sống
ổn định trong một hoàn cảnh nghèo khó. “Đối với những gia chủ trên thế
gian này, nghèo là khổ đau.”
“Khổ đau trên cuộc đời này là nghèo và nợ nần.”
Nghèo khó, giống như lòng tham, góp phần vào tội phạm và bất ổn
xã hội.
Do đó, ở góc độ nhà nước cần phải thấy được nhu cầu của những người
nghèo khó và phải xua đuổi nghèo khó ra khỏi đất nước.
Và
ngài đã có những lời dạy thực tế: “Có bốn điều kiện này đưa đến hạnh
phúc và lợi ích trong hiện tại. Đó là nỗ lực, thận trọng, bạn tốt và nếp
sống cân bằng”:
1/
Nỗ lực: Nghề nông, buôn bán, chăn nuôi, binh nghiệp
hay nghệ thuật, vị ấy nỗ lực, tự thích ứng và thiện xảo. Vị ấy không
lười biếng trong công việc mà trái lại, lanh lẹ và có ý thức. Vị ấy biết
cách quản lý công việc, có khả năng và có tinh thần trách nhiệm: đây
được gọi là thể nhập sự nỗ lực.
2/
Thận trọng: Đề phòng tài sản này khỏi bị nhà vua
tịch thu, khỏi bị kẻ trộm cướp, khỏi bị lửa đốt, khỏi bị lũ lụt cuốn
trôi hay bị chiếm đoạt bởi những người thân không xứng đáng? Đây được
gọi là thể nhập sự thận trọng.
3/
Bạn tốt: Những người có niềm tin, đạo đức, lòng bố thí, và
trí tuệ. Vị ấy học và thi đua những ai có bố thí; những ai có trí tuệ,
đạo đức và niềm tin… Đó là bạn tốt.
4/
Nếp sống cân bằng: Những ai tự nuôi sống một cách điều độ,
không phung phí cũng không keo kiệt. Vị ấy biết những nguyên nhân đưa
đến sự gia tăng hay tổn giảm tài sản; vị ấy biết công việc kinh doanh
nào sẽ mang lại lợi tức nhiều hơn sự tiêu dùng khác hơn là sự tiêu dùng
vượt quá lợi tức.
Nếu vị ấy có lợi tức lớn nhưng keo kiệt thì có thể vị
ấy sẽ chết như một kẻ nghèo túng. Nhưng vị ấy tự nuôi sống một cách tiết
độ nên vị ấy được gọi là có nếp sống cân bằng.
Đồng thời ngược lại, có bốn con đường dẫn đến suy
giảm. Đó là tiêu dùng vào đường trụy lạc, say xỉn, cờ bạc và giao du bạn
ác. Ví như một hồ nước lớn với bốn ống dẫn vào và bốn ống dẫn ra được mở
van, và trời không mưa, hồ nước lớn ấy chỉ suy giảm, không tăng…
Rồi, đức Phật tiếp cho người triệu phú Anāthapiṇḍika
năm lý do này để gầy dựng tài sản:
1/ Được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, kiếm được tiền
do đổ mồ hôi ra, tự làm mình an lạc, hoan hỷ và chơn chánh duy trì sự an
lạc. Làm cho vợ con, người phục vụ, các người làm công được an lạc, hoan
hỷ và chơn chánh duy trì sự an lạc. Đây là lý do thứ nhất để gầy dựng
tài sản.
2/ Làm cho bạn bè thân hữu an lạc, hoan hỷ và chơn
chánh duy trì sự an lạc. Đây là lý do thứ hai để gầy dựng tài sản.
3/ Khéo điều hòa vật chất với cuộc sống vị đó tránh
được các tai hoạ từ lửa, từ nước, từ vua, từ ăn trộm, từ kẻ thù hay từ
các người thừa tự không xứng đáng được chận đứng, và nó giữ tài sản được
an toàn.
4/ Hiến cúng cho bà con, khách, tổ tiên, vua, chư
Thiên.
