Tu Là Bỏ Cái Giả -
Nhận Ra Cái Thật
HT Thích Thanh Từ
Nguồn: Báo Giác Ngộ 483
Khi Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni thành đạo dưới cội bồ đề, thời gian đầu Ngài chần chờ
không muốn truyền bá giáo pháp. Đến khi chư Thiên xuống đảnh lễ, cầu xin
Ngài nên vì chúng sanh mà lập bày phương tiện giáo hóa. Lúc trước đọc sử
tới đoạn này tôi hơi ngạc nhiên. Vì Đức Phật phát thệ nguyện lớn, thị
hiện nơi đời để độ chúng sanh, sao bây giờ thành Phật rồi, Ngài không
chịu đi truyền bá Chánh pháp, đợi năn nỉ mới chịu thuyết pháp.
Về sau nghiên
cứu kỹ tôi mới thấy rõ, quả là chỗ Đức Phật thấy, Đức Phật không thể nói
cho người thế gian hiểu. Tại sao? Bởi vì chỗ đó ngược hẳn với cái thấy
của người phàm tục, nên làm sao giảng cho họ hiểu được. Vì vậy Phật
không muốn nói. Khi chư Thiên nài nỉ Phật dùng phương tiện giáo hóa
chúng sanh, từ từ sẽ có người hiểu; Phật xét thấy điều này hợp lý nên kể
từ đó mới chuyển bánh xe Đại pháp.
Bài pháp đầu
tiên ở vườn Lộc Uyển là bài Tứ đế, nói đủ là Tứ diệu đế. Lâu nay người
học Phật xem đây là chân lý đầu tiên, Đức Phật trình bày rất đúng, rất
thật. Nhưng đó là phương tiện, chớ không phải chỗ cứu kính chân thật.
Nếu quý vị có đọc kinh Kim Cang, kinh Viên Giác sẽ thấy Phật dạy rằng:
Pháp của Phật như con thuyền hay chiếc bè đưa người qua sông. Khi lên bờ
rồi phải bỏ chiếc bè. Kinh Viên Giác nói, ví như người muốn thấy mặt
trăng ở đâu? Người bạn thấy được liền lấy tay chỉ bảo “mặt trăng ở đó”.
Nương theo ngón tay người kia nhìn thấy mặt trăng. Khi thấy mặt trăng
rồi ngón tay là vô nghĩa. Cũng thế, pháp của Phật dạy là phương tiện,
giống như ngón tay để chỉ cho chúng ta đi tới chỗ chân thật. Chỗ chân
thật ví như mặt trăng, đạt được chỗ chân thật rồi thì phương tiện phải
bỏ.
Chúng ta nên
biết pháp Phật là phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh. Bệnh
lành thì thuốc phải bỏ. Giả sử bây giờ chúng ta bị sốt rét phải uống
thuốc sốt rét. Khi bệnh đã lành hoàn toàn, nếu thấy thuốc hay quá tiếp
tục uống nữa thì sao? Bệnh trở lại. Cho nên bệnh lành rồi phải bỏ thuốc.
Pháp của Phật
dạy là tùy bệnh cho thuốc. Chúng sanh có bệnh nào Phật cho thứ thuốc ấy.
Ví dụ người tham ái nhiều, Phật dạy phương thuốc quán bất tịnh. Thấy
thân nhơ nhớp quá sanh gớm nên hết tham ái. Người hiếu danh nhiều Phật
dạy quán vô thương, danh vọng được rồi sẽ mất, chớ không bền, nhờ quán
như thế nên bớt hiếu danh. Từng phương thuốc trị từng bệnh cho chúng
sanh. Nhưng tất cả đều là phương tiện chớ không phải cứu kính. Ban đầu
Phật dùng phương tiện dẫn dắt chúng ta từ từ đi tới kết quả là cứu kính.
Thế nên muốn đến chỗ cứu kính, trước phải qua phương tiện, nhưng đạt
được cứu kính rồi thì phải bỏ phương tiện.
Chúng ta ngày
nay cứ đem kinh đọc cho Phật nghe hoài, cho đó là tu kỹ. Ngày nào cũng
đem kinh ra đọc mà không hiểu được ý Phật dạy. Học kinh để hiểu, hiểu để
tu chớ không phải đem đọc cho Phật nghe. Phật tử chẳng những đọc cho
Phật nghe, mà còn tính bộ với Ngài nữa. Quả thật là một sai lầm đáng
thương!
Ngài Huệ Khả
trước tên Thần Quang, tu thiền cũng lâu. Khi nghe Tổ Đạt Ma sang Trung
Hoa, ở chùa Thiếu Lâm ngồi xây mặt vào vách núi, mấy năm không nói
chuyện với ai. Ngài tìm tới không biết làm sao thưa. Lúc ấy nhằm mùa
đông tuyết xuống tới đầu gối, Ngài vẫn đứng thản nhiên từ đầu hôm đến
sáng để cầu đạo. Biết được, Tổ xoay lại hỏi:
-
Ông cầu cái gì mà chịu khổ hạnh vậy?
