Quán Chiếu Tâm
Venerable Ajahn
Sumedho
TN Tịnh Quang
dịch
Gốc rễ của sự đau khổ là những gì mà chúng ta gọi là avijja-không
hiểu biết, hoặc ngu dốt đối với sự thật của vạn pháp. Căn bản vô minh
chính là không hiểu đúng sự thực. Chúng ta đau khổ bởi vì những quan
niệm và kiến chấp, vì những tập quán và những hoàn cảnh mà chúng ta
không hiểu. Chúng ta sống với những sinh hoạt của chính mình trong trạng
thái vô minh, không hiểu biết các pháp vốn như thế.
Nếu bạn lắng nghe chính mình hơn, thỉnh thoảng bạn có thể nghe những câu
nói như “tôi nên làm điều này, nhưng tôi không nên làm điều đó. Tôi là
cách này, nhưng tôi không nên là cách đó,” hoặc thế giới nên thay đổi
tốt hơn, cha mẹ tôi phải như thế này hoặc như thế nọ và không nên như
thế kia. Thế là chúng ta có những thì động từ đặc biệt reo trong tư
tưởng chúng ta, bởi vì chúng ta có những quan niệm về những gì không nên
là, hoặc nên là. Với Thiền định, lắng nghe tư tưởng bên trong chính bạn
đối với những gì Nên Là và những gì Không Nên Là-chỉ lắng nghe nó.
Khuynh hướng của chúng ta là cố gắng trở thành điều gì đó, và chúng ta
đặt mục tiêu, làm thành lý tưởng đối với những điều mà chúng ta muốn trở
thành. Có thể chúng ta nghĩ rằng xã hội nên tốt hơn bây giờ; Mọi người
nên lương thiện, rộng lượng, không ích kỷ, thông cảm và yêu thương, tình
huynh đệ nên có, chính quyền nên lãnh đạo khôn ngoan và thế giới nên hòa
bình. Tuy nhiên, vũ trụ vẫn ở trong phút giây như thế với thời gian và
không gian vẫn như thế. Vì không hiểu điều này nên chúng ta tranh đấu.
Lắng nghe trong thâm tâm của bạn với tiếng khóc không ngừng “tôi là thế
này, tôi không là thế kia,” và xuyên thủng qua câu này “tôi là, tôi
không là,” với sự chú ý.
Chúng ta theo dõi những phản ứng và chấp nhận rằng tất cả quan niệm “tôi
là, tôi không là” là chân lý. Chúng ta tạo nên chính mình như một tính
chất con người gắn liền với ký ức của chính chúng. Chúng ta nhớ những
điều mà chúng ta đã học và những gì mà chúng ta đã làm, thông thường
những việc quan trọng, chúng ta hay quên những việc tầm thường. Vậy nếu
chúng ta làm việc không tốt, độc ác và ngu xuẩn thì chúng ta có những ký
ức không vui vẻ trong đời sống, chúng ta có cảm giác xấu hổ hoặc tội lỗi.
Nếu chúng ta làm điều lành hoặc nhân đức, thì chúng ta có những ký ức
tốt trong đời sống chúng ta. Khi chúng ta bắt đầu soi chiếu lại điều này
thì chúng ta sẽ nhiều cẩn trọng hơn về những gì chúng ta làm và chúng ta
nói. Nếu chúng ta đã sống đời sống một cách điên rồ, hành động với sự
thúc đẩy với ước muốn thỏa mãn trực tiếp hoặc với ý định gây tổn thương,
gây nên sự bất hòa đối với người khác, tâm chúng ta sẽ bị lấp đầy với
những ký ức không hạnh phúc. Những ai bị dẫn dắt bởi cuộc sống ích kỷ
thì hay nghiện ngập hoặc xử dụng những dược phẩm để duy trì sự bận rộn
thường xuyên của họ để họ khỏi phải nhìn những ký ức trỗi dậy trong tư
tưởng.
