PHƯƠNG PHÁP THIỀN TẬP
Thích Thông Huệ
LỜI NÓI ĐẦU
Trong quyển Căn Bản
Thiền Tập, chúng tôi đã trình bày những nguyên tắc chủ yếu trong công
phu tu thiền. Một số thiền sinh yêu cầu chúng tôi cụ thể hóa phương pháp
tu hành trong mọi tình huống của đời sống, lúc tĩnh cũng như khi động.
Nhận thấy yêu cầu này rất chính đáng, lại cần thiết cho những người sơ
cơ, nên chúng tôi soạn tiếp quyển này; mục đích là trình bày những
phương thức hành thiền một cách ngắn gọn, sao cho mọi người đều có thể
áp dụng công phu.
Vì đời sống thiền phải
được biểu hiện mọi nơi mọi lúc, nên Thiền giả phải miên mật hành trì,
không giới hạn thời gian và không gian. Riêng đối với người mới vào đạo,
do nghiệp thức lôi dẫn, vọng niệm lẫy lừng, cần chú trọng tọa thiền, vì
đây là tư thế dễ định tâm hơn cả. Ở đây, chúng tôi chủ ý soạn riêng phần
tọa thiền theo nghi thức chung trong các Thiền viện thuộc Thiền phái
Trúc Lâm. Chúng tôi cũng trình bày những phương cách thực hiện chánh
niệm trong một số trường hợp cụ thể, từ đó chúng ta có thể suy ra để áp
dụng vào các tình huống tương tự. Kết hợp với quyển Căn Bản Thiền Tập,
hy vọng quyển Phương Pháp Thiền Tập này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ đường
lối, cách thực hành, để công phu của chúng ta ngày càng đạt nhiều kết
quả.
Nguyện cho chúng ta cùng
tất cả chúng sanh vững tiến trên đường tu và sớm thành tựu đạo nghiệp.
-
- Nha Trang - Khánh Hòa
- Đầu Xuân Tân Tỵ - 2001
- PL. 2545
- THÍCH THÔNG HUỆ
PHẦN I -
CHÁNH NIỆM TRONG MỌI LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG
I.- Ý NGHĨA CỦA CHÁNH NIỆM
Chánh niệm là đặt tâm
vào thời điểm tại đây và bây giờ, mục đích nhận rõ những hành vi của
thân, những biến đổi sinh diệt của tâm và biểu hiện của tất cả sự vật
hiện tượng xung quanh mình. Sống có chánh niệm là sống tỉnh thức, là rõ
ràng thường biết mà hoàn toàn khách quan, không phân tích, so sánh, suy
luận. Trái nghĩa với Chánh niệm là Thất niệm, tâm luôn chạy theo trần
cảnh ngoại duyên, hoặc nhớ nghĩ về quá khứ hay mơ tưởng đến tương lai;
vì thế cứ bị phiền não tham sân si chi phối, rồi tạo nghiệp và quẩn
quanh trong vòng sinh tử.
Đi sâu vào công phu,
Chánh niệm giúp ta thấy rõ bản chất của mọi sự vật hiện tượng, có cái
thấy như thực về thân - tâm - cảnh. Đối tượng của Chánh niệm là bản chất
của các pháp, là pháp Chân đế (Paramattha). Chánh niệm giúp hành giả
thấu triệt được thực tướng của vũ trụ và muôn loài chúng sanh. Như vậy,
đây là phương pháp Định - Huệ đồng thời, cần phân biệt với phương pháp
Định niệm, chú tâm vào hình tướng của các pháp (Pannatti), có Định mà
không có Huệ.
Nói chung, nội dung của
Chánh niệm là BIẾT - biết nhưng không có ý thức phân biệt. Những giai
đoạn đầu, còn có người biết và đối tượng biết, tức còn năng - sở. Khi
công phu tăng tiến, không còn phân ranh chủ - khách, tức năng - sở không
hai. Đây là điều có thể trực nhận được khi công phu đã thuần thục.
II.- THỰC TẬP CHÁNH NIỆM
1.- Nguyên tắc.
1- Luôn an trú tâm vào
hiện tại, không nghĩ đến quá khứ và tương lai.
2- Chú tâm vào một đối
tượng như diễn biến của cảnh, động tác của thân hay sự sinh diệt của tâm.
Không chú tâm đến hình tướng của các pháp, cũng không khởi niệm phân
biệt so sánh.
