Tứ Nhiếp Pháp
Thích Thông
Huệ
Tất cả chúng ta, ai tu hành cũng đều muốn nổ lực cho
tự thân được lợi ích, đó gọi là tự lợi. Khi chính mình được chuyển hóa
tốt đẹp, chúng ta đem kết quả đó san sẻ giúp ích cho người khác, đó gọi
là lợi tha. Tự lợi và Lợi tha là con đường tu hành của các bậc Bồ Tát.
Chúng sanh đa bệnh nên phương tiện giáo hóa của Phật
cũng phải có nhiều và tương ứng, cũng như tùy bệnh mà cho thuốc. Trong
đó, phương tiện hữu hiệu và tác động sâu xa vào lòng người là Tứ nhiếp
pháp.
Từ nhiếp pháp là bốn phương tiện để nhiếp phục,
cảm hóa tâm lý của người đời. Khi đã
cảm hóa được họ, lần hồi từng bước hướng dẫn người phát khởi niềm tin,
mở mang trí tuệ và thâm nhập Phật pháp. Các phương tiện này là : Bố thí
nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp và Đồng sự nhiếp.
1 – Bố thí nhiếp :
Là Phật tử, chúng ta đều biết, theo nhân quả hữu lậu,
người hay bố thí sẽ được hưởng quả giàu sang phú quý, nếu gian tham keo
kiệt thì phải chịu nghèo đói khó khăn. Nhưng cũng tùy tâm lượng của
chúng ta khi bố thí mà quả hưởng được có khác nhau; nếu trước khi bố thí
mà còn đắn đo toan tính, hoặc sau khi bố thí lại tiếc rẻ, thì có thể
cũng được hưởng quả giàu sang nhưng phải làm lụng khó khăn cực nhọc lắm.
Nói cho cùng, mọi khổ sở đau thương trên cuộc đời này
đều do lòng tham lam ích kỷ của con người mà ra. Từ tham lam đưa đến sân
hận, khi lòng tham không được thỏa mãn, rồi có thể gay ra hậu quả không
lường trước. Cho nên, nếu chúng ta chỉ biết bo bo giữ lợi ích cho riêng
mình, thì ngay bản thân mình, và cả gia đình, xã hội sẽ mãi còn chìm đắm
trong khổ đau. Chỉ khi nào chúng ta mở lòng ra để lo cho người có hòan
cảnh khó khăn hơn mình, thì không những người khác bớt khổ mà chính mình
cũng được an vui. Một số người đã kể, trước khi biết Phật pháp, họ
thường xuyên buôn bán thua lỗ, chỉ vì ham tranh hơn tranh thua, gây hiềm
khích với người khác. Khi đã quy y, biết cách xử sự, không còn quá tham
lam, họ được cảm tình với mọi người nên công việc làm có kết quả hơn,
chứ không phải nhờ sức gia trì của vị thần thánh nào cả.
Ở đây, chúng ta cũng cần phân biệt bố thí với cúng
dường. Bố thí có ý nghĩa đem những gì mình có san sẻ cho người có hoàn
cảnh, điều kiện sống khó khăn hơn mình, bất phước hơn mình. Cúng dường
nguyên nghĩa là cung dưỡng, tức cung kính cấp dưỡng, là dâng phẩm vật,
tài vật lên những người có địa vị, đạo dức cao hơn mình. Vì sao đức Phật
lại khuyên chúng ta nên thực hành hạnh bố thí ? – Để trong vòng luân hồi
chúng ta có một đời sống kinh tế sung túc, dễ dàng hơn cho việc tu hành.
Khi có điều kiện chúng ta lại tiếp tục bố thí cúng dường, và như vậy
trong những kiếp về sau, chúng ta lại càng thuận lợi trong việc tiến tu
hơn nữa.
Đối với các vị Bồ Tát, một trong những hạnh nguyện
của các Ngài là giúp đỡ chúng sanh bằng tinh thần hay vật chất tùy nhu
cầu của họ. Đến lúc gần gũi được họ, làm cho họ tin tưởng và cảm mến, Bồ
tát mới thu nhiếp họ để đưa họ đến với Phật pháp. Đó gọi là Bố thí
nhiếp. Con người thường sống bằng tình cảm hơn là lý trí, nên nếu chỉ
dùng lời nói đạo lý, đôi khi thất bại. Vì vậy Bồ tát phải dùng bố thí
như một phương tiện để nhiếp phục chúng sanh.
