Ý Nghĩa Nhân Bản Của Sự Tự Học
Phạm Phú Thành
Lời giới thiệu:
Dưới đây là Bài phát biểu của Giáo sư Phạm Phú Thành trong Lễ trao bằng
tốt nghiệp lớp Trung Cấp II.B và Lễ tổng kết năm học thứ nhất, khóa IV
(2004-2008) Trường Trung cấp Phật học tỉnh Lâm Đồng do chính Giáo sư gửi
tặng chúng tôi - cựu Tăng sinh khóa I (1990-1994) và học trò của Ông -
qua đường bưu điện năm 2005. Đã 3 năm trôi qua, ngày nay đọc lại Bài
phát biểu ấy, chúng tôi vẫn thấy nguyên tính thời
sự,
giá
trị học thuật
và tác dụng giáo dục của nó, - nhất là trong bối cảnh giáo dục
nước ta nói chung và giáo dục Phật giáo nói riêng, khi mà xã hội đang
gióng lên những hồi chuông cảnh tỉnh về tình trạng xuống cấp trong giáo
dục. Chính vì thế, chúng tôi phát tâm đánh máy nguyên văn và xin Giáo sư
cho phép được phổ biến Bài phát biểu này đến chư vị Tăng – Ni sinh trong
và ngoài nước. Chúng tôi hy vọng rằng, qua Bài phát biểu này, chư vị
Tăng – Ni sinh sẽ nhận chân được ý nghĩa đích thực của sự học và sự tự
học cũng như ý thức được bổn phận, trách nhiệm của bản thân, - đó là
Duy Tuệ Thị Nghiệp.
-
Thích Minh Trí
-
Trụ trì chùa Phúc Lâm, Biên Hòa
**********
Nam-mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch chư
Tôn Đại Đức
Kính thưa chư vị
Khách Quý
Được sự ủy nhiệm
của Ban giám hiệu và Ban giảng huấn nhà trường, tôi xin phép được trình
bày cùng chư Tăng-Ni sinh quý mến về một vấn đề giáo dục. Ngưỡng xin chư
Tôn Đức hoan hỷ chứng minh, kính mong các vị Khách Quý không nỡ tiếc
thời gian quý báu.
Xin thưa, những
gì tôi sắp phát biểu hẳn mang đậm màu sắc thế học; tôi tự xét không đủ
tư cách và trình độ để nói về Phật Pháp mà chính tôi phải là người
được nghe chứ không phải là người được nói. Nếu có ý tưởng nào liên
hệ đến Phật Pháp, chẳng qua dù sao tôi cũng là một phật tử từng được
hưởng ít nhiều Giáo Pháp của đức Thế Tôn, cảm kích mà thốt ra lời, -
mong được thông cảm.
Sau đây là một
vài suy nghĩ cá nhân về “Ý nghĩa nhân bản của sự tự học”.
Thật ra vấn đề
tự học không có gì mới lạ. Ở trường thầy cô giáo nào mà chẳng quan tâm
nhắc nhở; báo chí từng đăng tải những lời khuyên quý báu của các nhà
giáo dục, tiến sĩ, giáo sư… - đã thành công rực rỡ, sáng danh nhờ tự
học. Tôi từng phân vân tự hỏi: Ngoài cái giá trị thực dụng
của nó là mang lại sự đỗ đạt, thành công và danh vọng, sự tự học
còn có ý nghĩa gì khác, không gắn liền với lợi và danh?
Trước hết, như
chúng ta đều biết “Con người là sinh vật thông minh nhất trên hành
tinh này”. Khoa học xếp con người đứng đầu loài linh trưởng,
tức loài động vật có trí khôn. Trên 2000 năm trước, sách Thượng Thư của
Trung Quốc ghi: “Duy nhân vạn vật chi linh, -惟
人
萬
物
之
靈,
- người là giống tinh khôn nhất trong muôn vật.” Đức Thế Tôn dạy
rằng “Có được thân người là khó, - nhân thân nan đắc, -
人
身
難
得”.
Một đặc tính nổi
bật nơi con người là biết bắt chước hay học theo. Có thể
nói: “Tự học là thuộc tính của trí tuệ gắn liền với bản năng sinh
tồn”, mà ngay trong giới động vật cấp thấp cũng thấy biểu hiện
khả năng này:
- Con chim mẹ
làm tổ trên cao, đến khi chim con đủ lông cánh, chim mẹ tập cho chúng
bay, nếu chim con không tự học theo cách vỗ cánh
của chim mẹ thì làm sao biết bay, mẹ chúng đâu có cưỡng chế giáo dục như
con người. Mẹ chúng chỉ dùng thân giáo, và tuyệt nhiên không áp
đặt bằng kỷ luật. Trường hợp sớm mất cha mẹ, mà nếu chưa chết vì đói
khát, con con cũng tự lực hành động theo bản năng, hoặc học theo bầy đàn
để sinh tồn. Khi viết đến đây, tôi bỗng nhớ lại một bức tranh vui, đối
với tôi có ý vị của một chuyện ngụ ngôn hay một lời dụ.