Trong tiến trình giác ngộ của thiền định, chúng ta đem sự chú ý đến
trạng thái của tâm Ở Đây và Bây Giờ ngay nơi cái biết hiện hữu của tri
giác “tôi là, tôi không là.” Thưởng thức những cảm giác của sự đau đớn
hoăc vui sướng-và bất kỳ ký ức nào, những suy tư, những quan điểm-như vô
thường, anicca. Đặc trưng của vô thường thì bao gồm hết thảy mọi tình
huống. Bao nhiêu người thực sự bỏ thời gian để quán chiếu điều này trong
những cách có thể như ngồi, đứng hoặc nằm? Quán chiếu những gì bạn thấy
với mắt mình, nghe với tai mình, nếm với lưỡi mình, ngửi với mũi mình,
cảm xúc và kinh nghiệm với thân mình và suy nghĩ với ý niệm.
Suy nghĩ “tôi là” là một mệnh đề vô thường. Suy nghĩ “ tôi không là” là
một mệnh đề vô thường. Những tư duy, ký ức, sự chú ý về tâm và thân , sự
xúc cảm của chúng ta-tất cả mệnh đề đều thay đổi. Trong sự thực hành
thiền định, chúng ta phải hoàn toàn đứng đắn, gan dạ và dũng cảm đối với
sự quán chiếu thực sự, can đảm nhìn thẳng vào tất cả trạng thái bất như
ý trong đời sống còn hơn tìm sự trốn chạy trong sự yên tĩnh để quên mọi
thứ. Trong Vipassana (Minh Sát Tuệ), sự thực tập là cách duy nhất nhìn
vào đau khổ, nó là một sự chạm trán với chính chúng ta, những gì mà
chúng ta nghĩ về chính mình với những ký ức và cảm xúc, vui buồn hoặc
lãnh đạm. Cách khác, khi điều này biểu hiện và chúng ta nhận diện đau
khổ hơn là không chấp nhận,kềm chế hoặc lờ nó đi, chúng ta nên tận dụng
cơ hội để nghiên cứu nó.
Đau khổ là bậc thầy của chúng ta, chúng ta phải học bằng sự nghiên cứu
chính đau khổ. Nó luôn luôn khiến tôi kinh ngạc biết bao khi vài người
cho rằng họ chẳng bao giờ đau khổ. Họ nghĩ, “ tôi không đau khổ, tôi
không biết tại sao Phật giáo luôn nói về đau khổ ở mọi lúc. Tôi cảm giác
tuyệt vời, tràn ngập vẻ đẹp và hứng thú, tôi mãi mãi hạnh phúc. Tôi tìm
ra sự kỳ dị, từng trải, thích thú, sự quyến rũ và những lạc thú bất tận
của đời sống.” Những người này chấp nhận sự phiến diện của đời sống và
loại ra những cái khác, bởi vì chúng ta không thể tránh được những dục
lạc làm say chúng ta và đánh mất chúng ta-và chúng ta lấy làm luyến
tiếc. Sự thèm khát của chúng ta là trong một trạng thái bất tận của dục
lạc đưa chúng ta vào mọi điều rắc rối, những khó khăn và nhiều hoàn
cảnh. Sự đau khổ không chỉ có mặt ở những việc quan trọng như bệnh ung
thư ở thời kỳ cuối hoặc mất một vài người mà bạn yêu thương. Đau khổ có
thể xuất hiện xung quanh những gì rất bình thường không có gì nghiêm
trọng như bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi.
Chúng ta theo dõi nhịp thở bình thường, và nhận diện sự bình thường này.