Trong kinh Đại Niết Bàn, phẩm Phạm hạnh thứ 15, Phật
dạy : “Này Thiện Nam ! Bồ tát lúc thực hành bố thí, đối với chúng
sanh khởi lòng thương tưởng như con. Lại nữa, lúc thực hành bố thí, đối
với chúng sanh khởi lòng xót xa giốnh như cha me săn sóc đứa con đang
bệnh. Lúc thực hành bố thí, tâm Bồ tát vui mừng như Cha Mẹ thấy con lành
bệnh. Sau khi bố thí, tâm Bồ tát buông xả như cha mẹ thấy con đã lớn
khôn, có thể sinh sống tự tại.” Đọan kinh này đã diễn tả một cách
chính xác tấm lòng của bồ tát đối với chúng sanh, khi thực hành hạnh bố
thí, các vị xem chúng sanh như con đẻ của mình. Chúng ta khi có con, lo
cho máu mủ của mình một cách chu đáo từ lúc nhỏ đến lúc lớn, tâm chúng
ta thương con như thế nào thì Bồ tát thương chúng sanh như thế ấy. Tuy
nhiên, tình thương của chúng ta đôi khi chan rải không đều giữa đứa con
này với đứa con khác, còn Bồ tát thì bình đẳng. Các Ngài thương muôn
loài chúng sanh không hạn cuộc, không phân biệt, còn chúng ta lại quên
các Ngài như những đứa con hoang, bỏ cha mẹ ra đi lang thang trong ba
cõi sáu đường.
Lúc thực hành bố thí, tâm lượng Bồ tát lo cho chúng
sanh như cha mẹ săn sóc đứa con đang bệnh. Tình thương của cha mẹ bao la
như biển cả, bất tận như suối nguồn, và đôi khi chúng ta cũng hiểu được,
cảm nhận và biết ơn đối với tình thương đó. Nhưng rất ít người hiểu được
tình thương của Bồ tát giành cho chúng sanh. Nếu cha mẹ chỉ lo được cho
cái thân vật chất hữu hình hữu hoại của con, thì Bồ tát rất chú trọng
đến đời sống tinh thần. Mà đời sống tinh thần thì vô vàng quý giá hơn so
với đời sống vật chất, vì đó là hành trang cho tất cả chúng sanh đi suốt
lộ trình đến giải thoát viên mãn. Bồ tát biết rõ, có rất nhiều người
thiếu thốn, đau khổ về tinh thần, dù họ đang ở địa vị nào, hòan cảnh nào
và chỉ có thuốc chánh pháp mới điều trị được bệnh khổ cho chúng sanh.
Khi hành hạnh bố thí và nhiếp phục được chúng sanh,
hướng dẫn họ đi theo chánh đạo để được giác ngộ và giải thoát, tâm Bồ
tát vui mừng như cha mẹ thấy con lành bệnh. Và sau đó tâm các Ngài buông
xả như cha mẹ thấy con lớn khôn, đã vững bước trên đường đời. Sự buông
xả này rất phù hợp với tinh thần Balamật, tức vô trước, vô trú, vô
nhiễm. Dù làm tất cả mọi việc để được lợi ích cho chúng sanh, tâm các
Ngài vẫn thênh thang như hư không, không thấy có người ban ơn, có kẻ
chịu ơn và có một pháp để làm ơn. Đó gọi là “Tam luân không tịch”. Nhìn
chung bố thí được chia ra làm ba loại
a)Tài thí : Gồm nội tài thí và ngoại tài thí.
·
Nội tài thí : Dùng cả thân mạng hoặc
một vài bộ phận trong cơ thể để bố thí.
Đây là hạnh động buông xả lớn của Bồ tát. Hiện nay, có phong trào hiến
máu nhân đạo, hiến tặng cơ quan hoặc hiến xác cho khoa học, đều thuộc về
lọai này.
·
Ngọai tài thí : Dùng tài sản của
mình kiếm được một cách lương thiện, san
sẻ cho những người thiếu thốn, khó khăn về vật chất hơn mình.
