Thân Cận Người Trí
HT. Thích Trí Quảng
(
Bài giảng khóa tu Một ngày an lạc lần thứ 36 tại chùa Phổ Quang ngày
03-09-2008)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng người tu muốn giải thoát
phải từ bỏ quyến thuộc ngu si, thân cận người trí, nhiếp niệm ở núi rừng,
thường nghĩ đến Phật. Có người hiểu lầm rằng từ bỏ quyến thuộc ngu si là
từ bỏ gia đình. Nói tới gia đình hay cha mẹ, Phật giáo ngày báo hiếu
trong mùa Vu Lan, theo đó Đức Phật dạy chúng ta cần ghi nhớ bốn ơn, mà
công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ là ơn lớn nhất không được quên.
Cha mẹ sanh thành khác với cha vô minh, mẹ phiền não. Như vậy, từ bỏ
quyến thuộc ngu si nói cho đúng là từ bỏ vô minh phiền não và thân cận
người trí chỉ cho thiện tri thức, không thân cận thầy tà bạn ác. Nho
giáo cũng dạy rằng sanh ta là cha mẹ, dạy dỗ chúng ta là thầy bạn. Không
có cha mẹ thì chúng ta không thể có thân nay và không có thầy bạn, chúng
ta không nên người.
Ý thức
rằng cha mẹ vô minh phiền não và thầy tà bạn ác dẫn chúng ta vào đường
tội lỗi, chúng ta nghĩ đến thầy hiền bạn tốt và gần gũi những người này,
mới nghe được lời dạy đúng đắn, giúp chúng ta thành đạt trong cuộc sống.
Thành đạt có hai hướng, thành đạt theo người thế gian là học hành đỗ đạt,
làm quan, làm tướng, làm nhà kinh doanh phát đạt, v.v… thì cũng tốt;
nhưng sự thành công này chỉ giả tạm, nhất thời mà thôi, nay thành mai
bại, ở trong sự thành đạt sinh diệt của thế gian vô thường.
Sự
thành đạt mà người đệ tử Phật cần thấy biết, quan tâm và hướng tời là
các bậc tam hiền tứ quả giải thoát; vì mục tiêu của chúng ta là phấn đấu
trên bước đường tu là phải đạt được sự giải thoát như các Ngài. Thật vậy,
người trí là hàng tam thừa tứ quả đã giải thoát. Tam thừa là Thanh văn,
Duyên giác và Bồ tát. Tứ quả của Thanh văn là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A
na hàm và A la hán. Tứ quả của Bồ tát là hàng Bồ tát thập trụ, Bồ tát
thập hạnh, Bồ tát thập hồi hướng và Bồ tát thập địa.
Vì
vậy, sự thành đạt của chúng ta là thân cận, học hỏi và gặt hái được
những tinh ba của pháp mầu từ các bậc trí nhân là hàng tam thừa tứ quả
giải thoát Tăng. Từ tiêu chuẩn như vậy, chúng ta nhận thấy nếu là hàng
Thanh văn, thì tối thiểu phải được giải thoát để chúng ta học theo.
Nghĩa là họ không bị sự ràng buộc của thân xác và tinh thần, mà chúng ta
có thể học với họ thành quả giải thoát đó. Còn người thực sự thành đạt
theo thế gian như những chính trị gia, thương gia, hay đại gia, mặc dù
họ nắm quyền lực tối cao về chính trị hay kinh tế, nhưng chúng ta nhận
thấy cuộc sống họ toàn là khổ cộng thêm khổ, luôn bị mất ăn mất ngủ,
nhức óc, mệt tim, v.v… vì phải tính toán, đối phó đủ thứ. Khi chưa thành
đạt, họ phải cố tranh thủ cho được; khi thành đạt rồi thì họ phải cố giữ
gìn, bảo vệ, thậm chí còn muốn bành trướng hơn nữa và đến khi mất mát,
họ tuyệt vọng, khổ đau. Cuộc sống thành đạt theo thế gian như vậy, chúng
ta không muốn đi theo. Thực tế lịch sử đã cho thấy người thành đạt cao
nhất thế giới như nhà độc tài Hitler, ông đã huy động được sức mạnh của
toàn nước Đức để tấn công các nước lân cận một cách dễ dàng, nhưng cuối
cùng chấm dứt thế chiến thứ hai, ông phải chết thê thảm. Hoặc Sada
Hussein từng được coi là người hùng để rồi bị treo cổ kết liễu cuộc đòi.
