Vô
Thường - Vũ Trụ Động
Thích Liễu
Nguyên
Dưới nhãn quan
của Thế tôn, sự vật luôn đúng với mặt thật của nó. Vô thường như là chân
lý tuyệt đối cho các pháp hữu vi. Phàm ai còn trong pháp hữu vi thì
không ngoài quy luật đó. Trong Kinh Bát Đại Duyên Giác Thế Tôn dạy: “Đệ
nhất giác ngộ: Thế gian vô thường, quốc độ nguy thuý, tự đại khổ không,
ngũ ấm vô ngã, sinh diệt biến dị, hư nguỵ vô chủ, tâm thị ác nguyên,
hình vi tội tẩu; như thị quán sát, tiệm ly sanh tử.”54
(Dịch nghĩa: Điều giác ngộ thứ nhất: Thế gian vốn vô thường, cõi nước
rất mong manh, bốn đại lại khổ không, năm ấm là vô ngã, luôn sinh diệt
biến đổi, giả dối không có chủ, tâm là nguồn gốc việc ác, thân là rừng
nghiệp tội; nếu quán sát như thế, lần lần lìa sanh tử). Đó là cái thấy
vô thường rốt ráo của một bậc Giác giả. Cái nhìn vạn pháp hữu vi rốt ráo
trên hai mặt khách quan và chủ quan, cũng được hiểu là tích cực và tiêu
cực. Vấn đề chủ quan mang tín tiêu cực gắn liền với sự có mặt của con
người, có sự hiện diện của ngũ ấm, có sự hiện diện của chấp thường, chấp
ngã. Những sự hiện diện đó làm cho con người, chúng sanh thấy khổ đau.
Còn mặt khách quan, tích cực là mặt thật của nó “Vô thường thị thường”,
nó không gắn liền với sự khổ đau con người, và tự thể nó không có tính
khổ đau. Như vậy vấn đề khổ đau chỉ là vấn đề nhận thức của con người về
mặt tiêu cực, chủ quan thì vô thường làm cho chúng sanh khổ đau do trái
với sở kiến chấp thường, chấp ngã của chúng sanh. Nhưng về mặt tích cực
(mặt khách quan) vô thường như một quy luật chung cho mọi pháp hữu vi.
Theo ngôn ngữ Phật giáo thì gọi là vô thường, theo giới khoa học thì gọi
là vận động theo triết học Trung Hoa thì gọi là biến dịch. Tính chất vô
thường như không tha thứ một ai nên ai cũng có thể cảm nhận được nó. Một
cụ già trước lúc về hưu thốt lên: “sao cuộc đời nhanh chống đến thế, mới
tuổi đôi mười giờ đây tóc hoá bạc”. Hay một nhà thơ ngỡ ngàng trước sự
chuyển đổi của trời đất sau những ngày xa quê, một cuộc đổi dời kiến
người ta phải giật mình trước cảnh bãi biển biến thành nương dâu (thanh
hải biến vi tang điền):
“Sông xưa rày đã lên đồng
chổ làm nhà
cửa chổ làm nương khoai
thoảng nghe
tiếng ách bên tai
giât mình
chợt tưởng tiếng ai gọi đò”
Sự vô thường còn có sự
tiếp tay của con người. Trái lại sự vô thường của quy luật tự nhiên là
sự vô thường hiển nhiên không thể chống trả, không thể gạn ép, nó sinh
diệt biến thiên một cách đều đặn trong lý Duyên Sanh. Ví dụ như người
xưa thường nói:
“Mưa không
rơi mà hoa vẫn rụng
Gió chẳng
thổi mà lá vẫn rơi đều”
Đó là quy luật vô thường
trong mô hình tự vận động sinh diệt của các pháp mà trong vật lý gọi là
“tự vận động” không có tác nhân kích hoạt. Tự trong đoá hoa, ngọn lá ấy
là cả một sự biến chuyển cực kỳ huyền diệu và linh động trong ý nghĩa
thâm diệu, viên dung của Duyên Khởi.
Khi khoa học phát triển
sự vô thường đó phần nào được đo bằng những thực nghiệm có thể kiểm
chứng được. Điển hình trong thế giới nguyên tử người ta có thể đó lường
được một đại lượng vô thường cực kỳ nhạy cảm của sự vật: “…Hơn nữa,
các hạt rất “linh động”, ngay ở trạng thái “không bị kích thích”, yên
tĩnh nhất chúng cũng không ngừng mạch động thực hiện 1023
mạch động trong một giây”55
hay “Vì cũng có tính lượng tử như các electron….nơi càng chật chội
chúng càng chuyển động nhanh hơn. Chúng di chuyển trong nhân với một vận
tốc 60.000 km/giây”56.
Kể từ khi thuyết vạn vật hấp dẫn của Newton ra đời khoa học như ngày mỗi
tiếp cận những tinh hoa của Đạo Phật. Trong khi bác học Newton tiếp cận
tính vô thường trong phạm vi vĩ mô toàn vũ trụ trong nguyên lý “Lực
hấp dẫn giữa hai chất điểm bất kỳ tỉ lệ thuận với các khối lượng m1
và m2 của chúng và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách r
giữa chúng”. Thì, bác Học Einstein lại đi sâu hơn một bước nữa đó là
tự thấy được trong thế giới nguyên tử nhỏ bé đã hiện diện đủ cả thế giới,
trong đó có tính vô thường rốt ráo và quan trọng hơn là Duyên Khởi được
tìm thấy, chân lý Vô Ngã được hé mở.
Khoa học ngày nay như
muốn chứng minh Vũ Trụ là Duyên Sanh Vô Ngã .Thế Giới Hoa Nghiêm như là
một tuyệt đỉnh mẫu mực về quy luật vận hành của vũ trụ, vạn pháp: “Ý
niệm cơ bản của Hoa Nghiêm là nắm bắt vũ trụ động mà tính chất của nó là
luôn luôn biến hoại, trong dòng của vận động đó là đời sống”57
Bên cạnh xác minh sự vật
vô thường Phật giáo còn xem triết lý đó để giáo dục người hành đạo. Hãy
bình tâm trước cảnh đổi thay mà không thể thay đổi đó: “Vô thường thị
thường” . Trên ý niệm đó người tu như nắp bắt được cái tuyệt đối của vô
thường, cái tuyệt đối đó không dính dáng đến sự khổ đau. Đó là nét tích
cực của vô thường. Cũng nhơ
nét tích cực này mà hành
giả có thể trong chờ và có thể đạt đến một sự giải thoát Niết bàn
trong ý nghĩa tuyệt đối của chân lý vô thường vậy.
54
HT. Thích Tinh Vân: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Duyên Giác. nxb
Tôn Giáo, tr 29.
55
Đồng sọan giả :(Đồng dịch giả), Lực Làm Các Thế Giới Chuyển Động.
nxb Khoa Học và Kỷ Thuật, Hà Nội 1985, tr 100.
56
Fritjof Capra: (Nguyễn Tường Bách dịch), Đạo Của Vật Lý. nxb Trẻ
2001, tr 92.
57
D.T.Suzuki: The Essence Of Buddhism. Hozokan, Kyoto , Japan ,
1968, tr 53.
***