Một điều chúng ta cần lưu ý : Ai cũng biết, nỗi khổ
của chúng sanh thì vô hạn, nên sự bố thí cũng phải vô biên. Nhưng trong
sự bố thí, ngoài lòng từ bi, chúng ta còn phải có trí tuệ. Nếu chúng ta
nhẹ dạ, giúp người một cách mù quáng, như giúp tiền cho người nghiện
hút, bài bạc … thì vô tình chúng ta càng làm hại cho họ. Mỗi người Phật
tử phải là một chiến sĩ trong mặt trận đạo đức, chống lại những tệ nạn,
những cái xấu ác, làm trong sạch hóa xã hội. Đó là giúp ích cho mọi
người và cho cả bản thân mình.
b) Pháp thí : Sự thiếu thốn khó khăn về vật chất
làm cho con người đau khổ, nhưng sự nghèo
nàn mất mát về tinh thần càng làm họ thấy bất hạnh hơn. Cái khổ về tinh
thần gay tổn hại nhiều hơn cái khổ về vật chất, nhiều khi ảnh hưởng xấu
đến sức khỏe và cả tính mạng con người. Y học đã chứng minh rất nhiều
trường hợp loét dạ dày, tá tràng, bệnh tim mạch, và đặc biệt là hội
chứng kích động thần kinh (stress) là hậu quả của sự căng thẳng, lo nghĩ
hay buồn phiền lâu ngày.
Các vị tu hành đem Phật pháp giảng dạy cho chúng
sanh, mục đích làm chúng sanh bớt khổ, đó gọi là pháp thí, nhưng cũng
tùy trình độ căn cơ của từng người mà lập phương tiện giáo hóa, cũng như
tùy bệnh mà cho thuốc (khế cơ), và những lời giảng dạy phải phù hợp với
chánh pháp, phải có giá trị bất di bất dịch (khế lý). Khi Phật pháp được
truyền bá rộng rãi theo tinh thần khế cơ và khế lý, chúng sanh nương vào
đó tu hành, cuộc đời sẽ được an lạc, xã hội nhờ đó cũng yên bình thịnh
vượng.
Pháp thí quan trọng hơn tài thí như thế nào ?, trong
kinh Kim Quang Minh Tối Thắng vương, quyển ba, phẩm Diệt Nghiệp Chướng,
Phật dạy : “Này Thiện Nam! Giả sử có người đem bảy báu đầy cả tam
thiên đại thiên thế giới cúng dường Như Lai, nếu lại có người khuyến
thỉnh Như Lai chuyển Đại Pháp Luân,, thì người này được công đức hơn
người kia. Vì sao? – vì người kia dùng tài thí, người này dùng pháp thí.
Này Thiện Nam !. Đừng nói chi đem cả bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên
thế giới bố thí, mà nếu có người đem bảy báu nhiều như hằng hà sa tam
thiên đại thiên thế giới cúng dường tất cả chư Phật, thì công đức khuyến
thỉnh cũng vẫn hơn cả sự cúng dường ấy, do vì pháp thí có năm điều thù
thắng. Những gì là năm ? – Một là, pháp thí gồm cả lợi mình, lợi người,
còn tài thí không được như thế. Hai là pháp thí hay khiến chúng sanh ra
khỏi ba cõi, còn phước tài thí chẳng ra khỏi cõi dục. Ba là pháp thí làm
pháp thân thanh tịnh, còn tài thí chỉ tăng trưởng sắc thân. Bốn là, pháp
thí thì vô cùng, còn tài thí có cùng tận. Năm là, pháp thí dứt được vô
minh, còn tài thí chỉ khuất phục được tham ái. Thế cho nên, này thiện
nam !Công đức khuyến thỉnh vô lượng vô biên, không thể thí dụ”.