5/ ly kiêu mạn, ly phóng dật, an trú nhẫn nhục nhu
hoà, nhiếp phục tự mình, an tịnh tự mình, làm lắng dịu tự mình, đối với
những Sa môn, Bà la môn như vậy, vị ấy tổ chức sự cúng dường tối thượng,
đưa đến cảnh giới chư thiên, được quả dị thục, đưa đến cõi trời.7
đức Phật cũng nhấn mạnh đến việc mở rộng công việc
kinh doanh, “Tài sản cần chia làm bốn phần:
1/ Một phần để ăn uống và làm các bổn phận,
2/ Hai phần để đầu tư mở rộng doanh nghiệp,
3/ Phần ba để dành lúc khó khăn.
4/
Phần còn lại bố thí cúng dường.8
Từ đây ta có thể nhìn thấy bài pháp của Ngài rất phù
hợp với nền kinh tế Việt Nam hiện đang phát triển. Nhưng chúng ta
nên nhớ và vận dụng những lời dạy của đức Phật, những vấn đề kinh tế cần
được gắn liền với đạo đức và an sinh xã hội. Hạnh phúc chân thật của con
người phải là mục đích và kinh tế chỉ là phương tiện. Nói một
cách khác, kinh tế phải có tính nhân bản. Với sự đóng góp của đạo Phật –
sự giác tĩnh, kinh sách và người giác tĩnh – thì sự phát triển kinh tế
mới toàn diện và con người mới thật sự hạnh phúc.
III. CHÁNH TRỊ:
Thế kỹ thứ XXI như một thế kỷ của tôn giáo, nghĩa là
các tôn giáo có tổ chức sẽ vừa năng động hơn trong nỗ lực biến nội dung
Phật học thành định hướng học thuật chủ đạo quốc gia, vừa chủ động hơn
trong việc cụ thể đi vào tiến trình phát triễn xã hội.
5 năm qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đồng hành cùng nhân
dân cả nước tiếp tục sự nghiệp đổi mới, từng bước phát triển trên các
lĩnh vực, nhất là kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và ngoại giao, mở
ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên xây dựng dân giàu, nước mạnh, hòa bình,
hợp tác và hữu nghị với các nước trên thế giới.
Hiện nay, những công tác trọng tâm của Giáo hội,
công tác từ thiện xã hội mang tính tích cực và trong sáng, đậm nét từ bi
cứu khổ của đạo Phật được tăng ni, phật tử cả nước tích cực tham gia và
đạt hiệu quả cao. Trong cả nước, các tăng ni, phật tử đã xây dựng hơn
126 Tuệ Tĩnh đường và phòng phát thuốc từ thiện, hơn 1.000 lớp học tình
thương, gần 40 cơ sở nuôi dạy trẻ mồ côi, khuyết tật… với hơn 20.000 em
được nuôi dưỡng. Giáo hội Phật giáo đã vận động, quyên góp được trên 400
tỷ đồng vào các hoạt động từ thiện xã hội.
Trong Chương trình hoạt động Phật sự nhiệm kỳ VI
(2007-2012), GHPGVN chỉ rõ sẽ tiếp tục xây dựng, phát triển Giáo hội
trên nguyên tắc phát huy tinh thần đoàn kết, hòa hợp vì đạo pháp, dân
tộc và xã hội chủ nghĩa; Hoằng dương chính pháp, truyền bá đạo đức Phật
giáo, góp phần xây dựng xã hội an vui, hạnh phúc, phù hợp với đạo đức,
văn hóa, truyền thống dân tộc; mở rộng và đẩy mạnh việc nghiên cứu Phật
học và học thuật Phật giáo đồng thời tiếp tục phát huy tinh thần của
Phật giáo Việt Nam đối với Phật giáo các nước trên thế giới, nhằm góp
phần xây dựng hòa bình, ổn định nếp sống thân thiện ở mọi nơi.