Để biết được sự tồn tại, chúng ta theo dõi những cảm giác, ký ức và sự
suy nghĩ bình thường còn hơn là chấp chặt những tư duy và quan niệm ảo
tưởng hầu biết được mức độ cuối cùng của đời sống. Như thế chúng ta
không bị rằc rối với sự suy đoán đối với mục đích cuối cùng về sự sống,
thượng đế, ma quỷ, thiên đường và địa ngục, những gì xảy ra khi chúng ta
chết hoặc đầu thai. Trong Thiền định Phật giáo, bạn chỉ quan sát ở đây
và bây giờ, sự sống và chết tiếp tục ở ngay đây và bây giờ, là sự bắt
đầu và kết thúc đối với tất cả những việc rất bình thường. Sự suy tưởng
bắt đầu khi bạn suy nghĩ về sự sanh, bạn nghĩ “tôi đã sanh,” nhưng đó là
sự sanh trọng đại của thân xác mà chúng ta không thể nhớ. Sự sanh hàng
ngày của “tôi” chính là kinh nghiệm. Trong cuộc sống thường nhật là “tôi
muốn, tôi không muốn, tôi thích, tôi không thích.” Đây là sự sanh của
tâm hoặc sự tìm cầu hạnh phúc. Chúng ta suy nghĩ về điạ ngục của cơn
giận giữ thông thường của chính mình, khi cơn giận nổi lên, ác cảm, căm
thù mà chúng ta cảm giác trong tâm đốt nóng thân thể.Khi chúng ta suy
nghĩ về giây phút thiên đường mà chúng ta từng trải, trạng thái hạnh
phúc, niềm vui sướng, sự nhẹ nhàng, vẻ đẹp ở ngay đây và bây giờ. Hoặc
ngay nơi trạng thái si mê của ý thức, loại ngục tù này có thể có hạnh
phúc hoặc không với những sự ù lì ngớ ngẩn và vô cảm. Trong thiền định
Phật giáo chúng ta chỉ quan sát chúng nó bên trong chúng ta. Chúng ta tư
duy về sự thèm muốn của chính mình bằng sự kềm chế với sức mạnh và quyền
uy, thể hiện quyền hành đối với người khác, trở nên nổi tiếng, hoặc trở
thành một người nổi bậc. Bao nhiêu người, khi bạn phát hiện ra có tài
năng hơn bạn rồi bạn muốn đẩy họ xuống? Đây là sự ghen tị. Điều mà chúng
ta làm trong việc thực tập thiền định của chúng ta là nhận ra những sự
ganh tị thông thường, hoặc sự căm thù mà chúng ta đã có thể cảm giác đối
với ai đó, kẻ đã đánh mất cơ hội của chúng ta. Tâm của chúng ta như một
cái kiến, nó phản chiếu vũ trụ và bạn thấy sự phản chiếu đó. Trước kia
chúng ta chấp những bóng dáng này cho là thật rồi chúng ta trở nên bị mê
hoặc, sa đọa hoặc lãnh đạm đối với chúng. Nhưng trong Vipassana chúng ta
chỉ quán sát tất cả sự phản chiếu này là sự thay đổi trạng thái. Chúng
ta bắt đầu nhìn chúng như những đối tượng mà không phải là chủ thể.
Nhưng khi mê mờ chúng ta theo đuổi và đồng nhất với chúng.
Trong sự thực hành, chúng ta nhìn thế giới như sự hiện hữu phản chiếu
trong tâm. Nó không phải là chủ đề kinh nghiệm cho bất cứ ai; một hành
giả ngồi ở đây và kinh nghiệm tất cả loại ánh sáng của viên kim cương,
màu sắc, hình ảnh quyến rũ, Phật, Trời-ngay cả mùi thơm tuyệt hảo, nghe
những âm hưởng thiêng liêng-rồi suy nghĩ, “sự thiền định tuyệt vời làm
sao! Vẻ rực rỡ chói loị làm sao! Sự nhiệm mầu như một thiên sứ chạm vào
tôi và tôi cảm nhận trạng thái ngây ngất này. Tôi đã chờ cả đời vì sự
kinh nghiệm này.” Trong khi đó người kế tiếp thì suy nghĩ, “tại sao việc
này luôn luôn xảy đến cho tôi? Tôi ngồi cả giờ trong cơn đau lưng, chán
nản và muốn nó qua đi, ngạc nhiên tại sao mặt đất mà tôi hiện diện với
tất cả sự chán nản này.” Người khác có thể nói: “ Tôi không thể đứng với
những người có những tư tưởng khờ khạo và võ đoán. Họ chán ghét tôi, họ
chỉ biểu lộ lòng căm thù và ác cảm khủng khiếp đối với tôi. Tôi ghét
hình ảnh Phật ngồi bên cửa sổ. Tôi muốn đập tan nó. Tôi ghét Phật giáo
và Thiền định.”