Ở nay Phật chỉ rõ năm điều thù thắng của pháp thí
Thứ nhất : , pháp thí gồm cả lợi
mình, lợi người. Ví dụ, khi một người nói pháp
cho một đám đông nghe, trước hết người ấy có lợi ích vì đã gieo một nhân
tốt là bố thí pháp; người nghe được chánh pháp, nếu y đó tu hành, cuộc
đời sẽ được chuyển hóa, tâm sẽ được thăng hoa. Tài thí thì không được
như vậy, vì nếu bố thí để họ dùng phương tiện đó làm điều xấu, thì chính
sự bố thí ấy lại làm hại cho họ và cho những người xung quanh
Thứ hai : Pháp thí hay khiến chúng
sanh ra khỏi ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc, nếu
chúng sanh biết tu hành theo chánh pháp, đọan trừ tham – sân – si , được
giác ngộ và giải thoát. Nếu dùng tài thí, đó là đang tu phước hữu vi,
giỏi lắm cũng sanh về cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, tức chưa giải thóat cỏi
dục. Rồi khi hưởng hết phước, có thể lại bị đọa vào các đường ác.
Thứ ba : Pháp thí làm pháp thân
thanh tịnh, còn tài thí chỉ tăng trưởng sắc thân.
Sắc thân của chúng ta do nghiệp tạo nên, dễ bị hoại diệt, biến đổi vô
thường; nhưng trong đó còn có pháp thân vô tướng, không bị biến hoại
theo thời gian và không gian. Nếu trong suốt cuộc đời, chúng ta chỉ lo
chăm sóc cho cái sắc thân, thỏa mãn những nhu cầu của nó là ăn, mặc, ở,
tức cái hạ tầng kiến trúc của đời sống, mà quên đi phần thượng tầng kiến
trúc là văn hóa, tâm linh, thiền định, trí tuệ, thì rỏ ràng chúng ta chỉ
sống bằng bản năng như loài vật. Chỉ có thượng tầng kiến trúc mới nuôi
dưỡng pháp thân, còn những nhu cầu vật chất tầm thường chỉ làm cho chúng
ta mãi chìm trong vô minh tăm tối. Pháp thí sẽ giúp chúng ta biết chánh
đạo, sống với cái cao cả, cái minh triết, là những yếu tố quyết định sự
tiến hóa của toàn thể loài người.
Thứ tư : Pháp thí thì vô cùng,
vì nó không có tướng mạo, nên không bị mai một
theo thời gian. Người thí pháp vô cùng, vì có thể nói pháp suốt đời, nói
ở mọi chổ mà vẫn mãi mãi lưu xuất được; người nghe pháp cũng vô cùng, vì
dùng pháp để tu theo suốt đời vẫn không hết, không cạn. Ngược lại vì tài
thí có hình tướng, nên có giới hạn có cùng tận
Thứ năm : Pháp thí dứt được vô
minh, còn tài thí chỉ khuất phục được tham ái.
Khi nghe pháp, sự hiểu biết của chúng ta càng sâu rộng, trí tuệ càng
phát triển, đến rốt ráo có thể dứt được vô minh. Tài thí thì chỉ tạm
giải quyết khó khăn trước mắt cho người được bố thí, còn người bố thí
thì cũng tạm thời khuất phục được tham ái ngay lúc ấy mà thôi.
Do những đặc tính quá ưu việt của pháp thí đã nói
trên, rõ ràng công đức của người pháp thí và người khuyến thỉnh pháp thí
vô lượng vô biên, tài thí không thể so sánh nổi. Nếu mỗi tự viện đều là
những nơi được khuyến thỉnh pháp thí, thì Phật tử sẽ được muôn phần lợi
laic, đời sống được cải thiện, đau khổ sẽ không còn và xã hội cũng được
trong sạch hơn lên. Vì vậy, đã là Phật tử, chúng ta phải luôn trao dồi
học hỏi, ngày càng thâm nhập Phật pháp để chuyển hóa tự thân, tự cứu
mình ra khỏi mọi ràng buộc khổ não của đời sống. Sau đó chúng ta đem sự
hiểu biết bằng trí tuệ và sự thanh lương của tâm hồn mình ra giúp ích
cho người khác, thì hành động pháp thí ấy mới có kết quả.
c) Vô úy thí : khi tu hành đắc
lực, tâm yên tĩnh, trí tuệ mỡ mang, Bồ tát thấy rõ
mọi lẽ thực-hư của cuộc đời, các Ngài không còn lầm chấp các pháp nữa.
Được sức tự tại vô úy, các Ngài đem cái vô úy đó mà che chở đùm bọc
chúng sanh, làm chúng sanh không còn lo sợ, được an ổn dù gặp bao hệ
lụy. Đó gọi là Vô úy thí.