Khi hiện tượng giao thoa thuận chiều, nghĩa là nhà
nước và tôn giáo cùng mục tiêu, cùng đối tượng, và cùng quyền lợi thì
dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh, công dân có văn hóa một cách bền
vững. Khi hiện tượng đó ngược chiều thì nó sẽ trở thành một đại họa cho
quốc gia.
Triều đại nhà Trần của nước ta đã thể hiện một cách
nhuần nhuyễn nội dung của giáo lý đạo Phật trên cả hai mặt nội trị
và ngoại giao, làm cho nước ta trở nên hùng mạnh mà vẫn hiếu hòa, dân
nước ta nhu thuần mà vẫn phú cường trong gần 3 thế kỳ . Những vị
vua Phật tử khai sáng như Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông đã xây dựng
một cơ sở tinh thần để từ đó và trên đó, vận dụng tinh thần dung hợp và
khai phóng của Phật giáo, đoàn kết và thống nhất toàn bộ nổ lực tri thức
và nguồn lực vật chất xã hội để vừa có thể đánh bại các đạo quân xâm
lược hung bạo phương Bắc, vừa mở mang bờ cõi về phương Nam, lại đặc biệt
vừa tiếp thu một cách có đãi lọc và sáng tạo các nền văn hóa ngoại nhập
hầu súc tích hóa và hiện đại hóa nền văn hóa bản địa đương thời của nước
ta. Những chính sách quân phân điền thổ, lương bổng và thuế khóa, cải
tạo tù binh và hàng binh, giáo dục và thi cử để tuyển chọn nhân tài, ...
đều bắt nguồn từ tính bình đẳng, hạnh bồ tát, và lý duyên khởi của giáo
lý nhà Phật.
Phật giáo lấy chủ đạo là nhân bản, nên các trường
phái và học thuyết điều xoay quanh đối tượng con người là chính. Nên
chúng ta có thể nói giáo pháp của đức Phật là “hiện sinh” nó đúng
mọi mọi hoàn cảnh. Vì vậy, Albert Einstain-một triết gia vĩ đại người
Đức nhận định một cách hùng hồn tiên đoán như sau:
“Tôn giáo của tương sẽ là
một tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi thần linh, giáo điều và thần học.
Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn thiên nhiên, đặt
trên căn bản của ý thức đạo lý phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi
phương diện trong cái nhất thể đầy ý nghĩa. Chỉ có đạo Phật đáp ứng đủ
các điều kiện ấy.”
Mặc dù, ông sống ở thế kỷ 20, nhưng thông qua sự
nghiên cứu kinh điển Phật giáo và sự hiểu biết về lĩnh vực Triết học,
khoa học mà ông đã cống hiến cho nhân loại học thuyết Tương đối, một sự
khám phá đầy ấn tượng, giúp cho con người nhận ra một chân trời mới về
nhận thức!
Điều đó cho chúng ta thấy, sự phát triển của xã hội ngày nay
không thể tách rời Phật giáo. Mà xã hội nên lấy tiêu chuẩn đạo đức Phật
giáo để làm phương châm cho sự phất triển bền vững. Nhìn lại những sự
cố gần đây cho thấy: các công trường xây dựng liên tục xảy ra tai nạn
lao động chết người do vô trách nhiệm. Công trình xây dựng thì lún sụt
và chỉ có đặc biệt ngành giao thông ở ta mới có mấy tấm biển “đang
theo dõi lún” tại sao những công trình vốn nước ngoài xây dựng cầu
và các tuyến đường không để bảng chờ lún? Phải chăng hệ quả rút ruột
công trình? Vệ sinh thực phẩm, người kinh doanh chỉ nghĩ đến làm giàu mà
bất chấp mạng sống người tiêu dùng. môi trường cũng đang bị suy thối
nghiêm trọng, có đến 89% mẫu nước không đạt.
Thậm chí Hồ Linh Quang, nằm giữa Tp Hà Nội đã nhiễm vi khuẩn tả do ô
nhiễm nghiêm trọng.
