Tập Tu
Lâm Kim Loan
Trong đời
tôi, dường như ngoài việc được (hay bị) má tôi đẻ sớm, trước khoảng thời
gian dự định thường lệ, chín tháng mười ngày cho một bào thai, mọi chuyện
khác đều đến với tôi rất muộn màng. Yêu muộn mà tu cũng muộn!
Sinh ra
trong một gia đình theo truyền thống Lão Khổng, quân xử thần tử thần bất
tử bất trung, « Phu xử phụ tệ, phụ bỏ phu là bất nghĩa »... Tôi lớn
lên theo khuôn thước của nhân nghĩa lễ trí tín, được rèn luyện bằng những
câu ca dao tục ngữ ba má tôi thường ví von. Các mẫu ngụ ngôn, hoặc những
câu chuyện đời nhan nhản xảy ra ở chợ, ở bến xe...là đề tài ba má tôi
đem răn dạy các con . Tôi cũng học từ những lầm lỗi do chính mình sau những
lần ăn roi mây của ba tôi. Những cái lỗi mà đầu óc non nớt của một đứa
trẻ, thích gì làm nấy, dọc phá tìm tòi đủ thứ mới lạ chung quanh. Tuổi mới
lớn, tim óc nguyên khôi như tờ giấy trắng, đâu biết đã có những luật lệ
từ bao đời của ông tổ bà sơ, bậc người lớn... Những định lệ được mệnh
danh vì đạo đức, từ truyền thống, chồng chéo ràng rịt, chận trước ngăn
sau, đè lên đầu lên cổ một tâm hồn vô tư vô tội vạ ! Chuyện yêu thương
trai gái thuở tuổi trăng tròn của chị em tôi, là điều bị ba má tôi cấm kỵ
như một việc gì vô cùng xấu xa, tội lỗi. Tôi còn nhớ hình ảnh chị hai
tôi, nước mắt lã chã, đòn roi tơi tả vì yêu !
Trong gia đình tôi, nhang đèn cúng quảy chỉ rình rang vào những ngày giỗ
ông bà nội ngoại. Phật, Chúa, dường như tôi chỉ nghe người ngoài nhắc đến.
Ngoại trừ câu cầu nguyện « Nam mô Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, cứu
khổ cứu nạn độ chúng sanh », má tôi lẩm bẩm mỗi khi bà chứng kiến một việc
gì đó không may xảy ra, chẳng hạn như khi thấy một tai nạn xe cộ, hoặc
đi ngang qua những người tàn tật ăn xin. Má tôi chỉ xin xỏ Quan Âm. Tôi
chưa bao giờ nghe bà kêu gọi Phật. Riêng đối với một đứa khá ngổ ngáo
như tôi, chỉ tin và để nằm lòng những gì nếm hoặc rờ mó được. Dù lắm lần
nếm phải bao vị đời đầy cay đắng, đôi lần phỏng tay vì thử « lửa » ...
Các kinh nghiệm thực tiển, mắt thấy tai nghe vẫn là những điều tôi lấy
đó làm tin. Phật pháp đối với tôi, là một điều gì vô cùng mơ hồ. Hơn thế
nữa, sáu câu vọng cổ mùi mẫn của « chuyện tình Lan và Điệp », lấy nước mắt
của bao thanh thiếu niên, và nhiều câu chuyện thật mà tôi được nghe lỏm
bỏm, đã cho tôi những ý tưởng rất tiêu cực về Đạo Phật : Vào chùa vì thất
tình, vì chán đời, vì muốn trốn quân dịch...Rồi, cuối cùng Lan chết sau
khi tu !!!.. Cá nhân tôi, từ nhỏ đến lớn, chưa từng tơi tả vì thất tình,
cũng chưa chán quá độ cái cõi đời lắm kẻ chê nầy. Tôi lại là đàn bà con
gái, không phải tòng quân... nên cửa chùa xa tôi thăm thẳm. Tôi không thấy
mình có lý do, không dây mơ rễ má liên hệ nào để bước vào chùa, để tu.