Chúng ta từ lúc sinh ra đã sợ sệt nhiều điều : sợ
bóng tối, sợ cô đơn, sợ đau ốm tai nạn, sợ hoàn cảnh khó khăn, thậm chí
sợ những điều không đáng sợ. Bồ tát hiểu rõ điều này, nên các Ngài dùng
sức vô úy che chở cho chúng sanh. Khi chúng sanh đã an ổn, tin tưởng và
có cảm tình, các Ngài mới hướng dẫn họ đến với Phật pháp. Hạnh vô úy này
thật ra rất khó, đòi hỏi người bố thí phải tu hành có kết quả, thấy rõ
và thâm nhập lý duyên sinh-vô ngã, mới có thể thực hiện được.
Tóm lại, chúng ta thấy bố thí là một quan niệm sống,
một nghệ thuật sống cao đẹp, phát sinh từ tâm từ bi. Nếu không có tâm từ
bi thì không thể hành hạnh bố thí. Ngoài ra, muốn bố thí đạt đến cứu
cánh, thì phải hợp với tinh thần Ba la mật, nghĩa là khi giúp người mà
chúng ta hoàn toàn không thấy mình là người ban ơn, chúng sanh là kẻ
chịu ơn. Có như vậy chúng ta mới phục vụ người khác bằng một tâm trong
sáng, không có tính tóan, mưu mô.
2- Ái ngữ nhiếp :
Ái ngữ nhiếp là dùng lời nói mềm mỏng dịu dàng, gây
được cảm tình với người khác; và từ đó, hướng dẫn họ tu hành theo chánh
pháp.
Trong cuộc sống hằng ngày, mọi người cần sử dụng ngôn
ngữ khi giao tiếp, khi muốn bày tỏ ý kiến, tình cảm với người chung
quanh. Một người có nổi buồn muốn thổ lộ, phải dùng lời nói; người có
niềm vui muốn san sẻ, cũng phải dùng lời nói cho người khác cảm thông.
Nhưng dù vui hay buồn, cũng phải biết cách sử dụng lời nói làm sao để ai
nghe cũng mát lòng đẹp ý, đó gọi là Ái ngữ. Chỉ có lòai người mới có
ngôn ngữ, nên chúng ta cần biết trân quý để sử dụng đúng thời đúng mức.
Thật ra ngôn ngữ là con dao hai lưỡi, có thể an ủi, xoa dịu nổi đau cho
người khác, nhưng ngược lại có thể gay tổn thương tác hại cho cả mình và
người. Do vậy, là Phật tử, lời nói chúng ta thốt ra phải mang tính cảm
thông và xây dựng. Một số phụ huynh thường dùng áp lực, quyền hạn của
bậc trưởng thượng, bắt con cháu phải theo đúng ý mình, đôi khi làm chúng
bị tổn thương. Dĩ nhiên, quyền lực cũng cần thiết nhưng phải dùng đúng
lúc. Cho nên sử dụng Ái ngữ đối với con cái hay người chung quanh là một
nghệ thuật và là điều cần thiết.
Nếu đôi mắt được xem là cửa sổ của tâm hồn, thì ngôn
ngữ chính là chổ biểu hiện của tâm hồn ấy. Vì sao nói như vậy ? – Bởi vì
lời nói của một người có thể biểu hiện được tư cách, trí tuệ, đạo đức
và đời sống nội tâm của người đó. Một nhà hiền triết có nói : “Tạo hóa
rất khéo sắp đặt, cho mỗi người hai mắt, hai mũi, hai tai nhưng chỉ
có một miệng” cần hai mắt để thấy cho rõ, cần hai mũi để hít thở cho
đủ dưỡng khí, cần hai tai để lắng nghe; nhưng chỉ cần một miệng để vừa
ăn vừa nói. Đức Khổng Tử đã bảo : “Đa ngôn đa bại” ( nói nhiều hại
nhiều).
Trong kinh A Hàm, đức Phật dạy : “Này các Tỳ kheo !
có ba lối nói : Một là nói như phân; hai là nói như hoa; ba là nói
như mật.
Thế nào là nói như phân ? – Này các Tỳ kheo ! Hạng
người nói không đúng sự thậtt, nói dối trá, nói hai lưỡi, nói thêu dệt,
nói ác ngữ. Đây là hạng người nói như phân.
