Thập Nhị Nhân Duyên
Thích Thông Huệ
I.
- NỘI DUNG
Chu
Hy Viết: "Cần kiệm cốt để trị gia, học hành cốt để khởi gia, hòa thuận
cốt để tề gia,
làm theo công lý cốt để báo gia". Đây là phương châm làm người của
nhà Nho, để trở thành
người có ích cho gia đình và xã hội.
Đối với nhà Phật,
sự tu hành còn nhắm đến mục đích cao hơn: Xuất phiền não gia và xuất
tam giới gia. Đức Phật là bậc Vô Thượng Y Vương, có đến tám vạn bốn ngàn
phương thuốc điều trị bệnh cho chúng sanh; trong đó có những cách
thức điều trị tận gốc, giúp chúng sanh khỏi được tâm bệnh phiền não và
giải thoát được sinh tử luân hồi. Pháp môn quán chiếu về Thập nhị nhân
duyên là một trong những phương pháp điều trị tiệt căn ấy.
Cùng với Tứ Diệu
Đế, thập nhị nhân duyên là giáo lý rất quan trọng trong hệ thống kinh
điển Nguyên thủy. Đây là mười hai yếu tố liên hệ hỗ tương với nhau theo
lý duyên sinh và nhân quả, diễn biến trong cả ba thời quá khứ, hiện tại,
vị lai. Chúng thường được minh họa theo sơ đồ sau đây, gọi là Tam thế
lưỡng trùng nhân quả (Ba đời và hai tầng nhân quả)
1-
Nhân
quá khứ : Gồm Vô minh và Hành, gọi là nhân khổ
VÔ MINH được
hiểu theo nhiều cách, tuỳ theo gốc độ nhìn của mỗi tông phái; tựu
trung có hai nghĩa chính: Thứ nhất, Vô minh là không thấy các pháp đúng
như thật, không nhận chân được thực tướng của các pháp là vô thường,
duyên sinh vô ngã. Thứ hai, Vô minh là nhận lầm thân tứ đại và những tâm
phân biệt lăng xăng làm thân tướng và tâm tướng của mình, mà quên mình
đang sẵn đủ tự tánh bất sanh bất diệt. Đây là căn bản vô minh, là Hoặc.
Do Vô minh khuấy
động, trong tâm phát khởi buồn thương giận ghét... Từ sanh tâm khởi ý
thiện hoặc ác, đưa đến miệng và thân theo đó tạo nghiệp. Đây là HÀNH,
động cơ chính để tái sinh.
Như vậy, vì có
vô minh nên có hành động tạo tác, vì có Hoặc nên mới có Nghiệp, mới trở
lại lục đạo luân hồi. Chúng sinh bị nghiệp lực lôi dẫn để thọ sanh, khác
với các bậc Bồ Tát, cũng lăn lộn vào các cõi nhưng do nguyện lực. Các
Ngài cũng làm tất cả để độ người; nhưng không thấy có người làm, việc
làm và đối tượng làm nên không thuộc về Hành nghiệp.
2.
Quả
hiện tại : Gồm Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc và Thọ, gọi là Quả khổ.
Đối với THỨC,
chúng ta cần hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó là Thần thức hay Hương ấm.
Khi thân trước mất đi, thần thức theo nghiệp dẫn để thọ thân sau. Nếu
nghiệp không còn thì thức cũng diệt, nên nói Hành duyên Thức. Nghĩa thứ
hai, hiểu theo duy thức học, là Ý thức và Tàng thức. Vì chúng sanh vô
minh, quên tánh giác, tạo nghiệp thiện ác nới phát sinh thức. Nếu giác
ngộ, nhớ lại tự tánh thanh tịnh bản lai của mình thì thức không phải bị
diệt, mà ngay đó chuyển thành Trí.
Thức làm duyên
cho DANH SẮC hình thành. Danh là tinh thần, sắc là thể chất. Trong bào
thai danh sắc tạo nên nhờ sự phối hợp của tinh cha huyết mẹ và thần thức
gá vào. Danh sắc cũng có nghĩa là phần tinh thần và vật chất của một cơ
thể khi còn trong bào thai.
LỤC NHẬP là sáu
căn duyên với sáu trần. Khi đã ra đời, sáu căn tiếp xúc với sáu trần
phát sinh sáu thức. Các căn càng trưởng thành càng dính mắc với trần
cảnh, tác động qua lại tạo nên XÚC. Xúc là sáu căn tiếp xúc với sáu trần.