Vậy trong ba người trên ai là một hành giả thiền định tốt? Chúng ta thấy
người đầu tiên thấy sự múa lượn của thiên giới trong cõi thiên đường,
người khác thì lo lắng, trơ trơ, đần độn và người khác tràn ngập hận thù
và ác cảm ? Sự múa lượn của Devas và thiên sứ trong vương quốc Thiên
đường là anicca-không trường cửu. Nỗi buồn chán là anicca-vô thường. Vậy
hành giả tốt là người thực hành phương pháp đúng, nhìn được sự vật vô
thường trong mọi tình huống đó.
Khi bạn nói chuyện với người thấy Thiên giới và những kinh nghiệm về ánh
sáng rực rỡ ấy, bạn bắt đầu nghi ngờ về sự thực hành và suy nghĩ của
chính mình, “có thể tôi không có khả năng trí tuệ, có thể tôi không
thiền định đúng.”Hãy nghi ngờ chính nó là vô thường bất kỳ điều gì xuất
hiện rồi biến mất. Một hành giả đúng, là người nhận ra sự vật vô thường
đối với những trạng thái vui sướng và ngây ngất hoặc những kinh nghiệm ù
lì, giận giữ, căm thù và ác cảm, và những phản chiếu trên sự vật vô
thường đối với những trạng thái khi đi, đứng, nằm, ngồi đó.
Khuynh hướng của bạn là gì? Bạn là người tích cực đối với mọi điều? “Tôi
thích mọi người ở đây. Tôi tin tưởng lời dạy của Đức Phật. Tôi tin tưởng
Pháp.”- đó là một sự xác tín của tâm. Điều này cho thấy rằng loại tâm
này có thể tạo nên và thể nghiệm sự an lạc rất nhanh. Một số người nông
dân Thái Lan, họ rất hạn hẹp đối với bất kỳ kiến thức thế giới, họ có
thể rất cực khổ khi học chữ, thỉnh thoảng họ lại có kinh nghiệm về trạng
thái hạnh phúc, ánh sáng, thiên giới, và họ tin tưởng tất cả điều đó.
Khi bạn tin tưởng devas, bạn thấy chúng. Khi bạn tin tưởng vào ánh sáng
vương quốc Thiên đường bạn sẽ thấy chúng. bạn tin tưởng rằng Đức Phật sẽ
bảo hộ bạn, Đức Phật sẽ đến bảo hộ bạn. Những gì bạn tin tưởng sẽ hiện
diện với bạn. Nếu bạn tin vào địa ngục, thiên đường, yêu quái, bạn thấy
được những điều đó biểu hiện đối với bạn. Nhưng chúng nó vẫn là anicca,
vô thường, chóng vánh và không có tự ngã.
Hầu hết chúng ta không tin tưởng vào những cảnh giới như chư thiên và
thiên giới, và cho rằng sự tin tưởng này là khờ khạo. Đây là loại tư
tưởng tiêu cực, hạng người mập mờ, nghi ngờ và không tin tưởng bất cứ
điều gì. “Tôi không tin thiên giới và thiên thần, tôi không tin bất kỳ
điều nào trong đó, chỉ giúp tôi một cõi thiên đường. Thật ngớ ngẩn!” Thế
là nhiều quan niệm hoài nghi và mập mờ mà chẳng bao giờ thấy được.
Có tin tưởng; có hoài nghi, sự thực hành trong Phật giáo là chúng ta
khảo sát niềm tin và hồ nghi mà chúng ta thể nghiệm bên trong tư tưởng
và chúng ta biết rằng hai loại này là những trạng thái đổi thay.
Tôi đã quán sát tự thân của hoài nghi như một dấu hiệu. Tôi đã hỏi chính
mình một câu hỏi như, “tôi là ai?” Và rồi tôi lắng nghe câu trả lời
chẳng hạn như, “Tỳ Kheo Sumedho.” Rồi tôi tư duy, “đấy không phải là câu
trả lời, bạn thật sự là ai?” Tôi nhận diện sự vùng vẫy, sự phản ứng của
thói quen để tìm câu trả lời cho câu hỏi. Nhưng tôi đã không chấp nhận
bất cứ khái niệm nào cho câu trả lời. “Ai đang ngồi đây? Cái gì đây? Chỗ
nầy là gì? Ai đang suy nghĩ mọi thứ? Những suy nghĩ đó là gì? Khi một
tâm trạng không xác định hoặc nghi ngờ muốn biểu lộ, tôi chỉ nhìn vào sự
không xác định và nghi ngờ như một dấu hiệu, rồi tư tưởng dừng ở đó và
trở nên trống rỗng, và những sự biểu lộ mất hút.