Ngài thưa:
-
Cúi mong Hòa thượng từ bi mở cửa cam lồ, rộng độ chúng con.
Tổ bảo:
-
Diệu đạo vô thượng của chư Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm
được việc khó làm, hay nhẫn được việc khó nhẫn, còn không thể đến thay!
Huống là dùng chút công lao nhỏ này mà cầu được pháp chân thừa ư?
Nghe thế, Ngài
liền đi ra phía sau, mượn cây dao chặt một cánh tay dâng lên Tổ để tỏ
lòng thiết tha cầu đạo. Tổ Đạt Ma đồng ý và nhận làm đệ tử, đặt tên là
Huệ Khả. Huệ là trí tuệ, Khả là khá. Ý Tổ khen ngài Thần Quang có trí
tuệ khá lắm nên mới dám hy sinh như vậy.
Khi được nhận
làm đệ tử rồi, một hôm Huệ Khả thưa với Tổ Đạt Ma: “Bạch Hòa thượng, tâm
con không an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm”. Tổ Đạt Ma không trả
lời thẳng, mà bảo: “Đem tâm ra ta an cho”. Ngài Huệ Khả xoay lại tìm một
hồi, tâm bất an mất tiêu, không thấy nở đâu. Ngài liền thưa: “Bạch Hòa
thượng, con tìm tâm không được”. Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi”.
Ngay đó ngài Huệ Khả liền biết đường vào.
Phật tử có ai
tập ngồi thiền rồi , mới thấy tâm mình lăng xăng lộn xộn thế nào. Cho
nên ngài Huệ Khả xin pháp an tâm là điều hợp lý vô cùng. Chúng ta cũng
giống hệt vậy thôi. Nhưng câu trả lời của Tổ dường như hơi ngược ngạo,
dạy pháp an tâm mà lại bảo “đem tâm ra ta an cho”. Chính chỗ này ngày
xưa tôi cứ ngỡ dường như Tổ đùa chơi vậy. Người ta tha thiết học hỏi, mà
Tổ lại như đùa, không ngờ ngài Huệ Khả lãnh hội được. Đó là điều chúng
ta thấy khó hiểu. Sau này khi nhập thất tu, đọc lại sử, tôi mới giật
mình thấy cái ngu trước. Bởi vì chúng ta bị si mê nên mãi chìm trong
sanh tử. Si mê cái gì? Si mê chấp thân này là tâm mình thật. Hai cái si
mê này khiến chúng ta cứ tạo nghiệp, đi mãi trong sanh tử.
Hiện giờ quý vị
đều thầm đồng ý thân này thật nên mới quý, mới lo đủ thứ cho nó. Ví dụ
có hai người đối trước món đồ giả, một người nói thật, một người nói giả.
Vậy trong hai người đó, ai ngu ai trí? Giả mà tưởng thật là ngu, còn giả
biết giả là trí. Vậy tôi đặt câu hỏi lại, thân này là thật hay giả? Giả.
Nếu quý vị chỉ thấy cái giả theo câu hỏi của tôi, thì khi ra khỏi giảng
đường này sẽ thấy nó thật hết. Đó là chỗ mê lầm của chúng ta.
Như quý vị đang
ngồi nói chuyện chơi với người thân, bất thần người ấy đứt gân máu ngã
xuống tắt thờ. Khi còn nói chuyện ta gọi đó là thật, đến lúc tắt thờ mới
biết nó giả. Nếu thật thì lúc nào cũng thật, trước sau cũng thật. Mọi
người khi còn đi đứng, nói năng đều cho là thật, đến chừng ngã ra chết
ai cũng bảo giả hết. Như vậy là sao? Chẳng lẽ nửa thật nửa giả. Thật ra
trong giả có thật mà chúng ta không biết, nên lầm cho nó hoặc toàn giả
hoặc toàn thật.
Chúng ta thử xét
lại xem, hiện giờ mình sống đây, lỗ mũi đang thở. Hít vô là mượn không
khí bên ngoài vào. Thở ra là trả không khí ra ngoài. Hít vô thả ra đều
đều thì sống. Hít vô mà không trả ra được, trả ra mà không hít vô thì
chết. Như vậy thật ở chỗ nào? Nếu thật thì khỏi mượn, đã mượn thì không
thật. Một lát mượn tách nước, chút xíu lại trả ra. Đem vô trả ra. Đem vô
được mà trả ra không được thì đi cấp cứu. Mượn trả đều đặn thì yên,
không đều đặn không yên. Lâu hơn nữa thì mượn chén cơm. Mượn rồi cũng
phải trả. Rõ ràng thân này sống bằng sự vay mượn liên tục. Đã vay mượn
mà nói thật thì biết trí tuệ chúng ta tới cỡ nào? Chẳng lẽ mình ngu hết
sao! Thế mà ra đường ai nói ngu đâu có chịu, trong khi thực sự mình ngu
quá chừng? Nói thế để thấy chúng ta đang mê lầm. Từ mê lầm đuổi theo
thân, lo cho nó, rốt cuộc rồi cũng mất. Như vậy có đáng thương không?