Và này, các Tỳ kheo ! Thế nào là nói như hoa ?
Hạng người nói đúng sự thật, không dối trá không nói hai lưỡi, không nói
thêu dệt, không nói ác ngữ. Đây là hạng người nói như hoa.
Và này, các Tỳ kheo ! Thế nào là nói như mật ? –
Hạng người không những nói đúng sự thật, không dối trá, không nói hai
lưỡi, không nói thêu dệt, không nói ác ngữ, mà còn luôn luôn nói những
lời lợi ích, nói những lời không hại, nói những lời hướng thiện, tai ưa
nghe, khả ái, đi thẳng đến tâm, lễ độ, được nhiều người ưa thích, thích
ý. Đây là hạng người nói như mật”
Vì sao đức Phật ví những người vọng ngôn , ỷ ngữ,
lưỡng thiệt và ác khẩu là nói như phân ?
Trong cơ thể, chất hạ tiện nhất, bẩn thỉu nhất là
phân. Khi một người nói ra những lời ấy, người khác cũng nhờm gớm, không
muốn nhìn, không muốn gần, như đối với phân vậy.
Hạng người thứ hai khiến người chung quanh muốn gần
gũi, yêu mến, được ví như hoa, vì hoa vừa có màu sắc vừa có hương thơm,
khiến người thích nhìn ngắm, thưởng thức.
Hạng người thứ ba đặc biệt hơn cả, họ đã thành tựu
được chánh ngữ và sử dụng chánh ngữ để làm lợi ích cho người khác, giúp
người khác đi vào chánh đạo, thăng hoa trong cuộc sống. Đức Phật ví hạng
người này như mật,, vì ngoài hương vị thơm ngon và ngọt ngào, mật còn có
tác dụng trị liệu. Y học hiện đại kết hợp với y học cổ truyền đã chứng
minh, mật có một số tác dụng chính như thanh nhiệt giải độc, giúp an
thần, tăng trí nhớ và trị suy nhược thần kinh, kích thích tiêu hóa và
điều hòa độ axít trong dạ dày, long đàm và giảm ho, đặc biệt còn làm
tăng thể trạng và sức đề kháng cho cơ thể. Hạng người nói như mật, không
những dùng ái ngữ khiến người khác cảm mến muốn gần, mà lời nói của họ
khiến người khác bớt khổ, điều trị được bệnh phiền não cho người.
3- Lợi hành nhiếp :
Lợi hành nhiếp là những hành động làm lợi ích cho một
người hay nhiều người khác, sau đó đưa họ về với đạo lý. Ví dụ : Dắt một
người mù qua đường, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tham gia
các tổ chức công ích, từ thiện …
Trong thiền sử đã kể, nhiều vị thiền sư dùng y thuật
điều trị bệnh cho người; sau khi lành bệnh mới đưa họ về với chánh pháp.
Như thế Y-phương-minh là một trong ngũ minh, phương tiện hành đạo của Bồ
tát, cũng thuộc lợi hành nhiếp. Hiện nay có rất nhiều tổ chức y tế phục
vụ bệnh nhân nghèo vô điều kiện, như các bệnh viện miễn phí, các tổ phẫu
thuật đem lại ánh sáng và nụ cười cho những người mù và dị tật sứt môi ,
tổ chức các thầy thuốc không biên giới … cũng nhằm mục đích đem lại sức
khỏe cho con người. Có thể trong những tổ chức đó, các vị Bồ tát cũng
có mặt để nhờ lợi hành mà thu nhiếp chúng sanh, nhưng các Ngài không bao
giờ để lộ ra mình là Bồ tát.
Chúng ta cũng cần phân biệt lợi hành và đồng sự.
Trong lợi hành luôn luôn có ý nghĩa phụng sự người khác mà quên lợi ích
của bản thân mình. Còn đồng sư,ï sẽ phân tích ở sau, chỉ là cùng sống
cùng làm, cùng hưởng thành quả như đối tượng mình muốn nhiếp phục. Trong
lợi hành có sự hi sinh nhiều hơn, và lợi ích mình mang lại cho người có
thể thấy một cách rõ ràng và tức thời, nên dễ khiến người cảm phục và
tin theo.
