THÀNH ĐẠO theo tinh thần THIỀN
TÔNG
Thích Thông
Huệ
Sau khi vượt thành xuất gia, Sa môn Cù Đàm trải qua 5
năm lặn lội học đạo và 6 năm khổ hạnh nơi rừng già, mục đích tìm ra con
đường thoát ly sinh tử. Ngài đã thọ giáo nơi các Tiên nhân nổi tiếng như
Kalama, Ramaputta, đã đạt đến trình độ tâm linh như các vị ấy. Tuy nhiên,
Ngài biết rằng ngay ở cõi Trời cao nhất là Phi tưởng Phi phi tưởng, cũng
chưa phải là cứu cánh giải thoát vì còn trong Tam giới.. Cuối cùng Ngài
nhận ra rằng, chỉ nên tìm học ở ngay chính mình chứ không tìm cầu bên
ngoài mà được. Miệt mài thiền định dưới cội Tất bát la, Ngài chứng quả
vị tối thượng vào đêm thứ 49, khi sao Mai vừa mọc. Từ đó, Sa môn Cù Đàm
trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và đêm lịch sử ấy được gọi là Đêm
Thành Đạo.
Vậy thế nào là “Thành Đạo”?
Theo nghĩa thông thường, đạo là con đường, như “độc
đạo” là con đường duy nhất. Đạo cũng có nghĩa là “đường lối, nguyên tắc
mà con người có bổn phận giữ gìn và tuân theo trong cuộc sống xã hội”(*).
Trong tôn giáo, Đạo vừa là một tổ chức quản lý, vừa là nội dung học
thuyết của tôn giáo ấy, như Đạo Phật, Đạo Thiên Chúa, Đạo Hồi... có tổ
chức Giáo Hội và hệ thống giáo lý hướng dẫn môn đồ tu hành. Bài pháp đầu
tiên Đức Phật dạy cho năm anh em Kiều Trần Như là Tứ Diệu Đế, trong đó
chi phần sau cùng là Đạo đế. Đó là phương pháp chân chính, có hiệu quả
chắc chắn đưa hành giả đến cảnh giới an lạc, giải thoát sinh tử.
Với những ý nghĩa trên, đạo bị lệ thuộc bởi ý thức
nên vẫn còn trong vòng đối đãi: Ví dụ Đạo làm người thay đổi theo tập
quán của từng vùng miền, theo từng thời kỳ, từng xu hướng xã hội. Ở các
nước phương Tây, con đến tuổi thành niên thường ra ngoài sống tự lập,
cha mẹ già bị đưa vào Viện Dưỡng Lão; nhưng người Đông phương thì quan
niệm “Tam tứ đại đồng đường” (Ba bốn đời ở chung một nhà) là phước đức
của gia đình. Ngày xưa, phụ nữ theo lễ giáo tam tùng tứ đức, chỉ biết
việc nội trợ hầu hạ chồng con; nhưng ngày nay, phụ nữ tham gia việc
chính trị, kinh tế, khoa học cũng thành công không kém nam giới. Trong
giai đoạn đầu hoằng pháp, Đức Phật dạy về Ngũ thừa(**), tựu trung là
tránh ác làm thiện, bỏ phiền não cầu an lạc, giải thoát sinh tử tu chứng
Niết bàn. Như thế, còn phân biệt việc xấu dỡ phải tránh, điều thiện lành
phải làm, sinh tử là điều đáng chán và Niết bàn là cảnh giới thanh tịnh
đáng hướng về.
Riêng đối với nhà Thiền, Đạo có thêm một ý nghĩa khác,
một chân trời khác. Trong hội Linh Sơn, khi Đức Phật cầm cành sen xanh
giơ lên, dùng đôi mắt màu sen xanh nhìn quanh đại chúng, tất cả đều ngơ
ngác, chỉ riêng Tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Đức Phật ấn chứng cho Tôn giả
trở thành Sơ Tổ Thiền tông từ lúc ấy. Thiền sinh Nghĩa Huyền trong pháp
hội Tổ Hoàng Bá, một hôm hỏi Tổ “Thế nào là đại ý Phật pháp?”. Tổ
không trả lời mà đập cho một gậy. Ba lần thưa hỏi, ba lần đều bị
đánh. Đến khi ngộ đạo qua Hòa thượng Đại Ngu, Ngài Nghĩa Huyền trình
kiến giải bằng.... một cái thoi vào hông người khai thị! Và tông Lâm Tế
do Ngài khai sáng truyền mãi không dứt cho đến ngày nay. Có phải chăng,
Đạo trong nhà Thiền biểu hiện bằng một cành hoa, bằng những cái đánh,
bằng lời nói thoạt nghe không có nghĩa lý gì? Và có phải chăng, “Thành
đạo” là có một cái Đạo để thành tựu; trước khi tu ta không có, khi tu
đến mực độ chín muồi thì Đạo sẽ hiện ra? Lúc chưa thành đạo, ta là kẻ
phàm phu; khi thành đạo rồi, ta biến thành con người khác hẳn với hình
tướng thoát tục, hào quang sáng ngời? Hẳn nhiên, không thể hiểu theo sự
tưởng tượng bay bổng như thế.
Phật dạy, tất cả chúng sanh đều có tánh giác, tức bản
tâm chân thật vượt mọi đối đãi. Tánh giác bình đẳng ở muôn loài, hiển lộ
qua sáu căn. Khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng... mà không khởi niệm phân
biệt đẹp xấu hay dỡ, thì tánh giác hiện tiền, không phải tìm cầu đâu xa.