Tôi thấy việc này rất có tác dụng khi làm trống rỗng tư tưởng bằng việc
hỏi lại chính mình những câu hỏi không thể trả lời làm cho những hoài
nghi hiển hiện. Nghi ngờ là một tâm trạng vô thường. Hình thái mà chúng
ta nhận thức được là vô thường, và không nhận thức được cũng là vô
thường. Đôi khi tôi đi ra ngoài nhìn thiên nhiên và quan sát chính mình
đang đứng ở đây, nhìn mặt đất. Tôi đã hỏi chính tôi, “mình đã ngăn cách
mặt đất phải không? Khi tôi rời chỗ này tôi sẽ còn thấy nó không? Chúng
nó vẫn ở đây khi tôi không còn thấy chúng? Ai là người nhận thức về
những điều này?
Tôi cũng làm vài cuộc thí nghiệm với âm thanh, vì những đối tượng của
con mắt có một sự cụ thể nào đó như cái phòng này, nó dường như tương
đối lâu dài, như bạn thấy, ít nhất nó tồn tại hôm nay. Nhưng âm thanh
thì hoàn toàn anicca-thử nắm bắt âm thanh đi!
Tôi quán chiếu âm thanh bằng câu hỏi: “Con mắt có thể nghe nó không? Nếu
tôi cắt đi lỗ tai và màng nhĩ của mình, sẽ còn âm thanh nào đây? Tôi có
thể thấy và nghe một cách chính xác như bây giờ không?” Tất cả những
giác quan và đối tượng của nó là vô thường, những tình trạng thay đổi.
Bây giờ hãy suy nghĩ, “mẹ của bạn ở đâu? Mẹ của tôi ở đâu? Nếu tôi nghĩ
bà ta ở trong gian phòng của bà ta tại California, nó là một khái niệm
trong tư tưởng. Ngay với việc tôi suy nghĩ, “California là “đằng kia”,
đó vẫn là sự suy nghĩ của tâm về “đằng kia”. “Mẹ” là một khái niệm phải
không? Vậy mẹ tôi bây giờ ở đâu? Cô ta ở trong tư tưởng: khi từ “mẹ”
hiện lên, bạn nghĩ từ đó như một âm thanh và nó tạo ra một hình ảnh
trong đầu hoặc là một ký ức hoặc là một cảm giác thích hoặc không thích,
hoặc là vô cảm. Tất cả những khái niệm trong tâm mà chúng ta xem như
thực sự được quan sát. Nhận diện những khái niệm nào tác động đến tâm.
Chú ý sự ưa thích mà bạn có- sự suy nghĩ về những khái niệm nào đó với
sự không ưa thích mà điều khác đem đến. Bạn có những thành kiến và những
khuynh hướng về sự cạnh tranh quốc tế, có tất cả những khái niệm và sự
tăng trưởng khái niệm. Đàn ông có những quan điểm và định kiến nào đó về
phụ nữ, và đàn bà có những quan điểm và định kiến nào đó về đàn ông. Đây
chỉ là những đặc tính cố hữu đồng nhất.
Nhưng trong thiền định, “đàn bà” là một khái niệm, và “đàn ông” là một
khái niệm, một cảm giác, một sự nhận thức trong tư tưởng. Vậy với sự
thực tập về Minh Sát Tuệ, chúng ta đi sâu vào trong sự vật với tất cả
trạng thái thô hoặc tế. Sự chiếu kiến sẽ đập tan những ảo tưởng với
những khái niệm làm cho chúng ta có ảo giác rằng chúng nó là thật. Những
khái niệm này có thể hiện hữu; chúng ta không thể chấm dứt những thứ ảnh
hưởng trong đời sống chúng ta-như thời tiết, kinh tế, chuyện rắc rối của
gia đình, kiến thức, có cơ hội hoặc không có cơ hội. Nhưng chúng ta quán
sát tất cả hoàn cảnh này là vô thường và vô ngã, đây là con đường siêu
việt, vượt qua tất cả chướng nạn với sự giác ngộ về những chướng ngại
đó.