4 – Đồng sự nhiếp :
Đồng sự nhiếp là hòa mình vào cùng việc làm, hoàn
cảnh, cùng chia bùi xẻ ngọt với người, sau đó dẫn dắt họ đến với Phật
pháp. Cuộc sống hòa mình, cùng chung buồn, vui, sướng, khổ với người là
một nghệ thuật đắc nhân tâm. Nhưng muốn hòa đồng như thế, chúng ta phải
có lối sống có phong cách, có ngôn ngữ gần giống người mà mình muốn
nhiếp phục. Đối với nông dân, chúng ta phải lam lũ, tay lấm chân bùn, ăn
nói bình dân như họ. Đối với hạng trí thức thượng lưu, chúng ta cũng
phải có văn hóa trình độ, phong cách tao nhã tương tự như thế. Dĩ nhiên
từ “hòa đồng” ở đây chỉ có nghĩa là sống, nói năng và làm việc phải gần
giống với đối tượng, chứ không phải giống hòan toàn, nhất là đối với
những người kém văn hóa hay sống trụy lạc bê tha. Đây là ý nghĩa của
việc “Hòa quang đồng trần” của các vị Bồ tát. Các Ngài sống chung
đụng với đủ các hạng người, từ giàu có thượng lưu đến tầng lớp bần
cùng nghèo khổ, từ những người lương thiện đạo đức đến những kẻ trộm
cướp lưu manh. Các Ngài gần gũi họ nên hiểu họ một cách sâu sắc, được họ
tin tưởng yêu mến, từ đó mới giúp đỡ họ, nhiếp phục họ một cách hiệu
quả. Hình ảnh đẹp đẽ và tiêu biểu nhất của đồng sự nhiếp là Tếâ điên Hòa
thượng, có cuộc sống gần gũi với đời thường, quảy bình rượu xách cá chép
thỏng tay vào chợ.
Một điều chúng ta cần ghi nhớ : vì sao các vị Bố tát
có thể hòa mình vào mọi tầng lớp trong xã hội mà không đánh mất mình ? –
Bởi vì các Ngài như một chai nước trong đã lọc hết cặn bã, dù lắc cách
mấy vẫn không bị vẫn đục. Có như vậy các Ngài mới hướng dẫn, giáo dục
được chúng sanh đi theo chánh đạo. Còn chúng ta như nước còn đục, không
thể bắt chước các Ngài sống buông thả, đã không làm được lợi ích cho ai
mà trái lại còn hại bản thân mình. Cho nên, chúng ta phải biết rõ trình
độ tu tập, sức tự tại và thâm nhập Phật pháp của mình đến đâu, để uyển
chuyển linh động khi hành đồng sự nhiếp.
Thật ra, khi có phước duyên nghe và hiểu được Phật
pháp, chúng ta đều muốn mọi người cũng đều có lợi ích như mình. Nhưng
nếu chính bản thân mình chưa tu tập, chưa chuyển hóa mà vội đem Phật
pháp ra nhiếp phục người khác, thì việc làm đó không có căn bản, đôi lúc
gây tác dụng ngược với ý mình. Vì vậy, vấn đề tự lợi phải được đặt lên
hàng đầu, đó là gốc rễ của lợi tha, còn lợi tha chỉ là hoa trái của tự
lợi. Quan trọng là phải sống được với bản tâm chân thật của chính mình,
từ đó có thể biểu hiện ra ngôn ngữ và hành động, ngay cả dáng vẻ cung
cách cũng toát lên một sự bình an thanh lương, khiến người khác quý kính
và tự giác nghe theo. Vào thời đức Phật, chỉ cần nhìn dáng đi, phong
cách hay lối sống của Ngài và các Thánh đệ tử, nhiều người đã phát tâm
tu hành thành tựu đạo nghiệp
Tứ nhiếp pháp mang tính tâm lý, tính thông cảm và
tính xã hội rất cao. Nói rằng “mang tính tâm lý” vì cả bốn pháp nhiếp
này đều đi sâu vào tâm hồn của người khác. Bồ tát sẵn sàng lăn xả vào
cuộc đời, hy sinh vì mọi người để cảm hóa, thu phục người. Có thể nói
đây là môn tâm lý học của Phật giáo.