3- Trong các đối tượng
của Chánh niệm, hơi thở và tâm hành (vọng tưởng) là hai đề mục có thể áp
dụng trong nhiều tình huống. Nhưng nói chung, hành giả nên tự chọn cho
mình những đối tượng để chánh niệm tùy ý thích, tùy hoàn cảnh và tùy
thời điểm sao cho thích hợp và có kết quả.
2.- Áp dụng công phu.
a) Lúc tĩnh.
- Theo dõi hơi thở. Hơi
thở vào - ra, dài - ngắn, chúng ta biết rõ, nhưng không cưỡng bách hơi
thở theo ý mình.
- Có thể chọn đề mục là
lúc đối duyên: mắt nhìn thấy xe chạy hay người đi qua, âm thanh tiếng
động vọng đến, gió thổi mơn man qua đầu mặt, mùi hương thoảng qua mũi...
Các căn tiếp xúc với các trần chúng ta đều biết, nhưng không so sánh
khen chê.
- Khi nằm: Theo dõi hơi
thở hay theo dõi các tâm hành sinh diệt. Có ý tưởng nào khởi lên là nhận
rõ và không theo.
b) Khi động.
- Khi ăn uống: Lúc ngồi
vào bàn ăn, cầm đũa gắp thức ăn, đưa thức ăn vào miệng... Chúng ta chánh
niệm trên những động tác của thân; cho đến mùi vị của thức ăn, nước uống
như thế nào, chúng ta đều biết.
- Lúc tiếp khách: Mọi
câu chuyện trao đổi với khách, ta đều ý thức được nhưng qua rồi thì thôi,
không phân tích, không lưu giữ. Nhờ vậy, ta tiếp khách một cách nồng
nhiệt nhưng không động tâm trước những lời nói của khách.
- Trong lao tác: Chánh
niệm trên từng động tác của thân, trên công việc mình đang làm.
- Khi lái xe: Chánh niệm
bằng cách chú tâm vào cảnh vật trước mắt.
- Khi thiền hành hoặc
kinh hành: Đếm bước chân(*) hoặc theo dõi từng bước chân. Cũng có thể
theo dõi vọng tưởng, có vọng liền nhận diện không theo.
c) Lúc đau ốm.
- Nếu đau từng cơn hay
có chu kỳ: Chánh niệm bằng cách chủ động đón nhận cơn đau, nhận diện
tiến trình xảy ra từ lúc cơn đau hình thành, tồn tại đến khi biến mất.
- Nếu toàn thân mệt mỏi,
suy nhược: Chánh niệm trên hơi thở, quán niệm mạng sống mong manh, thân
tâm này là không thật có, chỉ do duyên hợp mà thành.
- Nếu có tình trạng đau
liên tục: Chánh niệm soi rõ cái đau phát xuất từ vùng nào của cơ thể,
lan tỏa theo hướng nào, tính chất của cái đau (đau quặn, đau như dao đâm,
đau âm ỉ...). Đối với hành giả đã giải ngộ, sẽ thấy rõ cái đau ấy thuộc
về thân, không ảnh hưởng đến “cái biết đau”. Thân là giả hợp nên
cái đau của thân cũng không thật có.
d) Khi có phiền
não.
- Biết rõ những phiền
não ở tâm đều là những tâm hành sinh diệt, là vọng tưởng hư dối. Áp dụng
pháp Tri vọng.
- Áp dụng chánh niệm
trên từng giai đoạn xảy ra của phiền não, từ lúc bắt đầu rồi lẫy lừng
đến khi biến mất. Chánh niệm chuyển hóa được phiền não.
- Khi gặp bát phong:
Chánh niệm trên thân năm uẩn, thấy thân không thật. Ngã không có thật
thì ngã sở càng không thật có. Từ đó, ta không còn tham đắm, lưu luyến
bất cứ thứ gì trên đời; cũng không động tâm trước những lời khen chê của
người khác, trước những thuận lợi hay khó khăn trong cuộc đời.
PHẦN II - PHƯƠNG PHÁP TỌA
THIỀN
I.- HƯỚNG DẪN CÁC GIAI ĐOẠN
A- Nguyên tắc chung.
1- Trong tất cả các giai
đoạn, từ khi thực hiện các nghi thức lễ Phật đến lúc nhập, trụ và xả
thiền, đều phải giữ chánh niệm.