Rau xanh dư chất độc tố… đó là kết quả của bao nhiêu mầm bệnh và sự
thất thoát đang chờ đón người dân. Sự việc cứ liên tục xãy ra hết nơi
này đến nơi khác làm nhức nhói chính phủ…Phải chăng, đó chính là do
thiếu ý thức sống cộng đồng, thiếu đạo đức và tầm nhìn trong quản lý cấp
cơ sở.
Ngay cả ngành y xưa nay được tôn trọng và người ta đã
dùng năm chữ vàng để ca ngợi “lương y như từ mẫu”, thế mà vẫn có
những Bác sĩ, y tá, đã làm thương tổn do vô cảm, và thiếu phẩm chất đạo
đức để xãy ra mất mát bao sinh mạng vì tắt trách…
Có thể nói hiện nay, mọi ngành nghề đều luôn được
báo động về chất lượng nguyên nhân chính vẫn là cái TÂM, thiếu
đạo lý sống từ cái gốc, dĩ nhiên phần ngọn sẽ bị sâu thối!
IV. XÃ HỘI:
Theo lời Phật dạy, một xã hội lý tưởng không nhất
thiết có nghĩa là mọi thành viên đều sống cùng một phương tiện, nỗ lực
cho cùng những mục đích và đối tượng, và đạt đến cùng một mục tiêu.
Trong đạo Phật, xã hội lý tưởng là một xã hội trong đó sự bình đẳng, dân
chủ và những quyền con người được tôn trọng, tiến bộ đạo đức và tâm linh
được khuyến khích và người dân quan tâm đến đời sống đạo đức.
Đó là một xã hội giúp đỡ cho người thiếu thốn, làm
mạnh mẽ những kẻ yếu đuối, đem hoà hợp lại cho những người không hoà
hợp, mang hạnh phúc và ánh sáng lại cho những kẻ đau khổ và tăm tối.
Những điều Đức Phật dạy là nhắm vào sự lợi lạc thiết
thực cho hết thảy mọi chúng sinh. Mối quan tâm chính của Ngài là xoá bỏ
bệnh tật vì đau khổ của con người, mang lại từ bi cho mình và cho người.
Ngài dạy cho mọi người sự tịnh hoá tư tưởng lời nói và hành động của họ,
dạy họ cách diệt trừ đau khổ và buồn phiền, cách vượt qua sầu muộn, cách
đạt đến con đường đạo và chứng ngộ niết-bàn. Do vậy Ngài được mô tả là
một người xuất hiện trên thế gian vì phúc lợi, an lạc và hạnh phúc cho
nhiều người, vì lòng từ bi đối với thế gian, vì điều tốt đẹp và lợi ích
cho cả chư thiên và loài người.
Sau đây là những đặc điểm quan trọng của một xã hội
lý tưởng đã được khắc hoạ trong những lời Phật dạy:
Một Xã Hội Lý Tưởng.
Toàn bộ giáo lý Đức Phật có thể được tóm tắt hay nhất trong ba điều đạo
đức sau đây: “tránh làm điều ác, tu tập điều lành và tịnh hoá tâm mình;
đây là lời Phật dạy.” Ngài khuyến khích mọi thành viên trong xã hội tuân
giữ năm điều đạo đức hay mười con đường thiện nghiệp
(dasakusalakammapatha), và sống một đời phù hợp với tám đạo thánh để xây
dựng một xã hội có căn bản đạo đức. Mỗi công dân của xã hội này được
khuyên nên nghĩ và làm những điều gì tốt cho mình và cho người, đưa đến
phúc lợi, an lạc và hạnh phúc cho toàn xã hội và loài người.
Một Xã Hội Hợp Lý.
Lời dạy của đức Phật được xem là siêu việt thời gian, kêu gọi con người
đến để thấy và kiểm chứng, đưa con người đi lên, và được chính người trí
chấp nhận. Điều Đức Phật dạy cho đệ tử của Ngài ngày nay được biết đến
trong tam tạng kinh điển, là những điều hợp lý và gắn liền với thực tế.