Tranh vẽ một đàn
chim con tập bay theo mẹ từ cái tổ trên cây cao. Có một chú chim con run
rẩy không dám bay, nhưng tình thế buộc nó phải đáp xuống bên kia, nó bèn
tuột xuống thân cây, rốt cuộc nó cũng “đáo bỉ địa”, - sang bên kia theo
đàn một cách an toàn. Tôi thú vị liên tưởng: Học theo là tốt nhưng
không tự biết mình, không tự lượng sức là nguy.
Còn nơi con
người?
-- Trẻ con hay
bắt chước người lớn, dù có khi bị cấm.
-- Có những em
bé nghèo khổ, mồ côi sống lang thang nếu chúng không tự lực tự cường,
không tự tìm cách học hỏi thì làm sao sống nổi.
Triết gia Hy Lạp
thời cổ đại ARISTOTLE cho rằng “Bản tính con người vốn hiếu tri, –
All men by nature desire to know.” Triết gia Anh thời cận đại
Francis BACON nói “Tri thức tự nó là sức mạnh, - Knowledge itself is
power.”
-- Từ ngàn xưa,
“tổ chức học”, tức “tổ chức giáo dục” đã trở thành định
chế xã hội. Ngày nay, nước nào cũng đầu tư rất nhiều cho giáo dục;
gia đình nào cũng tiêu hao tiền của cho sự học của con em. Trong bối
cảnh như vậy, sự học buộc phải có giá trị thực dụng mang tính
xã hội. Và sự tự học tất nhiên phải gắn liền với giá trị thực
dụng đó.
Có thể đặt câu
hỏi cho Tăng-Ni sinh của chúng ta: “Giả sử quý vị không đến trường
để nâng cao tri thức, và có thể “tiến thân” bằng con đường học
hành, thi cử, - chẳng hạn sẽ đỗ vào Học viện Phật giáo, đi du học, đỗ
tiến sĩ, làm giảng sư v.v…, thì liệu ở chùa, ở trú xứ quý vị có nhu cầu
tự học, tự tìm phương cách nâng cao trình độ, hoặc để khắc phục những
khiếm khuyết nào đó của bản thân? Và sư phụ của quý vị có tạo điều kiện,
hướng dẫn quý vị tự học, - nếu việc đó không gắn liền với nhiệm vụ ở
trường lớp, gắn liền với thi cử?
Trong thế giới
mà kinh tế không tương xướng với sự gia tăng dân số và sự hưởng thụ xa
hoa của một bộ phận giàu có, quyền thế tham lam, thì sự học chủ yếu vẫn
là nhằm trang bị cho mỗi cá nhân cái năng lực tranh sống và cầu danh;
nói như người xưa: “tranh danh đoạt lợi”. Tình người ngày càng mờ
nhạt, đạo đức ngày càng suy vi! --- Tôi đã rất xúc động và chua xót khi
đọc mấy dòng sau đây:
“Trong cái xã
hội hiện nay chúng ta buộc phải sống, xã hội xây dựng trên sự đối kháng
giai cấp và sự thống trị giai cấp, khả năng có được những tình cảm
thuần túy con người trong quan hệ của chúng ta đối với đồng loại vốn
đã không còn được bao nhiêu nữa rồi, vậy chúng ta không có chút lý do
nào để làm cho khả năng đó càng giảm bớt đi hơn nữa, bằng cách nâng
những tình cảm ấy lên địa vị của một tôn giáo”,
-- đó là lời của Ăng-ghen. (1)
Thử nghĩ, làm
sao “có được những tình cảm thuần túy con người trong mối quan
hệ với đồng loại” khi mà hố ngăn cách giữa giàu và nghèo ngày càng
sâu rộng; và cái tâm lý ham danh, ham lợi, ham quyền lực, ham hưởng thụ
là phổ cập. Người xưa từng nói: “Hai người cùng lo một
việc thường thương yêu nhau, hai người cùng ham thích một việc thường
ganh ghét nhau.”
Xét cho cùng,
chỉ có người xuất gia tu hành chân chính, và ai thật
sự trọng nghĩa khinh tài mới mong giữ được tình người. Nhưng
biết thế nào là tình người thuần túy chẳng phải dễ, -- phải
học, phải quán, và bản thân phải tự chứng nghiệm.