2- Nếu tọa thiền một
mình trong phòng riêng, có thể trang phục rộng rãi, thoáng mát. Nếu cộng
tu trong thiền đường hay tọa thiền trong chánh điện, nên mặc áo dài.
3- Dụng cụ tọa thiền:
Mỗi người có bồ đoàn và tọa cụ với kích thước phù hợp. Nếu cần, thêm một
khăn lông hay gối nhỏ để chêm dưới bàn tay phải.
4- Tư thế: Ngồi theo tư
thế kiết già, bán già hoặc tư thế ngồi khác tùy sức khỏe, tuổi tác mỗi
người.
5- Chọn thời điểm và nơi
chốn tọa thiền hằng ngày sao cho buổi tọa thiền có kết quả tốt nhất, tùy
hoàn cảnh, công việc và sức khỏe từng người. Không nên tọa thiền lúc mới
ăn no, quá mệt nhọc hay buồn ngủ.
B.- Các giai đoạn tọa thiền.
1.- Nhập thiền:
Nhập thiền lần lượt theo
hai bước: điều thân và điều tức, để chuẩn bị cho giai đoạn trụ thiền là
điều tâm.
a) Điều thân:
- Ngồi trên bồ đoàn,
xương cùng đặt ngay giữa bồ đoàn. Nghiêng người qua hai bên vài lần rồi
ngồi theo tư thế thích hợp.
- Cởi nút áo cổ, nới dây
thắt lưng, chỉnh các nếp áo quần, xếp vạt áo ngay ngắn.
- Thân cúi xuống ngẩng
lên 3 lần, lúc đầu mạnh sau nhẹ dần.
- Bàn tay phải để trên
bàn tay trái, hai ngón cái chạm nhẹ vào nhau, nằm ngay chiều rốn. Kê gối
dưới bàn tay phải nếu lòng bàn chân quá trũng. Hai cánh tay vừa chạm vào
hông.
- Chóp mũi, rốn và hai
đầu ngón tay cái nằm trên một mặt phẳng thẳng đứng. Hai trái tai dóng
thẳng xuống vai.
- Lưng thẳng vừa phải,
ngồi một cách tự nhiên thoải mái. Gương mặt tươi, bình thản. Mắt khép hờ
độ 2/3, hoặc có thể nhắm hay mở tùy người, tùy lúc.
b) Điều tức:
Thở 3 hơi dài, trước mạnh sau nhẹ dần .
- Hít vào bằng mũi,
tưởng: “Không khí trong sạch theo hơi thở tỏa lan khắp châu thân”
- Thở ra bằng miệng,
tưởng: “Bao nhiêu phiền não, cấu uế, bệnh hoạn đều theo hơi thở ra
ngoài”.
Sau đó, ngậm miệng lại,
lưỡi để tự nhiên. Tiếp tục thở bình thường bằng mũi.
2.- Trụ thiền.
Đây là giai đoạn điều
tâm. Có 3 phương pháp, lần lượt từ thấp lên cao:
a) Sổ tức:
Là đếm hơi thở, có 2 cách:
- Nhặt: Hít vào đếm 1,
thở ra đếm 2... Đếm đến 10 thì trở lại từ 1.
- Khoan: Hít vào và thở
ra đếm 1... lần lượt đếm đến 10 thì trở lại từ 1.
Nếu trong lúc đếm mà lầm
số, phải đếm trở lại từ 1. Khi thuần thục mới chuyển qua phương pháp Tùy
tức.
b) Tùy tức:
Là theo dõi hơi thở. Thở vào - ra, dài - ngắn đều biết rõ, nhưng không
cưỡng ép hơi thở theo ý mình. Ta dễ trực nhận mạng sống mong manh chỉ
trong hơi thở, thân tâm đều là vô thường, không thật có. Vọng tưởng thưa
dần khi tâm luôn duyên theo hơi thở.
c) Tri vọng:
Có 2 giai đoạn:
* Pháp biết vọng:
Tâm không trụ vào đâu, cũng không chú ý đến hơi thở. Khi có một niệm dấy
khởi, biết đó là vọng tưởng, không theo, vọng tự nhiên mất. Cứ theo dõi
sự sinh diệt của từng vọng niệm, sau một thời gian vọng sẽ thưa dần. Tuy
không còn vọng tưởng nhưng mọi việc xảy ra xung quanh ta đều biết rõ.