Nó mang đến lợi lạc, tốt đẹp, nhân từ, lợi ích và có liên quan đến những
vấn đề của con người. Ngài khích lệ chúng ta tu tập ý chí tự do, sống
một đời hợp lý, để nhìn mọi sự vật hiện tượng đúng như chúng là. Giá trị
con người, ý chí, nỗ lực, tiềm năng, trách nhiệm và phẩm giá con người
nằm ngay trong chính họ. Ngài khuyên con người nên đến với giáo lý của
Ngài chỉ sau khi đã xem xét kỹ lưỡng tính chất và giá trị của nó, và
thấy nó đem đến an lạc và hạnh phúc.
Một Xã Hội Có Văn Hoá.
Chắc chắn giáo lý Đức Phật nhằm mang lại sự phát triển hay làm tăng tiến
nhân cách con người. Đức Phật đưa ra sự giáo huấn về thân và tâm, làm
lợi lạc cho cá nhân con người cũng như cho toàn xã hội trong đó con
người sinh sống. Qua cách giáo huấn về thân, tức chế phục các giác quan,
trong khi giáo huấn về tâm, tức là tu tập tâm và những điều thuộc về tâm
(tâm sở), đạt tới trạng thái điềm tĩnh, mà mọi cảm xúc quấy nhiễu, vui
hay buồn, và những chấp thủ vào cảm xúc đều được hoàn toàn loại bỏ.
Một Xã Hội Công Bằng.
Sự công bằng và phúc lợi xã hội là hai nét chính của xã hội lý tưởng
Phật giáo. Đó là một xã hội trong đó mọi hoạt động gồm nông nghiệp và
công nghiệp sẽ công bằng nhờ vào những phương thức chính đáng. Tất cả
các nhóm người trong xã hội như là cha mẹ và con cái, vợ và chồng, thầy
và trò, chủ và tớ, bạn bè, đồng nghiệp, người cư sĩ và người lãnh đạo
tôn giáo, đều thực hiện tốt những bổn phận và trách nhiệm của bản thân.
Ngay cả vì vua hay nhà lãnh đạo đất nước cũng tự mình trau dồi trong
mười bổn phận của vua quan, để mang đến phúc lợi, hạnh phúc và hoà bình
cho thần dân và vương quốc của mình. Trong khuôn khổ một xã hội công
bằng này, mọi người đều có một cuộc sống chính đáng một cách chân thành,
lương thiện và tránh mọi phương tiện sinh sống bất chánh . Mọi người
kiếm sống hay làm giàu bằng năng lực, sự cố gắng và sức mạnh của chính
mình theo con đường hợp pháp và chân chánh. Đức Phật dạy rằng: “ sự chân
chánh là điều tốt nhất cho mọi người trong kiếp này và kiếp sau.”
Một Xã Hội Bình Đẳng.
Đức Phật chủ trương một xã hội bình đẳng, trong đó tất cả mọi người đều
bình đẳng về đạo đức, tâm linh và xã hội. Ngài dạy giáo thuyết bình đẳng
giữa người với người. Ngài thiết lập một cơ chế dân chủ trong tăng đoàn.
Ngài loại trừ sự phân chia giai cấp và đánh giá con người không theo
giai cấp họ sinh ra hay địa vị xã hội, dòng giống, màu da hay giới tính,
mà đánh giá con người theo cách cư xử đạo đức của họ. Tăng đoàn của Ngài
là tổ chức hoà hợp đầu tiên trong lịch sử loài người, chấp nhận tất cả
thành viên thuộc bốn giai cấp mà không có sự kỳ thị nào.
Một xã hội nhân bản.
Theo đạo Phật, con người là một phối hợp của các thành phần tâm lý và
vật lý và không phải là một sản phẩm của cái gọi là “người tạo ra vũ
trụ.” Con người là tạo chủ duy nhất và tác giả của chính đời mình và thế
giới, chịu sự chi phối của luật nhân quả nghiêp báo. Đức Phật thiết lập
nên xã hội, ở đó sự đau khổ của con người được giảm thiểu hay chấm dứt.