Đâu phải chỉ tìm
hiểu, quan sát đối tượng bên ngoài, - như học toán, học sinh ngữ, học
giáo lý v.v… mới gọi là học. Trong đạo Phật có từ ngữ “tự quán chiếu,
- 自
觀
照”,
Nho giáo có câu “Ngô nhật tam tỉnh ngô thân, -
吾
日
三
省
吾
身,
- mỗi ngày tôi tự phản tỉnh ba điều về mình”, triết gia Socrates
khuyên “Hãy tự biết mình”, trong Tâm Lý Học cổ điển, phương pháp
nghiên cứu ý thức quan trọng nhất là phương pháp “nội quan –
introspection”.
Có một sự kiện
đáng làm cho ta suy gẫm: Trong đại hội tôn giáo hoàn cầu tổ chức tại
Chicago - Mỹ, năm 1993, người ta có trình chiếu cuốn phim “Lời cảnh
báo của bậc Huynh Trưởng, - Elder Brother’s Warning”, do đoàn phóng
viên đài BBC thực hiện, nói về đời sống của dân Kogi, một
bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ, sống rất hạnh phúc, nhưng cách ly với thế
giới văn minh vật chất của hành tinh này.
Sau đây là đoạn
trích bài thuyết trình của ký giả Alan Ereira:
“Cách giáo dục
thanh niên tại đây cũng hết sức lạ lùng, có một không hai. Khi được
khoảng 20 tuổi, thanh niên được gởi đến học hỏi với các bậc trưởng lão
trong những túp lều đơn sơ hay một hang đá. Tại đây, họ sẽ được tập ngồi
yên, quay mặt vào vách tường trong bảy đến chín năm liền. Họ chỉ nhai
một ít lá cây, uống một chút nước và chú tâm suy gẫm về những điều được
giảng dạy. Mỗi ngày vào giờ giấc nhất định, các bậc trưởng lão có nhiệm
vụ hướng dẫn sẽ bước vào trao cho họ một đề tài chi đó để suy gẫm.”
– Tôi
cho rằng đó là sự tự học chân chính nhất.
Sự tự học gắn
liền với bản chất của con người, do vậy mà nó mang tính nhân bản sâu
sắc.
Sống ở đời, nếu không có ai dạy cho, con người cũng phải tự học mới có
thể ứng xử tình huống một cách thích đáng.
Xét theo quan
điểm tâm lý học và đạo đức học tôi nhận thấy rằng:
* Người thích tự
học thường có lối sống theo lý tính hơn là sống theo cảm tính
vốn thường gắn liền với các bản năng; họ nhận ra được cái giá trị của
đời sống tinh thần, và mặc nhiên khẳng định sự hiện hữu độc đáo
của mình. Nhà triết học kiêm toán học Pháp Descartes nói: “Dubito
ergo cogito, cogito ergo sum, - Tôi hoài nghi nghĩa là tôi tư duy; tôi
tư duy nghĩa là tôi hiện hữu”. Ta cũng có thể phát biểu na ná:
“Tôi tự học nghĩa là tôi tư duy; tôi tư duy nghĩa là tôi hiện hữu”.
* Người tự học
thường có niềm vui trí tuệ nội tại; như
Khổng Tử nhận định: “Trí giả lạc, nhân giả thọ, -知
(智)
者
樂,
仁
者
壽,
-Người trí thì vui, người nhân từ thì sống lâu,
(sống lâu có lẽ
nhờ không bị stress)”. Đây là niềm vui lẫn tự hào vì dù muốn dù không nó
cũng mang ý nghĩa “vô sư trí,
無
師
智”
thế gian.
* Ai có khả năng
tự học thường tự tin, tri túc và tự trọng.
Thi hào Pháp thế kỷ XIX, Alfred de Musset nói một
câu đầy ý vị:
“Cái ly của tôi
không lớn, nhưng tôi uống bằng cái ly của tôi.-
Mon verre n’est
pas grand, mais je bois dans mon verre”.
* Người tự
học vì nhu cầu trí tuệ biết tự đánh giá mình nên tự chủ, dễ nhận
ra rằng ‘càng học càng thấy mình dốt’ cho nên thường
khiêm tốn.
Socrates, triết
gia thời cổ đại, được phương Tây kính trọng như người Á Đông kính trọng
Khổng Tử. Học giả Trung Hoa Lương Khải Siêu kể rằng, tại Nhật Bản, trong
đền thờ các bậc Thánh Triết của nhân loại, người ta thờ trên hết là
Thích Ca, kế đến là Khổng Tử, kế đến là Socrates, -
người đã nói câu nói bất hủ: “Tất cả những gì tôi biết, ấy là tôi
không biết gì hết – All I know is that I know nothing.” Về câu danh
ngôn này, hồi còn là học sinh – sinh viên, tôi từng phân vân và cho rằng
Socrates quá khiêm tốn, bậc như ông mà nói “không biết gì hết”,
thật là khó hiểu; thiếu thành thực chăng, hay là như người đời nói “quá
khiêm tốn cũng là một cách tự cao”?