Sự thành đạt về chính trị như vậy thật đáng sợ. Ở đất nước chúng ta, có
một thời những người thành đạt về kinh tế nổi tiếng như Minh Phụng,
Nguyễn Văn Mười Hai, hoặc Năm Cam, nhưng cuộc đời của họ đều kết thúc
một cách thê thảm. Chúng ta gạt sang một bên, họ không phải là người trí
mà chúng ta muốn thân cận.
Người
trí mà chúng ta muốn thân cận không bị vật chất và tình cảm chi phối.
Một nhà hiền triết Ấn Độ đã nói rằng con người chỉ đáng tôn quý khi họ
chinh phục được nội giới và ngoại giới. Chinh phục được ngoại giới giống
như các nhà khoa học chinh phục được các hành tinh, đạt được hiểu biết
lớn lao. Nhưng chinh phục được nội giới của các nhà tu hành, như diệt
trừ được tham vọng thì càng vĩ đại hơn gấp bội.
Như
vậy, chúng ta có quan sát và suy nghĩ về việc làm của người trí để thân
cận. Người thắng được thiên nhiên bên ngoài theo Phật là đã được quả vị
Tu đà hoàn, tức vượt được sự hàn nhiệt cơ khát, không bị vật chất chi
phối. Trong khi người giàu có theo thế gian tuy cuộc sống dư thừa của
cải, nhưng họ luôn bị vật chất lẫn tình cảm tác hại, bị phiền não quấy
rầy. Thực tế chúng ta thấy các vị Thánh La Hán không có tiền, không có
vật dụng, thậm chí không lệ thuộc miếng ăn, một ngày một bữa cơm đạm
bạc, hoặc hai, ba ngày dùng một bữa cũng không sao, lúc nào họ cũng an
lạc, giải thoát.
Chúng
ta tu học cần thân cận những người có đời sống thanh thoát như vậy.
Riêng tôi hành đạo được đến ngày nay nhờ biết gần gũi người tu không đặt
nặng việc ăn, mặc, ở và được giải thoát. Họ không lệ thuộc đói khát, vì
đã chinh phục được thân tứ đại, làm chủ được thân tứ đại, thực tế là cả
ngày họ không cần uống nước, hoặc không ăn vài ngày cũng khỏe mạnh như
thường. Có vị làm việc không mệt, không cần ngủ là đã chinh phục được
ngoại giới. Tôi cố gần gũi học hỏi để biết vì sao họ có cơ thể kỳ diệu
mà mình thực tập theo.
Về nội
giới, Đức Phật dạy chúng ta tu 37 trợ đạo phẩm và từng bước đi lên. Đối
với nội giới, tâm là chính yếu. Tâm có chơn tâm và vọng thức. Chinh phục
nội giới là chinh phục được vọng thức. Vọng thức chủ yếu là do sáu căn
tiếp xúc với sáu trần sanh ra hiểu biết của con người. Tuy con người
hiểu biết hơn các loài khác, nhưng Đức Phật dạy rằng hiểu biết này không
chính xác và thường gây phiền toái cho chúng ta. Vì vậy, người ta thường
nói thà không biết còn hơn, hoặc biết ít thì khổ ít, không biết thì
không khổ. Người khác làm gì, mình không bận tâm; vì cái biết về người,
về việc của người khiến mình bắt đầu phân biệt, phê phán và tự đau khổ.