Lời dạy của Ngài liên quan đến lòng từ, bi , bố thí và công bằng giữa
loài người.
Một xã hội vị tha.
Cấu trúc lý tưởng của đạo Phật được đặt căn bản trên việc coi trọng đạo
đức, ở đó mọi tư tưởng động cơ và hành động ích kỷ vì mình đều được xoá
bỏ. Xã hội mà đức Phật muốn đưa ra là xã hội “vì sự lợi lạc cho nhiều
người và hạnh phúc cho nhiều người” phù hợp với nguyên tắc chánh pháp
của đạo Phật. Đạo Phật nhắm vào việc xây dựng một xã hội không có quyền
lợi riêng tư. Xã hội lý tưởng của đạo Phật là một xã hội không có sự
xung đột quyền lợi riêng tư và quyền lợi cộng đồng. Ở đây quyền lợi cộng
đồng nên được đặt trước quyền lợi riêng tư cá nhân. Nên lưu ý sự hy sinh
quyền lợi riêng tư không giống với sự huỷ bỏ quyền tự trị của con người.
Xã Hội Hoà Hợp.
Đối với một xã hội hoà hợp và thịnh vượng, đức Phật đặt ra bảy nền tảng
cho cộng đồng cư sĩ, và bảy nền tảng cho tăng đoàn. Ngài dạy rằng, con
người nên sống với đồng loại của mình trong cung cách hoà hợp, bằng cách
tránh sự dèm pha người khác khi đề cao mình. Mặt khác, Ngài khuyên nên
kính trọng, tôn vinh và hỗ trợ những người sống phù hợp chánh pháp. Ở
đây trong bất kỳ đoàn thể nào mọi thành viên nên sống trong hoà hợp, nhã
nhặn, không tranh cải, giống như sữa hoà với nước, nhìn nhau với cặp mắt
thân ái.
Một Xã Hội Quân Bình.
Xã hội được đức Phật đề cao là xã hội tránh được hai lối sống cực đoan.
Một cực đoan là tự hành xác thường được các người tu ẩn dật thực hành,
họ tin lầm rằng sự chịu đựng đau đớn căng thẳng của thân thể sẽ dẫn đến
giải thoát, trong khi cực đoan kia là sự phóng dật quá độ trong dục lạc
thường thấy ở người phàm. Họ không nhìn thấy những hình thức hạnh phúc
cao cả hơn, như hạnh phúc của những cấp thiền định. Mọi thành viên trong
xã hội nên sống cuộc đời trung đạo, gồm tám yếu tố để mang lại an lạc,
hạnh phúc và sự giải thoát thực sự cho mình và cho người khác. Trong một
xã hội lý tưởng như thế, con người được khuyên nên sống một đời có sức
khoẻ tốt, có được một khả năng tiêu hoá tốt những điều đã học và với một
đường lối trung đạo thích hợp cho sự nỗ lực, và tất cả những hình thái
kiểm thúc thân tâm, đặc biệt trong việc ăn uống, trong khi đó những hình
thái thuộc chủ nghĩa cực đoan đều bị bác bỏ.
Với tư cách là một nhà cải cách xã hội trong ý nghĩa
đạo đức, đức Phật loại bỏ hệ thống xã hội dựa trên giai cấp của
bà-la-môn, một hình thái xã hội bốc lột kinh tế đối với quần chúng của
những nhà làm tôn giáo và những nhóm chính trị. Tách rời địa vị xã hội
của con người khỏi nguồn gốc sanh ra, đức Phật kết hợp nó với nghiệp
báo đạo đức có chủ tâm của con người. Theo lý thuyết này, chính sự phát
triển đạo đức và tâm linh của con người làm cho họ trở nên đạo đức và
xứng đáng; và chính cái động cơ xấu xa và những việc làm ác độc của con
người làm cho họ trở thành một kẻ cùng đinh chứ không phải do nguồn gốc
sanh ra, bối cảnh gia đình hay địa vị xã hội.