Khi có tiếp xúc
giao thoa giữa căn và trần, cảm thọ phát sinh, nên xúc duyên THỌ. Thọ
gồm ba loại : Khổ, lạc và trung tính. Cần phân biệt cảm thọ vui (lạc thọ)
của phàm phu với niềm vui của các bậc đã giác ngộ. Lạc thọ hình thành
do căn dính mắc theo trần, khi hình thành rồi trở lại chi phối thân và
tâm. Đối với các Ngài, tuy vẫn đối duyên xúc cảnh nhưng không khởi niệm
phân biệt chia chẻ, nên dù xúc và thọ mà tâm
vẫn thanh tịnh an nhiên. Niềm hỷ lạc của các Ngài là một hạnh phúc đích
thực vì có chánh niệm và thanh tịnh.
3.
Nhân
hiện tại: Gồm Ái, Thủ và Hữu.
Aùi là ưa thích,
đam mê. Đây là Chi mạc vô minh hay Nhuận sanh vô minh, cũng là Hoặc.
Phàm phu chúng
ta có rất nhiều đam mê khát ái, nhưng quan trọng nhất là Ái ngã. Do yêu
mình nên tìm mọi phương tiện phục vụ cho nhu cầu vật chất và tinh thần
của chính bản thân. Ngay cả tình cảm thương yêu đối với người khác, ngẫm
lại cũng chỉ vì mình mà thương. Cho nên, tình cảm nào cũng có tính ích
kỷ, không nhiều thì ít. Cũng chính vì ái ngã, nên khi mất thân này liền
tìm thân khác, tiếp tục vòng quay sinh tử.
Vì sao có Ái ? -
Bởi vì vô minh nhận thân tâm huyễn hóa làm thật mình; từ chấp ngã rồi
chấp ngã sở đều có thật nên sanh tham ái. Ái lại làm tăng trưởng vô minh,
nên hai yếu tố này có sự liên hệ hết sức chặc chẽ, và là hai động lực vô
cùng mạnh mẽ làm chuyển động bánh xe luân hồi.
Cũng do ái ngã
nên những gì bên ngoài làm mình vừa ý, mình lại muốn chiếm hữu. Đây là
THỦ. Giữ lấy cho riêng mình là hành động tạo tác nên thuộc nghiệp. Khi
chiếm giữ được, liền phát khởi ý có sở đắc (HỮU). Hữu là điều kiện để
tái sanh vào ba cõi, nên còn được chia thành Dục hữu, Sắc hữu và Vô sắc
hữu
4.
Quả
vị lai : Gồm sanh và lão tử
Có nhân hiện tại
tức có điều kiện tái sinh ở vị lai. Một hữu tình lại chào đời (SANH).
Trong hữu tình này cũng có yếu tố Vô minh, Thức..., Ái, Thủ, Hữu. Quy
luật tất yếu của cuộc sống là có sinh trưởng thì phải có hoại diệt, nên
SANH duyên LÃO TỬ.
Như vậy mười hai
nhân duyên đã giải thích tường tận guồng máy sinh diệt của loài hữu tình.
Duyên hợp lại là sinh, duyên tan là diệt. Đi theo chiều thuận, nhân quá
khứ sanh quả hiện tại (tầng nhân quả thứ nhất), và nhân hiện tại sanh
quả vị lai (tầng nhân quả thứ hai). Đây là chiều lưu chuyển. Trong mỗi
tầng nhân quả đều có Hoặc – Nghiệp – Khổ:
Phần
đông các nhà nghiên cứu về Phật học thường theo chiều lưu chuyển của
mười hai nhân duyên để chứng minh và giải thích luân hồi, mà chủ yếu làm
thế nào liễu thoát sinh tử. Cho nên mới có chiều ngược lại, từ quả phăng
lần đến nhân: Mọi người đều già chết (Lão tử); Vì sao có già chết? – Vì
có Sanh. Cứ đi ngược lần lên đến tận cùng, ta hiểu rõ bản chất của sanh
tử là vô minh.. Đây là chiều hoàn diệt. Muốn giải quyết vấn đề sinh tử,
phải giải quyết nơi nhân. Chúng ta thấy Đức Phật đã khéo dùng phương
pháp đi ngược từ quả đến nhân, lần đầu tiên khi giảng về Tứ Diệu Đế;
cuộc đời là khổ (Khổ – quả); Tìm hiểu vì sao có khổ (Tập nhân); trừ hết
nguyên nhân gây khổ sẽ có an lạc giải thóat (Diệt- quả); Các phương pháp
để đạt được giải thoát (Đạo – quả). Nguyên nhân của khổ tức Tập nhân
trong Tứ Diệu Đế cùng tương đồng với Ái – Thủ trong mười hai nhân duyên;
và chẳng khác gì vọng tưởng sanh diệt mà nhà Thiền chủ trương buông bỏ.