Thiết nghĩ họ làm gì là việc của họ, chẳng liên quan gì đến ta, nhưng
tại sao ta lại tự rước lấy cái khổ, quả là đáng thương hại!
Chinh
phục ngoại giới là vượt qua được hay làm chủ được bốn việc: đói, khát,
nóng, lạnh; nhưng chinh phục nội giới là chinh phục được tình cảm của
chính mình, tức tình cảm ủy mị, lúc nào cũng buồn, giận, lo, khổ.
Đi vào
cửa Phật, Tu đà hoàn thuộc cấp bậc thấp nhất trong hàng đại trí, đã
thoát khỏi sự chi phối của hàn nhiệt cơ khát và an trụ pháp Không, tức
nhân không, pháp không và tất cánh không. Tâm họ vắng lặng, vì thấy biết
rõ thế giới sanh diệt, nên không bận tâm và hướng về vô sanh, trở về
chơn tâm. Khi sống với chơn tâm mà nhìn ra thế giới sanh diệt, thấy tất
cả mọi người đều đáng thương.
Trong
kinh Hoa Nghiêm đưa ra hình ảnh Tỳ kheo Hải Vân nhiếp niệm ở núi rừng,
tức ngôi yên, vắng lặng và quán sát biển khổ trần gian, thấy đủ các loại
hình chúng sinh đang bị dày xéo bởi vô số khổ đau, quy lại là khổ đau
xuất phát từ tham vọng của con người. Ngài thấy rõ không có khổ, hay
không đáng khổ, nhưng chúng sinh tự tạo khổ cho họ, thì thật vô lý, đáng
thương hại. Nói cụ thể như quý vị tu hành ở đạo tràng này, chắc chắn
không khổ gì cả, không phải lo lắng gì cả, buổi trưa có người phục vụ
tận nơi cơm ăn, nước uống. Nhưng giả sử một người nào đó đang ở trong
đạo tràng này, lại khởi nghĩ rằng phải như thế này như thế kia thì họ đã
tự làm khổ bằng chính vọng tường điên đảo của họ.
Bậc
trí trụ ở chơn tâm mà quán vọng thức, hay ở vô sanh nhìn sanh diệt, là
đã đi vào lộ trình Phật dạy, sống với một phần trí tuệ của Phật. Vì vậy,
đối với người tu, trí tuệ là sự nghiệp của đời họ. Trên bước đường tu,
đương nhiên họ phải nhờ thiện tri thức khai ngộ, nhưng phát xuất từ thật
trí, tức sự thấy biết từ vô sanh. Nếu chúng ta thân cận được người trí
như vậy, mặc dù sống ở Ta bà nhiều khổ đau, chúng ta cũng cảm thấy an ổn
và tiến tu được.
Bậc
trí trụ an trú pháp Không là không sanh diệt, hay vô sanh. Ở dòng thác
trí tuệ của vô sanh quán sát, thấy rõ có hai thế giới: thế giới sanh
diệt và thế giới không sanh diệt. Thế giới sanh diệt với đầy đủ thiện và
ác, thiện của sanh diệt và ác của sanh diệt. Và nếu ở vô sanh mà nhìn
thế giới sanh diệt, thì gọi đó là giấc mơ, vì con người hiệu hữu và sinh
hoạt trong thế giới sanh diệt chẳng khác gì người đang ở trong giấc mơ
thấy mình làm đủ thứ việc to tát, nhưng đến khi thức dậy, mọi việc làm
trong giấc chiêm bao đều không còn. Nhận ra yếu nghĩa này, chúng ta phát
hiện rằng những người tu trên sanh diệt thì thì sanh diệt chấm dứt, coi
như không tu, vì tu trong chiêm bao. Thí dụ cho dễ hiểu, thuở nhỏ tôi
chiêm bao thấy mình đi thỉnh kinh ở Ấn Độ, nhưng thức dậy, tôi vẫn là
cậu bé tay không, hoặc mơ thấy mình lên trời, bay được, nhưng tỉnh dậy
vẫn là con người phải đi trên mặt đất.