Đức Phật là một bậc đạo sư, ngài ở bên trong chúng ta để nhắc nhở chúng
ta quan sát sự vật vô thường trong mọi hoàn cảnh, và không cho bất cứ
điều gì về chúng như là thực. Khi chúng ta hành động, điều gì xảy đến?
Chúng ta có những cuộc chiến tranh, những cuộc xung đột, những trận đánh
và sự kết thúc rắc rối xảy ra trên thế giới, vì sự hiện hữu của vô minh
khiến những hoàn cảnh này như thực có. Chúng nó gắn liền với thân xác
như một đặc tính đồng nhất. Chúng ta bị hấp thụ vào những biểu tượng và
khái niệm, và với sự hấp thụ đó mà chúng ta phải sinh và tử trong những
hoàn cảnh đó. Sự hấp thụ giống như buộc chặt những gì đang chuyển động,
chẳng hạn như tính tham lam và còn kéo theo sự biến dạng của nó. Thế là
chúng ta sống và chết ở trong khoảng ấy. Nhưng khi chúng ta không trói
buộc mình vào điều gì nữa là chúng ta đang cách xa đau khổ từ sự thay
đổi và sự giới hạn của tình trạng thay đổi đó.
Giống như hiện thời, người ta có thể đặt câu hỏi: “Vậy bạn sống trong xã
hội này như thế nào, nếu mọi thứ là hão huyền?” Đức Phật đã làm sự phân
tích giữa sự thật quy ước và sự thật cuối cùng rất rõ ràng. Trong vị trí
quy ước đối với sự tồn tại, chúng ta dùng những quy ước mang lại sự hài
hòa cho chúng ta và cho xã hội mà chúng ta đang sống. Loại quy ước nào
đem lại sự hài hòa? Làm những điều tốt, điều có ích, đừng làm những điều
gây nên sự bất hòa như ăn cắp, lừa đảo và bóc lột người khác. Có sự tôn
trọng và lòng trắc ẩn đối với sự tồn tại của mọi loài, chú ý, tìm cách
giúp đỡ: tất cả những quy ước này đem đến sự an hòa cho cuộc sống.
Trong giáo lý Phật giáo, theo trình độ của quy ước, chúng ta sống với
cách khích lệ việc làm tốt và kềm chế những hành động có hại đối với
thân và khẩu. Điều này không phải như việc loại ra thế gian pháp “ tôi
chẳng muốn làm gì cả bởi vì nó là một ảo tưởng”- đây cũng là ảo tưởng
khác. Quan niệm rằng quy ước thế gian là một ảo tưởng chính là mắc kẹt
vào một quan niệm khác.
Với sự thực hành, chúng ta thấy rằng quan niệm là quan niệm. “Thế giới
là ảo giác” là một quan niệm, “thế giới không phải là ảo giác” là một
quan niệm khác. Nhưng ngay đây và bây giờ chúng ta biết rằng điều mà tất
cả chúng ta đang giác ngộ là sự thay đổi.Hãy sống trọn vẹn, thực hành
tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm,
ngồi hay làm việc. Dù bạn là nam hay nữ, là thư ký, người nội trợ, người
lao công, nhân viên hành chánh hay bất kỳ ai đó, hãy thể hiện nỗ lực với
sự chú tâm, nên làm điều tốt và kềm chế việc xấu. Đây là cách mà một
Phật tử sống giữa những hình thái quy ước xã hội. Và các bạn không còn
bị đánh lừa bởi tự thân và xã hội, và những sự việc tiếp diễn trong đời
sống. Bởi vì một Phật tử là một nhà khảo sát và nghiên cứu vũ trụ bằng
sự quán chiếu thân và tâm của chính mình.
***