« Áo
mặc sao qua khỏi đầu » là cái câu từ đó tôi bị lấy chồng. « Định mệnh
trong tay ta », « Tận nhân lực mới tri thiên mệnh” ...như ba tôi đã dạy
là những câu tôi lấy làm tâm niệm, theo đó mà tự lực cánh sinh, nên
không bao giờ tôi biết cầu nguyện. Dù thuộc làu câu Quan Thế Âm má tôi
thường dùng, nhưng tôi không áp dụng. Tôi nghĩ Quan Âm ở đâu sẵn để đến
giúp và giúp bằng cách nào? Dịp Tết, tôi và vài người bạn đến chùa xem
thiên hạ đông vui. Tôi đứng nhìn vào chánh điện, ngắm tượng Phật về
phương diện mỹ thuật chứ không lạy Phật. Thiên hạ cầu nguyện nhang khói
mịt trời, lụp xụp lạy tượng. Cả cô bạn tôi cũng lâm râm khấn vái cho cậu
con lười biếng ham chơi được thi đậu...Lúc đó tôi chỉ lắc đầu và thầm
tội nghiệp hy vọng mỏng manh của cô nàng. Phật pháp hoàn toàn không có
mặt trong ý nghĩ của tôi. Cho mãi đến gần cuối năm 2007, sau ngày tôi
mất mẹ, khi tôi đã ở cái tuổi ngoài năm mươi, khi duyên đến, tôi bắt đầu
tập tu, dù tu muộn.
Tôi
phải cám ơn những người ấn tống sách Phật. Chính từ những quyển sách
nầy, tôi đi vào Đạo. Số là, tình cờ sau lần cầu siêu cho mẹ tôi ở chùa,
tôi chọn vài quyển biếu không đem về đọc, lấp cho đầy thời gian cuối
tuần không làm việc, mà cũng không còn mẹ để thăm nom chăm sóc. Lại thêm
các trang Web Phật pháp như web chùa Quảng Đức, web Thư Viện Hoa
Sen...Từ đó, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Nghiệp, Nhân Quả, tinh thần Vô
Thường Vô Ngã Vô Tác, thuyết Mười Hai Nhân Duyên, lục độ Ba La Mật,
tánh Không...cuốn hút tôi như nam châm. Tôi bắt đầu đi chùa, nhìn tượng
Phật bằng cái nhìn khác hơn và bắt đầu lạy Phật. Lạy với đầu cúi xuống
thật thấp, thoạt đầu, tôi nghĩ là mọi người tỏ lòng kính phục Phật,
người đã dám từ bỏ nhung lụa vàng son, sống đời khổ hạnh để tìm ra những
nguyên lý giải khổ cho nhân loại. Cúi đầu đụng đất, nghĩa là phục sát
đất. Sau nầy, khi rõ hơn, lạy Phật không nông cạn như tôi đã hiểu trong
những tháng cuối năm 2007. Tôi phục Phật, không phải phục vừa vừa, mà
phục lăn một trí tuệ siêu việt kèm theo lòng từ bi mênh mông không ngằn
mé đối với chúng sanh.
Nhà tôi
ở gần chùa Pháp Bảo. Hơn hai mươi năm lái xe đi làm qua lại ngang chùa,
qua lại thờ ơ ! Lâu lắm rồi, có một lần tôi vào thư viện chùa định mượn
sách về đọc, xui rủi hôm ấy thầy có chuyện gấp nên phải khoá thư viện.
Lúc đó trái tim dễ xúc động kèm theo lòng tự ái ngút trời của tôi bị tổn
thương kha khá. Tôi thầm nghĩ : « Bộ ông Sư sợ mình chôm sách hay
sao ? ». Lần khác, tôi đến một chùa nọ định hỏi đôi điều về đời và đạo,
thì lại gặp giờ các thầy nghỉ trưa ! Tôi thiết nghĩ : công viên chức,
những ngươì lao động mệt ứ hự, mệt tóe khói thì cần nghỉ trưa để đở quạu
với bần dân, hoặc để phục hồi sức lực. Cửa chùa luôn rộng mở và các thầy
nhàn hạ, sao không thể có một thầy thức trực để đón một vài người muốn
« bỏ tà quy chánh », cho nhân gian bớt một kẻ khổ đau?! ..Thôi thì, cái
đầu câu nệ của tôi được dịp dèm pha, phê phán về sự ngủ nghỉ kỷ lưỡng
của các thầy!