Trên
bước đường tu, bắt đầu phát hiện, thấy biết việc thiện ác của sanh diệt,
chúng ta bỏ việc ác, làm việc thiện, tức tu tứ chánh cần, thức hiện bốn
điều là việc thiện chưa làm thì phải làm, việc ác chưa làm thì không
được làm, việc thiện đã làm thì làm phải làm nhiều hơn, việc ác đã làm
thì phải dứt bỏ. Tuy nhiên, đó chỉ là phương tiện của Như Lai ở giai
đoạn đầu mà thôi. Còn diệt được “cái sanh diệt” mới là việc quan trọng
thật sự của người tu.
Thật
vậy, kinh Niết Bàn dạy rằng sanh diệt diệt thời tịch diệt vi lạc, nghĩa
là sanh diệt chấm dứt thì ở trong tịch diệt mới được an lạc. Vì tất cả
việc làm trong thế giới sanh diệt đều chỉ có giá trị tương đối, thậm chí
việc thiện trong sanh diệt đôi khi cũng trở thành ác. Ví dụ giúp cho
người lười biếng không chịu làm việc, chỉ thích ngửa tay xin, là ta đã
tiếp tay cho họ tăng thêm tánh ăn bám, lợi dụng và làm mất ý chí phấn
đấu của họ. Giúp đỡ người khác như vậy việc thiện này đã trở thành ác.
Đi về
vô sanh, tức sanh diệt hết, thì nguồn vui hiện hữu ở thế giới tịch diệt,
là đã qua thế giới Thiền định; lúc bấy giờ, vô sanh là thiện, sanh là
ác. Thực tế cho thấy biết bao nhiêu người tốt trên cuộc đời này trải qua
một khoảng thời gian, họ trở thành xấu, hay nói cách khác, người đời hết
làm thiện thì làm ác, sinh hoạt trong sanh tử luân hồi là như thế. Vì
vậy, Đức Phật dạy phải chấm dứt sanh diệt mới có tịch diệt an lạc.
Từ quả
vị Tu đà hoàn, Phật dạy hàng Thanh văn tiến lên một bậc là Tư đà hàm,
lấy tâm tịch diệt là chính yếu. Tâm tịch diệt là thiện, tâm sanh diệt là
ác, vì tất cả mọi việc làm của chúng ta ở thế giới sanh diệt đều là làm
trong chiêm bao, thức dậy là hết. Vì vậy, bậc Tư đà hàm là người trí ở
quả vị thứ hai của Thanh văn thường sống trong Thiền định, lấy tâm vô
sanh làm thiện, còn tất cả tâm snah diệt là ác, cho nên việc thiện của
thế gian thuộc sanh diệt cũng không cần thiết đối với họ.
Hai
bậc Tu đà hoàn và Tư đà ham đi thuận chiếu từ sanh tử về Niết bàn, nhưng
lên bậc thứ ba, tâm họ bắt đầu xả ly, không vướng mắc gì cả. Kinh gọi họ
thường vào ra sanh từ, tức là vào ra sanh tử ở cửa tâm. Nói cách khác,
trong một niệm tâm có bao nhiêu lần sanh diệt thì người thực tập Thiền
quá nhận ra được. Từ vô sanh hiện sanh và từ sanh về sanh diệt, họ đang
thực tập trên lộ trình này và lên đến đỉnh cao nhất, họ trụ được ở Ngũ
tịnh cư Thiên. Thế giới này có năm đặc tánh là vô phiền, vô nhiệt, thiện
kiến, thiện hiện và sắc cứu cánh.