* Tánh biết vọng (Liễu
vọng): Hành giả biết vọng tâm và chơn tâm chỉ là hai mặt của một
thực thể, như sóng biển và mặt biển đều là nước. Đây là giai đoạn bảo
nhậm tính giác, bào mòn tập khí, cần hành trì trong mọi thời khắc, mọi
oai nghi.
3.- Xả thiền.
Xả thiền theo thứ tự
ngược với lúc nhập thiền: đầu tiên là xả tâm, kế đến xả hơi thở, sau
cùng là xả thân.
a) Xả tâm:
Khi nghe tiếng khánh hay chuông báo xả thiền, tâm duyên theo tiếng
chuông khánh, biết rõ từ lúc đầu có tiếng đến khi tiếng chấm dứt. Đọc
thầm bài kệ hồi hướng :
Nguyện đem công đức này,
Hướng
về khắp tất cả,
Đệ tử
và chúng sanh,
Đều
trọn thành Phật đạo.
b) Xả hơi thở:
Thở 3 lần từ nhẹ đến mạnh:
- Hít vào bằng mũi,
tưởng: “Máu huyết theo hơi thở lưu thông khắp châu thân”.
- Thở ra bằng miệng,
tưởng: “Bao nhiêu phiền não, cấu uế, bệnh hoạn đều theo hơi thở ra
ngoài”.
c) Xả thân:
Làm lần lượt các động tác sau:
- Chuyển động luân phiên
hai bả vai, mỗi bên 5 lần.
- Đầu cúi xuống ngước
lên 5 lần, xoay qua trái qua phải 5 lần, rồi cúi xuống ngước lên 1 lần
nữa.
- Co duỗi các ngón tay 5
lần.
- Chuyển động thân từ
nhẹ đến mạnh 5 lần; lần cuối úp hai bàn tay lên đầu gối, ấn mạnh xuống.
- Chà xát hai bàn tay
cho ấm lên, xoa mặt, tai, gáy và cổ, mỗi nơi 20 lần. Dùng đầu ngón tay
cào nhẹ trên đầu từ trước ra sau 5 lần.
- Bàn tay phải xoa từ
vai trái xuống cánh tay, đồng thời bàn tay trái xoa từ nách xuống hông
phải, làm 5 lần rồi đổi tay.
- Lòng bàn tay phải đặt
trước ngực, lưng bàn tay trái đặt nơi lưng, hai tay đồng thời xoa theo
chiều ngang ở 3 vị trí, mỗi nơi 5 lần: Thượng tiêu (trước ngực), Trung
tiêu (giữa ngực và bụng), Hạ tiêu (bụng dưới).
- Hai bàn tay chà xát
mạnh vùng thận, thắt lưng, mông, dọc hai bên đùi đến đầu gối (vẫn còn
xếp bằng theo tư thế lúc đầu). Chà xát lâu mau tùy sự đau tê nhiều hay
ít.
- Chà hai bàn tay vào
nhau cho nóng lên rồi áp vào mắt, làm 5 lần.
- Tay nắm các đầu ngón
chân, đặt bàn chân xuống tọa cụ. Xoa bóp kỹ hai chân và lòng bàn chân
cho đến khi bớt đau tê mới duỗi thẳng hai chân ra. Cúi người xuống, hai
cánh tay duỗi thẳng, sao cho các ngón tay chạm vào đầu ngón chân. Cúi
xuống ngẩng lên 3 lần.
- Cuối cùng, bỏ bồ đoàn
ra, tiếp tục xoa bóp kỹ những chỗ còn đau tê.
Thời gian xả thiền từ 10
đến 15 phút. Sau khi xả thiền, nếu cùng cộng tu với nhau, người xong
trước vẫn ngồi xếp bằng lại ngay ngắn để chờ mọi người hoàn tất việc xả
thiền. Tiếp tục tụng kinh theo nghi thức thống nhất.
II.- NGHI THỨC TỌA THIỀN
A.- Lễ Phật.
(Đại chúng sắp hàng
đứng ngay ngắn, chắp tay tụng theo người chủ lễ) :
Đại từ, đại bi thương
chúng sanh,
Đại hỷ, đại xả cứu hàm
thức.