Mô hình xã hội lý tưởng của đạo Phật dựa trên sự bình
đẳng, chân chánh và đạo đức. Những khó khăn và những tội ác trong xã hội
được coi như là sinh ra từ sự tham ái và những điều kiện không tốt đẹp
của đời sống.
Do đó, để xây dựng một xã hội Việt Nam với khẩu hiệu
“công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước”-Tức là vững mạnh về kinh
tế, chính trị, quốc phòng, văn hóa, giáo dục… trước tiên theo
đức Phật phải giáo dục con người trước nhất. Bởi chính con người bao gồm
nhiều yếu tố: vật lý, tâm lý, sinh lý, cho đến ý chí tình cảm và trí
tuệ. Nên cần phải hội đủ sáu mối tương quan để xây dựng một xã hội tốt
đẹp.
1/ Đó là mối tương quan giữa cha mẹ
2/ con cái
3/ Thầy và trò
4/ vợ và chồng;
5/ cá nhân và bà con láng giềng, bạn bè, chủ và
thợ.
6/ tu sĩ và cư sĩ.
Điều này cho chúng ta thấy, đức Phật đã tìm ra con số
chung, dù ở Ấn Độ, Việt Nam hay bất cứ quốc gia nào trên thế giới này,
hể ở đâu có con người, thì ở đó phải có những mối quan hệ mật thiết qua
sáu yếu tố liên hệ trong một xã hội, nên cần phải xây dựng những hạt
nhận đó lại trước tiên, nếu không quan tâm đúng mức thì xã hội phát sinh
tiêu cực.
Chúng ta gặp gỡ lời dạy của Ngài qua một bài kinh
khác: “sở dĩ có người trộm cắp, hung ác, cướp bóc là do họ nghèo
đói… Muốn chấm dứt nạn đó thì phải cải thiện đời sống cho họ, cấp hạt
giống cho người dân, đầu tư cho các thương gia và phải trả công thích
đáng cho người làm thợ. Ngoài ra, còn phải nên thay đổi chi phí cúng tế
thần linh để cứu trợ cho người dân nghèo…”
Như vậy chúng ta thấy cách giải quyết vấn đề của Phật giáo trực quan
sinh động, chuyển hóa bản thân và xã hội, trên cơ sở tự lực của mỗi
người.
Từ đó suy ra, những hiện tượng của xã hội Việt Nam
ngày nói riêng và cả thế giới nói chung, không thể dựa trên quyền lực,
hoặc chính sách thiếu thực tế và luật pháp chưa đi vào đời sống thì xã
hội sẽ đi từ biến động này sang biến động khác. Giống như giải pháp kẹt
xe hiện nay của ngành giao thông, dời điểm kẹt này sang điểm khác chứ
chưa có giải pháp triệt để. Vì vậy, một chính phủ có giỏi đến đâu đi nữa
cũng không thể nào bù đắp nỗi cả một xã hội đang tiêu xài, vắt kiệt tài
nguyên thiên nhiên, đẩy đất nước khó kiềm chế căn bệnh lạm phát hiện nay.
Dĩ nhiên ngoài những vấn đề xã hội còn có nhiều mặt khách
quan của những yếu kém nền
kinh tế và trong cơ cấu kinh tế của nước ta bộc lộ sâu sắc hơn trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tạo ra những thách thức gay gắt cho
việc quản lý và điều hành phát triển kinh tế. Nên và qua
Chính phủ đã kêu gọi toàn xã hội: “Cơ quan nhà nước cắt giảm 10%
chi tiêu hành chính, doanh nghiệp phải rà soát các khoản chi nhằm hạ giá
thành và phí lưu thông. Mọi gia đình, cá nhân triệt để tiết kiệm tiêu
dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng.”.
Trong khi đó lại có ít bàn tay xây dựng bởi những người có tâm có tầm.
Nếu không sớm đánh giá lại giáo dục, kiên quyết lập lại trật tự xã hội
bằng nền tảng đạo đức dân tộc và đạo lý Phật giáo thì xã hội vẫn bất ổn.