Đức Phật giác
ngộ thấy thân này là giả, do đất, nước, gió, lửa hợp lại thành. Chất
cứng là đất, chất ướt là nước, động là gió, ấm là lửa. Bốn thứ này đem
vô trả ra. Còn mượn mà không trả ra thì chết. Như vậy ta có thân này,
chẳng qua là cuộc sống vay mượn. Đó là điều thứ nhất.
Thứ hai, quý vị
thường cho những suy nghĩ phân biệt là tâm mình. Vì thế buồn, thương,
giận, ghét… đều là tâm ta. Nói “tôi buồn quá” thì buồn là tôi. Tôi vui,
tôi giận, tôi ghét… tất cả là tôi hết. Cả trăm thứ, biết cái nào là tôi
thật? Nên không có cái tôi thật. Như ta đang có chuyện buồn, bất thần
một người bạn tri kỷ từ xa về, gặp lại nhau mình vui liền. Như vậy buồn
không thật, nếu thật khi vui đến buồn đi đâu? Như vậy vui buồn không
phải thật mình, chỉ là cái tạm bợ qua mất, mà ta lại chấp nó là tâm
mình. Từ chấp đó, ta nghĩ việc này phải làm như thế này mới đúng, làm
khác là sai. Nếu ai đề nghị khác mình, hoặc phản đối ý kiến nghĩ của
mình, ta sẽ nổi nóng liền. Bởi chấp tâm suy nghĩ là mình, nên phiền não
phát sinh.
Song chúng ta
thử hỏi lại, những suy nghĩ của mình có đúng trăm phần trăm không? Nếu
ai cũng nghĩ đúng trăm phần trăm thì bây giờ nhà toàn cả chục tầng, chớ
không phải một hai tầng. Vì khi nghĩ đúng khi nghĩ trật, nên làm ăn mới
thất bại. Cuộc đời này thất bại nhiều, thành công ít, chứng tỏ con người
nghĩ sai nhiều, nghĩ đúng ít. Vậy mà ai cũng cố chấp cái nghĩ của mình
là đúng, rồi sanh buồn giận, thương ghét đủ thứ hết.
Lại nữa, những
khi ta khởi nghĩ thì thấy có nói, nhưng khi không nghĩ nó ở đâu? Tìm
không ra. Không có chỗ, không có hình tướng nên biết nó không thật. Lúc
ngồi thiều, ý cứ nghĩ lăng xăng hoài, ta bực mình nói tâm bữa nay xao
động quá. Như thế cho cái nghĩ lăng xăng xao động ấy là tâm mình. Phật
bảo đây là kẻ mê.
Chúng ta hiện
giờ đang cố chấp, đang mê trong sự sai lầm, vì vậy tu rất khó. Chấp thân
thật nên gặp điều trái ý nổi giận đùng đùng. Do đó khổ cả ngày. Chừng
nào thấy được thân không thật, tâm không thật chúng ta sẽ sống thảnh
thơi. Mỗi người đều có quyền thấy khác mình, nên ai làm trái ý ta không
giận. Hiểu như vậy là giải thoát nhiều rồi.
Phật thường dạy
nếu chúng ta có nghĩ điều gì nên nói: “đây là cái nghĩ của tôi”. Đừng
nói cái nghĩ của tôi đúng, thêm chữ “đúng” thì có chuyện. Bởi vì hai cái
đúng ngược nhau chúng ta vẫn thấy dễ chịu, có khi còn trao đổi ý kiến để
rút kinh nghiệm thêm. Sống trên tinh thần ấy thì hay quá. Nên người sáng
suốt muốn tìm chân lý phải thấy rõ như vậy. Tâm không thật biết nói
không thật, là người trí, người giác rồi. Thế nên biết ngồi yên tĩnh tu
không làm gì hết, không phải vô ích, thật ra việc ấy có lợi ích lớn lao
vô cùng.
Vì vậy chúng tôi
dạy tu thiền, chỉ dẫn quý vị ngồi yên tịnh nhìn lại xem niệm khởi từ đâu.
Nó vừa dấy lên, ta biết vọng tưởng hư dối không theo, cứ thế công phu.
Mới nghe thấy đơn giản, không có giá trị gì, nhưng thật ra chúng ta đang
làm một việc lớn, đó là phá sai lầm muôn đời của mình. Thấy rõ các tư
tưởng sanh diệt liên tục, tạm bợ hư dối, không theo nó thì nó phải chịu
thua mình. Đó là pháp an tâm của nhà thiền. Nói pháp nhưng thật ra không
có pháp gì cả. Thiền tông chủ trương không có một pháp dạy người, chỉ
dùng trí mình soi lại để thấy cái thật cái hư nơi mình. Đó là điều thiết
yếu.
Đánh máy: Viên Lâm – Huỳnh Hoa
***