Khi cái
duyên chưa đến thì như thế đấy ! Và khi duyên đến thì phật tử sơ cơ nầy,
trong thời gian ngắn từ khi biết đạo, đã quay một góc 180 độ. Quy y Tam
Bảo Phật Pháp Tăng và tháng Năm, 2008. Tôi như căn nhà tối om om được
sao xẹt, như bé Alice được lạc vào wonderland đầy kỳ hoa dị thảo. Tôi
hồ hởi thưởng thức Đạo Phật bằng hết thảy sáu căn : mắt nhìn Phật (
không phải tượng) bằng tất cả lòng thương kính. Mũi ngửi hương nhang và
hoa quả trên chánh điện. Tai nghe chuông mỏ, kinh kệ. Lưỡi nếm thường
xuyên các món chay ngon đáo để trong chùa ( người ta thường nói ăn chực
ngon hơn ăn nhà). Thân lạy sùm sụp, ngồi bán kiết già vừa mỏi vừa tê (
là thế ngồi mà, dưới mắt nghề nghiệp, rất ư là không nên, trên phương
diện cơ thể học và sinh lý học). Ý tâm đã bớt vô minh ngu độn với tham
chấp của thế gian, dù tôi vẫn là kẻ phàm chính cống.
Khi
nghiệp chướng trả dần thì phước duyên đến ào ào. Tôi đã được tham dự Lễ
An Cư Kiết Hạ của các Tăng Ni vào tháng Bảy năm nay tại chùa Linh Sơn,
tiểu bang Melbourne. Đó là lần đầu tôi nghe tên Kinh Pháp Hoa ( Diệu
Pháp Liên Hoa), và được các Thầy giảng một mạch hết 28 phẩm trong mười
ngày ngắn ngủi. Trong kinh nầy Phật cho biết ai ai trong kiếp người đều
có Phật tánh ẩn tiềm. Phật Thích Ca chỉ là thể hiện của Phật đã thành từ
vô lượng kiếp, giáng trần để cứu độ chúng sanh trong cõi ta bà đầy khổ
đau, vật vả với vô minh và tham ái. Tôi bắt đầu chùi sáng viên ngọc Phật
đã từ bi trao tặng. Càng phủi bớt bụi trần, càng xa rời những thể loại
được xem là thú vui hạnh phúc của thế nhân, thêm thì giờ trầm mặc, tôi
càng thấu hiểu và thưởng thức một loại hạnh phúc tự tại tuyệt vời.
Tháng
Mười Một vừa qua, tôi lại đủ duyên được tham dự chuyến hành hương Phật
Tích, Tứ Động Tâm vùng Bắc Ấn, một chuyến đi thật động tâm, do Thầy
Thích Nguyên Tạng của chùa Quảng Đức Melbourne và đạo hữu An Hậu Tony
Thạch tổ chức. Một đoàn người khoảng trăm mạng, trong đó có Phật Tử mới
tinh, mới cắt chỉ nầy. Đầu năm ngoái tôi đã đặt chân đến Mumbai, thành
phố thịnh vượng nhất của Ấn Độ. Tôi mang về một ấn tượng Bombay với
những tà sari đầy màu sắc và nạn nhân mản của thế giới. Chẳng bù lần
nầy, hướng về Lâm Tì Ni ( Lumbini) nơi Phật đản sanh. Bồ Đề Đạo Tràng (
Bodhgaya) với Khổ Hạnh Lâm, nơi Phật sáu năm tu hành xác trong một động
nhỏ được tượng trưng bằng một hình vóc ốm đói xanh xao, và Kim Cang Toà
Bồ Đề, nơi Phật toạ thiền bốn mươi chín ngày đắc đạo. Thành phố Varanasi
linh thiêng với sông Hằng, Vườn Lộc Uyển ( Sarnath) nơi Phật chuyển Pháp
Luân đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như về triết lý Tứ Diệu Đế và Bát
Chánh Đạo. Thành Tỳ Xá Ly ( Kusinnagar) nơi Phật nhập Niêt Bàn. Ngoài ra
đoàn còn được viếng thăm các danh tích khác như núi Linh Thứu, Trúc Lâm
Tịnh Xá, Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, đại học Na Lan Đà, các Bảo Tháp những
Đệ Tử lỗi lạc của Phật như Ananda, Xá Lợi Phất... và các chùa Việt Nam.
Ấn tượng là đoàn hành hương gần trăm phật tử với áo tràng chỉnh tề, từng
bước từng bước đều đặn, miệng niệm nam mô đồng loạt, thiền hành quanh
các Phật tích. Những lời cảm tưởng hòa nước mắt của các đệ tử bộc bạch
với thầy trưởng đoàn và phái đoàn. Bụi, ăn mày đủ hạng tuổi, ổ gà đầy
đường, những con bò ốm đói...cũng là những hình ảnh tôi mang về Sydney.