“Mang tính thông cảm” vì có thông cảm với nổi khổ
đau, khó khăn, thiếu thốn của người, ta mới giúp đỡ người bằng tất cả
tấm lòng, không mong cầu đền đáp. Mà muốn thông cảm, ta phải đặt mình
vào hoàn cảnh của người,. Có như thế ta mới thương mến người một cách
chân thành, đem lại lợi ích cho người một cách vô vi lợi.
Về “Tính xã hội” thì quá rõ ràng, vì xã hội có tính
cách cá thể và tập thể, mà thực hành Tứ nhiếp pháp là thực hành đối với
một người, một tập thể nào đó. Nhờ mang tính xã hội mà đạo Phật được
truyền bá rộng rãi từ thành thị đến nông thôn, tận các vùng sâu vùng xa.
Nhờ tính xã hội mà đạo Phật có mặt ở mọi tầng lớp, từ giàu có đến nghèo
hèn, từ trí thức thượng lưu đến bình dân thất học.
Đạo Phật dùng tứ nhiếp pháp để chinh phục lòng người,
như thế cũng là dùng “Vũ khí”. Nhưng thứ vũ khí này không phải là công
cụ giết người để thỏa mãn quyền lực và tham vọng của kẻ ác, mà là phương
tiện để đưa con người về con đường chân chính, giúp người tìm được sự an
bình nội tâm. Đạo Phật rất xa lạ với giáo quyền, mà lại mang tính tự do
dân chủ, tôn trọng quyền con người một cách triệt để. Đạo Phật đặc biệt
còn mang tính từ bi, vì từ bi nên chủ trương dùng đức báo oán; vì thế
mới có sức mạnh vô địch, có thể san bằng mọi nghịch cảnh oán thù. Do
vậy, đạo Phật đã tồn tại trên hai ngàn năm trăm năm mà chưa từng có một
cuộc thánh chiến nào, chưa từng gây đỗ máu cho ai. Đây là một nét đẹp
tuyệt vời của Phật giáo.
Khi thực hành Tứ Nhiếp Pháp, ta đã thể hiện tâm từ
bi, tức ban vui và cứu khổ vào cuộc đời. Đây là pháp tu của hàng Bồ tát
chứ không phải của người tầm thường, bởi đó không chỉ là tu riêng cho
bản thân mình mà còn làm cho nhiều người khác cùng chuyển hóa. Nét tự
lợi và lợi tha đều có đầy đủ, mà dường như lợi tha lại cao hơn một bậc.
Tất cả chúng ta, nếu muốn thành tựu Phật quả, không có con đường nào hơn
là phải theo lộ trình tự lợi và lợi tha của Bồ tát. Tuy nhiên, cũng cần
lưu ý, trong công cuộc giáo hóa chúng sanh, phước duyên và công phu tu
tập của từng vị Bồ tát là những điều kiện tiên quyết. Công huân tu tập
là đời sống căn bản của một Bồ tát, còn phước duyên là do vị ấy tích lũy
trong nhiều đời kiếp.
Chúng ta cũng cần phân biệt giữa phước và duyên.
Phước là có của cải, có điều kiện tốt để làm lợi ích rộng rãi, được
nhiều người hỗ trợ; phước biểu hiện trên tư cách, trên cuộc sống của một
người. Duyên là có khả năng lôi kéo, thuyết phục người khác, khiến người
khác chịu phục tùng. Tùy công huân tu tập và phước duyên mà một vị Bồ
tát có quyến thuộc nhiều hay ít. Có nhiều người muốn giúp đỡ, làm lợi
ích cho người khác, nhưng do phước duyên còn mỏng, nên thất bại trong
công cuộc giáo hóa chúng sanh. Cũng có trường hợp, công huân tu tập chưa
đến đâu mà ra làm thầy thiên hạ, không có gì để truyền tải cho người,
nên không thu được kết quả bao nhiêu.
Tóm lại, Tứ nhiếp pháp là pháp môn phương tiện mang
tính nhiếp hóa, cảm phục được lòng người một cách hữu hiệu. Đây là những
hạnh tu lợi tha của những người có tâm Bồ tát, muốn hiến dâng cuộc đời
mình cho lợi ích chung, bởi vì “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư
Phật” vậy./.
***