Khi
tâm chúng ta thâm nhập vào thế giới này thì không có phiền não, không có
bực tức, nhìn cuộc đời chính xác rõ ràng, thấy như thực, cuối cùng quán
sát được cùng tột của sắc chất gọi là sắc cứu cánh. Thuở nhỏ, họ điều
này thấy khó hiểu, nhưng trải qua quá trình tu hành, tôi nhận thấy sự
quán sát để đạt được sắc cứu cánh có nghĩa là chúng ta dùng tâm để phân
tích, chia sẻ vật nhỏ lần cho đến nhỏ nhất, chỉ còn là một vi trần mà
mắt không thấy, nhưng tâm thấy được. Ví dụ ở trên núi Thị Vải, tôi thấy
ánh sáng xuyên qua cành cây thấy trong không khí có vô số hạt bụi nhỏ li
ti, đó là vi trần mà mắt thấy được vì có ánh sáng từ trên cao rọi xuống.
Trong
kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật nói rằng: trong cực vi đầu sợi lông xuất hiện
trang nghiêm đủ ba cõi, mười phương trần sát các đầu lông, tôi đều thâm
nhập để nghiêm tịnh. Đó là cái thấy của Phật, thấy siêu tuyệt, thấy thế
giới nhỏ đến mức bằng đầu sợi lông mà có chứa đủ cả ba cõi và Ngài thâm
nhập vào mười phương thế giới đó. Dĩ nhiên là Phật thấy bằng tâm và thâm
nhập các thế giới cực vi đó cũng bằng tâm.
Ngày
nay, cái cực vi được gọi là hạt nguyên tử có điện tử dương và điện tử âm
chạy xung quanh. Đức Phật nói rằng trong một vi trần có bảy ngưu mao đầu
trần, trong một ngưu mao đầu trần có bảy thố mao đầu trần ( lông con thỏ
), trong thố mao đầu trần có bảy ngân trần, trong mỗi ngân trần có bảy
kim trần. Đức Phật quán sát sự hình thành thế giới, chia chẻ qua bảy lần
bảy như vậy, đồng với Đức Phật nhập định trong 49 ngày và quán sát đến
tận cùng ở trạng thái kim trần, gọi là sắc cứu cánh, thì thấy thân chúng
ta và thân chúng sinh cùng với vật chất vô tình bên ngoài đều biến thành
không, hay tất cả đều là một.
An trụ
ở sự chứng ngộ như thế, đạt được thân và tâm tự tại, chứng quả vị A na
hàm là hạng người trí thứ ba, tâm thăng hoa, mở rộng và cuối cùng lên
đỉnh cao chứng được từ một Thất Bồ đề phần, tức bảy phần giác ngộ của
Phật và kiểm tra được từ một đến bảy phần này qua lại bảy lần là con số
49 tiêu biểu cho vũ trụ quan của Phật giáo.
Từ thế
giới tu chứng của A na hàm trở lại cuộc đời, thể nghiệm được Bát chánh
đạo trong cuộc sống. Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định là tám điều mà vị
Thánh A la hán thành tựu. Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A na hàm thuộc Hiền
vị.
Nếu
chúng ta có phước duyên được sống gần những vị Hiền thánh của Thanh văn
là bậc trí huệ thì tâm sẽ hoàn toàn được an ổn và không bị vật chất chi
phối, vì thấy không đòi hỏi vật chất nên chúng ta thực tập theo thầy,
cũng không lệ thuộc vật chất. Bậc trí của Thanh văn hay nhị thừ là như
vậy. trong khi bậc trí của Bồ tát, sự chứng ngộ ở mức độ cao hơn và lên
đến đỉnh cao nhất là Nhập Bất tư nghì giải thoát cảnh giới của kinh Hoa
Nghiêm.
Tóm
lại, Đức Phật giới thiệu các bậc trí trong kinh điển Nguyên thủy, Nikaya
cho đến các bậc trí trong kinh Bát Nhã, kinh Phổ hiền để chúng ta thân
cận, học theo và nỗ lực thực tập cho đạt kết quả tốt đẹp trong cuộc sống
của chính mình, không phải thân cận học theo trí thế gian để bị vướng
mắc mãi trong vòng sanh tử luân hồi khổ đau.
Nguồn: Báo Giác Ngộ số 468
--- Cám ơn Tịnh Tú đã gởi bài này ---
***