Tôi còn đem về đôi ba điều, mà có lẽ, sống mang theo, chết cũng mang
theo : Ngũ ( không phải Tứ) Động Tâm nằm gọn ghẻ trên mười đầu ngón tay
tôi của hai bàn tay chụm lại. Vườn Lâm Tì Ni, nơi Phật giáng sinh ( hai
đầu ngón tay cái). Khổ hạnh lâm ( hai đầu ngón trỏ). Bồ Đề Đạo Tràng (
hai đầu ngón giữa). Vườn Lộc Uyển ( hai đầu ngón áp út) và Thành Câu Ti
Na ( hai đầu ngón út), nơi Phật nhập Niết bàn. Tôi còn mang thêm hành
trang khác cũng không kém phần quan trọng. Đó là những lời nhắn nhủ chân
thành và đầy tình của Đức Đạt La Lạt Ma : Các bạn và tôi có cùng một
ông Thầy ; mỗi ngày hãy tu tập hành thiền để làm rõ thêm Phật tánh trong
ta ; là những người lưu vong,chúng ta hãy cố gắng duy trì văn hoá dân
tộc mình ...
Những
ngày đầu trở về Sydney, mỗi lần chắp tay lạy Phật hoặc niệm Phật thiền
hành, lòng tôi lại cuồn cuộn nổi trận phong ba. Nước mắt tha hồ rơi trên
tay, trên áo. Tưởng chừng mình vẫn đang thiền hành quanh tượng Phật nằm
nhập diệt ở Câu Ti Na, như đang chắp tay dưới cội Bồ Đề ở Bồ Đề Đạo
Tràng, nơi thầy Nguyên Tạng đã cắt chút tóc của tôi và một số đạo hữu
trong Lễ Thế Phát....Những lần đi Bụi ( bushwalk), gió núi lồng lộng ở
công viên quốc gia (National Park) ở miền Tây Sydney, mà tôi vẫn tưởng
như mình còn nấn níu ngồi lại đỉnh núi Linh Thứu, nơi Phật giảng tuyệt
kinh Pháp Hoa mấy ngàn năm xa xưa!....Có lần thầy Nguyên Tạng kể cho
phật tử trong đoàn nghe: « Khi người ngồi cạnh trong chuyến bay đến
Ấn Độ hỏi thầy đi đâu. Thầy bảo là thầy trở về quê hương. Người đó ngạc
nhiên vì thấy thầy mặt mủi không giống người Ấn chút nào. Thầy nghĩ là
thầy đang trở về quê Đấng Từ Phụ ». Lòng tôi vẫn bồi hồi xúc động
khi lập lại lời nói nầy của Thầy trưởng đoàn. Tôi nghĩ cả đoàn hành
hương, dù mỗi người chia tay mỗi nẻo, trở về cuộc sống thường nhật áo
cơm, nhưng những giọt nước mắt lóng lánh, giọng nói nghẹn ngào của tình
thật sâu, nghĩa thật đầy... đã để lại, mang về, tất cả dấu tích, kỷ niệm
thiêng liêng từ đất linh Từ Phụ.
Tôi đi
vào biển đạo mênh mông thật trể muộn cho một đời người, tóc đã hoa râm.
Văn tự kinh điển tràn ngập qua các sách ấn tống, qua internet. Điều nào
thắc mắc thì tôi ghi lại hỏi Thầy. Ngón tay chỉ mặt trăng. Thoạt đầu tôi
nghĩ, ngón tay tượng trưng cho Thầy và mặt trăng là Phật Pháp. Bây giờ,
tôi hiểu ngón tay là Pháp, mặt trăng là sự giác ngộ của chính mình. Một
lúc nào đó, có lẽ ngón tay sẽ vô hình và trăng cũng không tướng...
Tôi tập
ngồi thiền như một cách để kỷ luật cái tâm chạy rong lan man đã mấy chục
năm trong cõi trần ai. Tôi không còn hối hả như bị ma đuổi vì đã hiểu về
tính Vô Thường của đời sống và tánh Không của sự vật. Buông và bỏ dễ
dàng hơn qua những bài học Tham Sân Si. Cái nhìn giữa ta và người được
thay đổi và hổ trợ bởi tinh thần Vô Ngã và tâm Từ Bi như Phật đã dạy...Cứ
thế tôi rèn mình, dù người đưa ra giáo lý vi diệu nầy đã xa tôi thật xa.
Sau chuyến hành hương, khoảng cách thời gian và không gian giữa Thầy và
Đệ Tử đã được thu ngắn, thật ngắn. Và những ngày tháng nầy, tôi dành nhiều
thì giờ hơn cho một việc : Tập tu.
Sydney, Tháng 12-
2008
***