Tướng đẹp sáng ngời dùng
trang nghiêm,
Chúng con chí tâm thành
đảnh lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả
chư Phật ba đời tột hư không khắp pháp giới. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả
Chánh pháp ba đời tột hư không khắp pháp giới. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả
Tăng bậc Hiền Thánh ba đời tột hư không khắp pháp giới. (1 lạy)
B.- Hô thiền
(Đại chúng ngồi vào chỗ
quy định theo tư thế tọa thiền, im lặng, tâm duyên theo tiếng hô thiền)
:
1). Đầu hôm:
Canh một trang nghiêm
ngồi tịnh tu,
Tinh thần tịch chiếu
đồng thái hư,
Muôn kiếp đến nay chẳng
sanh diệt,
Đâu cần sanh diệt diệt
gì ư ?
Gẫm xem các pháp đều như
huyễn,
Bổn tánh tự không đâu
dụng trừ.
Nếu biết tâm tánh khôn
tướng mạo,
Lặng yên chẳng động tự
như như.
Nam-mô Phật Bổn sư Thích-Ca
Mâu-Ni.
(niệm 3 lần, mỗi lần
đánh một tiếng chuông, đại chúng niệm theo)
2). Cuối hôm:
Canh năm Bát - nhã chiếu
vô biên,
Chẳng khởi một niệm khắp
tam thiên.
Muốn thấy chân như tánh
bình đẳng,
Dè dặt sanh tâm, trước
mắt liền.
Lý diệu ảo huyền không
lường được,
Dụng công đuổi bắt càng
nhọc mình.
Nếu không một niệm mới
thật tìm,
Còn có tâm tìm toàn
chẳng biết.
Nam-mô Phật Bổn sư Thích-Ca
Mâu-Ni
(niệm 3 lần, mỗi lần
đánh một tiếng chuông, đại chúng niệm theo)
C.- Tọa thiền:
Xem chỉ dẫn ở phần IB,
qua ba giai đoạn nhập, trụ và xả thiền.
D.- Tụng kinh:
(Đại chúng đứng theo
hàng, chắp tay.
Vô chuông mõ bắt đầu
tụng):
TÂM KINH TRÍ TUỆ CỨU
KÍNH RỘNG LỚN
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại
hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua
hết thảy khổ ách.
Này Xá-Lợi-Phất! Sắc
chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sức tức là không, không tức là
sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế.
Này Xá-Lợi-Phất! Tướng “Không”
của các pháp không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm
không bớt. Cho nên trong tướng “Không” không có sắc, không có thọ,
tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức
giới; không có vô minh cũng không có hết vô minh, cho đến không có già
chết cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có
trí tuệ cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ được, nên Bồ-tát y theo
Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không
sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh Niết-bàn.
Chư Phật trong ba đời
cũng nương Bát-nhã Ba-la-mật-đa, được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác. Nên biết, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú,
là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thảy khổ, chân
thật không dối. Vì vậy nói chú Bát-nhã Ba-la-mật-đa, liền nói chú rằng:
Yết-đế, yết-đế, ba-la
yết-đế, ba-la tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha (3 lần)
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
TỰ QUY Y
Tự quy y Phật, nguyện
cho chúng sanh, hiểu thấu đại đạo, phát tâm vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, nguyện
cho chúng sanh, thâm nhập tam tạng, trí huệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, nguyện
cho chúng sanh, quản lý đại chúng, tất cả không ngại. (1 lạy)
(Đánh 3 tiếng chuông,
đại chúng giải tán)
III.- CÁC
TRIỆU CHỨNG CÓ THỂ GẶP KHI TỌA THIỀN
1.- Nếu lơ mơ, chảy nước
miếng là tình trạng vô ký, không điều chỉnh sẽ đưa đến ngủ gục. Phải mở
mắt lớn ra, chỉnh thân lại ngay ngắn, hít vào sâu và thở ra mạnh vài lần.
2.- Ngồi một lát lại
thấy buồn ngủ không cưỡng được: Xoa hai bàn tay vào nhau cho nóng lên,
áp vào mắt nhiều lần. Nếu không có kết quả, đứng dậy đi kinh hành vài
vòng hoặc ra rửa mặt bằng nước lạnh, rồi tiếp tục ngồi.
3.- Nếu thấy đầu căng
hay nhức, do trụ tâm quá nhiều vào một chỗ: Thở ra - vào mạnh vài hơi
rồi hít thở lại bình thường, tâm duyên vào hơi thở một cách nhẹ nhàng.