II
– Ý NGHĨA
Kinh
A Hàm, Phật dạy: “Cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia
không, cái này sinh nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia
diệt”. Đây là một định lý về duyên sinh duyên khởi . Tất cả các
pháp từ vô tình đến hữu tình đều vay mượn nhau, hỗ trợ nhau, nương tựa
nhau mà sinh khởi và tồn tại. Ví như một bó lau, cùng nương vào nhau để
đứng vững; nếu một cọng lau ngã xuống, những cọng khác khó thể trụ lại.
Mười
hai nhân duyên cũng thuộc giáo lý Duyên sinh, nhưng hạn cuộc cho loài
hữu tình. Nếu nhìn theo chiều dọc từ trên xuống dưới, thì chi phần trên
làm duyên cho chi phần dưới phát sinh. Vô minh là Hoặc nhân của quá khứ,
làm duyên phát sinh Hành nghiệp. Vì là nhân quá khứ, nên hiện tại người
tu không thể sữa đổi gì được đối với Vô minh, mà chủ yếu chỉ chuyển hóa
nhân hiện tại là Ái Thủ Hữu. Nhân hiện tại bị diệt trừ thì không có quả
vị lai. Sanh lão tử ngay nay đoạn dứt.
Tuy
nhiên, cách hiểu ấy chỉ là khái niệm về nhân quả theo tuyến tính, theo
thời gian, không phản ứng đúng tinh thần tương tức và tương nhập của đạo
Phật. Thật ra mỗi chi phần đều vừa là nhân vừa là quả của mười hai chi
phần còn lại, và ảnh hưởng ở cả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Rõ
ràng là trong vô lượng kiếp chúng ta đã vô minh, vì vô minh mới tạo
nghiệp trầm luân trong sinh tử. Kiếp này chúng ta cũng đang vô minh,
đang tạo nghiệp; và trong tương lai, nếu không thức tỉnh, chúng ta sẽ
lại vô minh và tạo nghiệp không có ngày cùng. Như vậy vô minh có mặt ở
cả ba thời.
Lại
nữa, Vô minh có mặt trong Hành nên tác ý khởi niệm, sanh phiền não; đến
lượt phiền não trở lại tác động làm Vô minh nặng thêm. Đây là liên hệ
hai chiều, Vô minh duyên Hành và Hành cũng duyên Vô minh. Vô minh cũng
đồng thời có mặt trong Thức, Danh sắc, Lục nhập… Nếu thức không có vô
minh vì sao lại bị nghiệp dẫn lôi, thọ sanh theo nghiệp? Nếu Lục nhập
không có Vô minh sao đối duyên xúc cảnh lại sanh tâm phân biệt, không
thấy được thực tướng của các pháp? Nếu Ái không có vô minh thì không có
ý thức chấp ngã và ngã sở. Vì có vô minh mới có phiền não, mà phiền não
khổ đau thì luôn hiện hữu trong cuộc sống. Suy ra toàn bộ các chi phần
khác, chúng ta sẽ thấy rõ sự tương quan trùng trùng điệp điệp: Mỗi chi
phần có liên hệ nhân duyên với chi phần kế cận, đồng thời cũng liên hệ
như thế với tất cả những chi phần còn lại. Sự tương quan này chằng chịt
mật thiết trong cả không gian lẫn thời gian, không có điểm đầu tiên,
cũng không có điểm tận cùng.
Tuỳ
theo cách hiểu về mười hai nhân duyên và tuỳ theo sở thích, hành giả có
thể áp dụng nhiều phương pháp về công phu. Nhưng tựu trung có hai mắt
xích quan trọng. Nếu phá được một trong hai, có thể phá vỡ được sự liên
hệ chằng chịt giữa các chi phần: đó là Vô minh và Aùi, hai chi phần này
là những lực tác động hết sức mãnh liệt làm chuyển động bánh xe luân hồi,
đều có cùng bản chất vô minh.