Chạm mắt tức Bồ đề là như thế. Phàm phu chúng ta luôn chạy theo ngoại
trần, tạo nghiệp thiện ác rồi quanh quẩn trong sáu đường sinh tử, nhà
Phật gọi là phan duyên. Ngược lại, Nhị thừa sợ ngoại trần lôi kéo nên
tìm mọi cách tránh duyên, đè nén vọng tưởng. Bồ tát không sa vào hai cực
đoan ấy. Các Ngài biết rõ các duyên không thật có, nên vì chúng sanh mà
thị hiện vào các cõi, trục loại tùy hình, tùy duyên hóa độ. Các
Ngài không phan duyên, không tránh duyên mà liễu tri các duyên, đồng
thời nhận ra cái chân thật hằng hữu, bình đẳng tuyệt đối, nơi Thánh
không thêm nơi phàm chẳng bớt. Cái chân thật ấy không có hình tướng nên
không thể nắm bắt, không phải sản phẩm của ý thức nên không thể tưởng
tượng hay diễn tả, không thể tìm trong sách vở Kinh lục hay giải quyết
bằng cách tranh biện luận đàm. Nó chính là mình nên không tìm thấy bên
ngoài mà chỉ nhận ra bằng trực giác, khi tâm thanh tịnh mà hằng tri. Tùy
theo tính chất, diệu dụng và cảm nhận của người thực chứng mà gán cho
một tên gọi (Phật tánh, Chân tâm, Ông chủ, Bản lai diện mục...), thật sự
nó không có tên. Và ở đây, chúng ta gọi đó là ĐẠO.
Ngày xưa, Thiền sư Văn Hỷ tìm Bồ tát Văn Thù trên Ngũ
Đài Sơn, nhưng gặp mặt Bồ tát mà không biết. Đến khi ngộ đạo, thấy Bồ
tát hiện ra trên nồi cháo đang sôi, Ngài lấy dầm đập chứ không đảnh lễ.
Bởi vì, khi đã thấy Phật tâm của chính mình thì không cầu Phật bên ngoài
nữa. Người tu chúng ta cũng thế, lúc đầu phải sửa chữa tâm mình từ hư dở
trở thành hiền thiện, nhưng mục đích cuối cùng là nhận được Phật tâm
hằng hữu ấy. Đạo của nhà Thiền chỉ có ở trong tâm, nhận ra và sống trọn
vẹn với bản tâm là Thành Đạo. Cho nên, tu đạo là tu tâm, ngộ đạo là ngộ
tâm, chứng đạo là chứng tâm, và thành đạo cũng là thành tại tâm chứ
không đâu khác. Từ trước đến sau cũng chỉ một người ấy, không thay đổi
gì về hình tướng, chẳng ngồi tòa sen phát hào quang, nhưng tâm lại có
một biến đổi diệu thường. Đó là “rắn hóa rồng không đổi vảy”.
Phật dạy, “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ
thành”. Lời dạy ấy là đứng trên Phật quả. Nhưng theo tinh thần kinh Lăng
già thì “Chúng sanh đã là Phật”, tức nhắm trên Phật nhân. Đã là Phật,
vì chúng sanh nào cũng có trí tuệ đức tướng Như Lai. Như kẻ ăn mày
trong kinh Pháp Hoa không biết mình có hạt châu trong chéo áo, cứ phải
sống đời lang thang cơ nhỡ. Đến lúc được bạn nhắc nhở, lấy ra dùng thì
trở nên giàu sang phú quý. Hạt châu có sẵn như Đạo sẵn đủ tại tâm, chỉ
vì ta quên nên mê, còn nhớ ra là ngộ Đạo.
Đức Phật thành đạo nơi cội Tất bát la cách đây gần 26
thế kỷ, nhưng câu chuyện tìm đạo của Ngài vẫn luôn là bài học lớn cho
hàng đệ tử Phật chúng ta. Khi mới phát tâm tu, chúng ta cần có thầy
hướng dẫn đường lối đúng đắn để khỏi lạc lầm. Đang trong giai đoạn dụng
công, ta cũng cần thầy bạn sách tấn và sửa chữa những sai sót, để khỏi
sa vào những cám dỗ của ngoại ma. Nhưng vấn đề ngộ đạo lại khác, tự thân
hành giả nỗ lực công phu, phải tự nhận ra Phật tâm nơi chính mình chứ
không ai làm thay cho ai được.
Hiểu và tin mình có khả năng thành Phật, chúng ta có
sự vững vàng trên đường tu. Ta không tìm cầu Phật bên ngoài, không tin
có một quyền năng ban phước giáng họa, mà chỉ tin chính tâm mình có
chánh nhân thành Phật, ta cứ một lòng một dạ tiến bước trong chánh pháp
mà không khởi ý niệm mong cầu, thì khi đủ thời tiết nhân duyên, tất
nhiên trổ ra chánh quả. Đến lúc ấy, ta mới thấm thía và biết ơn vô cùng
lời - dạy - vô - ngôn của Đức Bổn Sư khi cầm cành sen xanh, hay gậy
Tổ Hoàng Bá khi đập cho đệ tử xuất cách Nghĩa Huyền ba gậy.
Vậy thì rốt cuộc, thành đạo là nhận ra và hằng sống
với con người chân thật chính mình.
Thiền thất Viên Giác
Ngày Phật thành đạo PL. 2552
***