4.- Đau lưng: Do xương
sống cong quá, phải ngồi thẳng lưng lên.
5.- Tức ngực: Nếu do
ngồi ưỡn quá, phải rùn xuống. Nếu do hơi thở không thông (theo phong hay
suyễn tướng), nên thở dài và nhẹ lại.
6.- Đau một bên hông: Do
ngồi nghiêng một bên, nên chỉnh thân lại ngay ngắn.
7.- Nếu vọng tưởng lẫy
lừng, dùng phương pháp Tri vọng không có kết quả: Trở lại theo dõi hơi
thở hoặc đếm hơi thở. Khi tâm tạm yên, trở lại Tri vọng. Nếu vẫn còn
loạn tưởng, đứng dậy đi kinh hành một lúc, chánh niệm trên từng bước đi.
Lúc vọng tạm lặng, tiếp tục tọa thiền.
8.- Thấy tướng lạ: Biết
đó là vọng cảnh do tâm biến hóa ra, không nên khởi tâm mừng hoặc sợ.
Hành giả cần xem kỹ lời Phật dạy về Ngũ ấm ma trong kinh Lăng Nghiêm.
KẾT LUẬN
Bản chất của Thiền là
sống hồn nhiên và trực tiếp ngay trong thực tại đang diễn biến, nên sống
Thiền là tự chủ trong cảnh động cũng như cảnh tịnh. Hành giả tu Thiền
thấy rõ sự vận hành của thân-tâm-cảnh nơi thời điểm hiện tại, không qua
trung gian của ý thức phân biệt nhị nguyên. Đó là Chánh niệm.
Tinh thần Chánh niệm
phải được áp dụng trong mọi nơi chốn và mọi thời khắc của cuộc sống, khi
tĩnh cũng như khi động. Trong thời gian đầu, công phu còn yếu, nên chúng
ta thường bị thất niệm, phải tinh tấn tọa thiền hàng ngày để tâm lần lần
thuần hóa. Cái biết lúc này vẫn còn là của ý thức, ngay cả biết rằng “Ta
đang chánh niệm”. Dù vậy, sự so sánh phân tích không còn thô và phức
tạp; nó không phải là những đo lường và suy tư trên đối tượng nhận thức,
mà là một kinh nghiệm trực tiếp về đối tượng ấy, nên được gọi là “nhận
thức vô phân biệt”.
Khi sức tĩnh tu
đã khá, cái biết là của trực giác, của trí tuệ. Chánh niệm ở đây là tỉnh
giác trong đương niệm. Khi năng-sở không còn hai, nơi niệm mà vô niệm
nên là thường niệm - ngay sóng mà nhận ra nước, nơi vọng niệm mà nhận ra
bản tính hằng tri hằng giác của mình.
Thường trực phản tỉnh
nội tâm, chánh niệm trên từng động dụng sinh diệt của thân và tâm, chúng
ta có một đời sống tỉnh thức, có nhận định đúng đắn về thực tại ngay
trong tự thân của các pháp. Đây là tiền đề để thể nhập vào thật tướng
của vũ trụ vạn hữu, định vị được con người thật xưa nay của chính mình.
Từ đó, dù bao nhiêu thăng trầm biến đổi của cuộc sống, dù phải lăn lộn
vào sáu nẻo để đền trả những nghiệp trót tạo ra từ vô thủy, chủng tử
giác ngộ cũng không bao giờ mất. Cứ vững bước trên đường đạo, trả hết
nghiệp xưa, chúng ta sẽ vĩnh viễn được bình an nơi quê hương muôn thuở.
Mong rằng tất cả chúng
ta, trang bị đầy đủ chánh kiến và chánh tín, nắm vững pháp tu, cộng thêm
ý chí xung thiên và sự kiên nhẫn trường kỳ, mỗi ngày đi qua là mỗi bước
tiến trong công phu thiền tập. Và sau đó, chính những kinh nghiệm tu
hành của chúng ta sẽ đóng góp cho những người đi sau, làm sao cho mọi
người đều được lợi ích. Bản thân tự kiểm nghiệm những lời dạy của Thầy -
Tổ, và làm phong phú thêm bằng những kinh nghiệm hành trì của chính mình:
đó là tinh thần học Phật và tu Phật mà mỗi thiền sinh chúng ta đều phải
có!
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/phuongphapthientap.htm