Hành
giả tu theo Duyên Giác, thực hành pháp quán về mười hai nhân duyên. Lúc
đầu theo chiều lưu chuyển để thấy rõ sự vận hành của guồng máy sinh tử,
trong tinh thần "Cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia
sinh”. Vì Vô minh sanh nên Hành mới sanh, vì Hành sanh nên có Thức
sanh... tiếp tục cho đến cuối cùng là Sinh - Lão - Tử. Sau đó hành giả
quán theo chiều hoàn diệt trong tinh thần "Cái này không nên cái kia
không, cái này diệt nên cái kia diệt". Tuy vậy vì Vô minh là tập nhân
hùng hậu, khó thể can thiệp được, nên hành giả tập trung tâm lực trừ
nhân hiện tại là Aùi. Do Aùi diệt nên Thủ - Hữu không còn; Thủ - Hữu
diệt nên Sanh - Lão tử diệt; hành giả liễu thoát sinh tử, đạt quả vị
Duyên Giác là Bích Chi Phật. Nếu sinh ra đời không gặp Phật pháp, tự
quán lý duyên sinh của trời đất mà ngộ, hành giả được tôn xưng là Độc
Giác Phật.
Hành
giả tu theoThiền Đốn Ngộ quan niệm về mười hai nhân duyên bằng tinh
thần tương tức tương nhập, đã nói ở trên. Vô minh và Hành là biệt danh
của Aùi - Thủ - Hữu; Thức - Danh sắc - Lục nhập - Xúc. Thọ là biệt sanh
của Sanh - Lão tử. Các vị quán chiếu sự liên hệ hỗ tương trùng điệp của
tất cả chi phần, Ngộ được lý duyên sinh, chứng trí Vô ngã, không còn
chấp lầm thân tâm sinh diệt vô thường là thật mình. Vì vậy, đoạn trừ Căn
bản cô minh. Đây là lối tu ngay gốc, khi gốc bị diệt thì các ngọn ngành
theo đó tự tiêu. Nhưng làm thế nào để đoạn trừ được căn bản Vô minh? -
Khi tâm hành giả hoàn toàn rỗng lặng, bặt hết mọi ý niệm phân biệt so
sánh, biết tất cả các pháp mà không sanh tâm trên chúng, cái biết ấy mới
ở trong trạng thái như thị. Đây là cái "Tri kiến vô kiến" đức Phật đã
dạy trong kinh Lăng Nghiêm, hành giả thấy Niết bàn ở ngay: tại đây và
bây giờ, không giở chân mà đến. Muốn tìm nước phải ngay sóng mà nhận,
ngay trong phiền não phải thấy được Bồ Đề. Nếu thấy rõ trong si mê có
hạt giống trí tuệ, trong Vô minh đồng thời cũng có Minh hiện hữu, ta sẽ
hiểu được tinh thần bất nhị, một tư tưởng vút cao của nhà Phật.
Mười
hai nhân duyên là một trong những giáo lý quan trọng trong hệ thống kinh
điển của đạo Phật. Giáo lý này cũng nhầm giải thích và chứng minh luân
hồi, nhưng chủ yếu nhầm đưa đến phương pháp giải thoát sinh tử. Chúng ta
không chỉ hiểu mười hai nhân duyên theo "Tam thế lưỡng trùng nhân quả",
trong đó các chi phần liên hệ nhau theo chiều thời gian; mà nên hiểu
theo tinh thần "Trùng trùng duyên khởi"; các chi phần liên hệ
chằng chịt tương hỗ lẫn nhau theo không và thời gian, trùng điệp vô thuỷ
vô chung. Áp dụng vào công phu tu hành, chúng ta theo thứ lớp đoạn trừ
Chi mạt Vô minh là Aùi, rồi dần đến Thủ và Hữu. Đây là lối tu tiệm, cần
dụng công nhiều, buông bỏ lần như chặt các ngọn. Tinh thần tu tập, một
thời gian lâu xa sẽ thành công, vì có tu có tiến. Lối tu thứ hai theo
Thiền Đốn Ngộ, chúng ta đoạn trừ căn bản Vô minh, thật ra không phải là
"đoạn trừ vô minh" mà là "nhận ra Minh ngay tại đó". Tuỳ
theo căn cơ và sở thích, chúng ta tự chọn cho mình một con đường, miễn
sao đạt được mục đích tối hậu của đời tu: ra khỏi nhà phiền não và ra
khỏi nhà tam giới./.
***