Công cuộc kiềm chế lạm phát lại càng khó khăn hơn, và biện pháp phòng
chống tham nhũng lại là chuyện khó khả thi.
Riêng Phật giáo có thể nói là chịu một phần trách
nhiệm, do không cố vấn cho các ban ngành xã hội hữu hiệu. các cấp cơ
sở giáo hội chưa thay đổi đủ nhanh trong cách truyền bá giáo lý, vẫn cứ
thuyết giảng độc thoại, vẫn cứ mỗi năm vài lễ hội truyền thống, và những
khóa tu Bát Quan Trai, niệm Phật… chưa đánh giá đúng mức tầm phát triển
chung cuả xã hội hiện nay. Trong khi xã hội đã thay da đổi
thịt quá nhanh, thế hệ trẻ đang bị sự đồng hóa của toàn cầu, bị những
cơn bão giải trí bắn giết, bị những cuộc đổ bộ của các chất gây nghiện
và hệ thống vũ trường hoàn toàn văn hóa ngoại lai, nếu
không có sự chăm lo của toàn xã hội thì…những thứ đó đang và sẽ
gặm nhấm thế hệ chủ nhân của đất nước này trong tương lai. Một khoảng
trống quá lớn đang cần rất nhiều bàn tay vá lại. Rất cần những buổi lễ
kỳ siêu của Hòa Thượng Nhất Hạnh, Đại lễ Phật Đản liên hiệp quốc, những
bộ phim Lý Công Uẩn hay kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, những loại hình
văn hóa:Chèo, Khoan họ vọng cổ của từng địa phương… Hãy đẫy mạnh hơn nữa
những mô hình xã hội, du lịch tâm linh, lễ hội về nguồn như thế thì giá
trị của 2 khẩu hiệu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; và mái chùa
che chỡ hồn dân tộc hòa quyện như thế mới thật sự là chúng ta hội nhập
cùng thế giới. Có như thế chúng ta mới hộ trợ chính phủ làm tốt vai trò
Chủ Tịch Hội đồng bảo an liên hiệp quốc.
Chứ nội lực chúng ta hiện nay sau một năm hòa nhập WTO quả chưa đủ để
chơi một sân lớn, đã bị hòa tan cùng thế giới lạm phát. Nếu không sớm
thoát ra khỏi vòng xoáy hiện này của những cường quốc thì khó có thể đưa
đất nước đi lên. Chứ đừng nói là phát triển bền vững. Nhân mùa An cư
Kiết hạ, xin hướng về đãnh lễ đức Thế Tôn, và đoàn thể tăng già hòa hợp,
để mùa Hạ tình thương và trí tuệ vang mãi trong mỗi người con Phật chúng
ta nói riêng và dân tộc nói chung để nhìn lại chính mình đang ở đâu trên
bản đồ Thế giới? đồng thời chúng ta nên nhớ và vận dụng những lời dạy
của đức Phật, một đạo lý phục vụ toàn diện mà nhất là nền kinh tế hiện
nay cần được gắn liền với đạo đức và an sinh xã hội. Hạnh phúc
chân thật của con người phải là mục đích còn nền kinh tế chỉ là phương
tiện. Nói một cách khác, Xã hội, Kinh tế, Chính trị, Văn hóa…
phải có tính nhân bản thì mọi góc độ của đất nước mới toàn diện và con
người mới thật sự hưởng niềm vui-phát triển bền vững!
-
Sài gòn ngày, 10.07.2008
-
Kinh Thiện Sanh- Kinh Trường Bộ số 16.
18 Kinh Du Hành số
2- Trường A Hàm I.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Trong phiên họp thường kỳ cuối tháng
3 năm 2008
20 Ngày 1-7-2008,
Việt
Nam khởi sự nhiệm kỳ
Chủ
tịch luân phiên
Hội
Đồng
Bảo
An
Liên
Hiệp
Quốc
***