Về sau tôi tìm
hiểu Phật Pháp, hiểu được ý nghĩa của từ ngữ “Chánh biến tri-
正
遍
知”,
- chỉ cái biết tận cùng rốt ráo của đức Phật:
Vũ Trụ Càn Khôn
không có chỗ nào không soi sáng tận cùng;
Sắc Không Tướng
Tánh không có gì không biết rốt ráo như thị.
宇
宙
乾
坤
莫
非
盡
照
, 色
空
相
性
無
不
了
然
Vũ Trụ Càn Khôn
mạc phi tận chiếu;
Sắc Không Tướng
Tánh vô bất liễu nhiên.
Và nhờ vậy mà
tôi không còn thắc mắc về sự khiêm tốn chân thành của Socrates “Biết
thì nói mình biết, không biết nói mình không biết, - Tri vi tri chi, bất
tri vi bất tri, thị tri giả, -
知
為
知
之,
不
知
為
不
知,
是
知
者”,
- nên càng kính phục ông.
Nhà bác học Anh
Isaac Newton vĩ đại như thế, - trong từ điển Larousse Pháp ghi:
“Ông đã trở thành bất tử nhờ khám phá ra các định luật hấp dẫn của vũ
trụ và sự phân tích ánh sáng”, vậy mà tri thức vật lý vũ trụ
của ông -- từng được xem là đỉnh cao nhất của tri thức khoa học – đã
phải nhường chỗ cho “Thuyết tương đối” của Albert
Einstein. Và Einstein còn vĩ đại hơn nữa mà cho đến khi chết
vẫn chưa hoàn thành Lý Thuyết Đại Thống Nhất – Grand Unification
Theory, - tức lý thuyết thống nhất các quy luật vật lý điều
khiển toàn thể vũ trụ.
Các nhà khoa học
hiện đại đang cố gắng thực hiện ý tưởng này của Einstein. Vậy thì xin
hỏi có nhà tư tưởng nào, nhà triết học nào – mà triết học vốn dựa
vào những thành tựu của các khoa học cụ thể, nhiều khi chỗ dựa đó chủ
yếu là những thành tựu của Vật Lý Học – dám áp đặt tri kiến của mình
lên nhân loại? Giả sử có người làm như vậy, liệu chúng ta có
nhắm mắt tin theo? -- hay cho là ‘đại chủ quan’.
Tự học để tự “giải
ngu”, “giải hoặc” ngõ hầu khỏi bị người mê hoặc và không mê hoặc
người, - “Trí giả bất hoặc, -
知
(智)
者
不
惑”.
Nhưng chúng ta không nhầm lẫn Trí Tuệ Bát Nhã trong phương
châm “Duy tuệ thị nghiệp, -
惟
慧
是
業”
với “Thế trí biện thông, -
世
智
辯
通”
của một số nhà khoa bảng, giảng sư, giáo thọ v.v… Lại càng không nên
nhầm lẫn với cái kiến thức thông tin dữ kiện mênh mông như biển
trên mạng internet, - mà máy tính có thể tích lũy nhiều hơn bộ óc
con người; và robot thông minh có thể ứng dụng nó rất hiệu quả,
có khi còn chính xác hơn con người.
Mọi tri thức từ
ngoài vào phải được tinh lọc.
Nếu không có khả
năng tự tu, tự học, tự quán chiếu thì làm sao biết tinh lọc?
Nguyên tắc sư
phạm “thầy chủ đạo, trò chủ động” được xem là tiên tiến,
đang được áp dụng trong dạy và học hiện nay, đã được Khổng
Tử dùng cách đây trên 2000 năm. Khổng tử nói: “Kẻ nào không phấn phát
tìm hiểu thì ta không giảng cho, không rán lên để phát biểu ý kiến thì
ta không khai phát cho, ta nêu ra một góc cạnh (của vấn đề) mà không tự
suy nghĩ tìm ra ba góc kia, thì ta không dạy cho nữa.” (Bất phẫn bất
khải, bất phỉ bất phát, cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản, tắc bất
phục dã - Luận Ngữ, -
不
憤
不
啟,
不
悱
不
發,
舉
一
隅
不
以
三
隅
反,
則
不
復
也
–
論
語).
Đồng thời với
Khổng Tử, ở phương Tây có triết gia Socrates cho rằng trong mỗi con
người vốn có sẵn ý tưởng. Dạy không phải là đưa ý
tưởng từ nơi mình sang người khác. Ông tự nhận là đã dùng phương
pháp “đỡ đẻ” của “bà mụ”, giúp cho đứa con sẵn có trong
lòng mẹ sinh ra. Khi dạy ai, ông đi từ câu hỏi này sang câu hỏi khác,
kích thích người ta suy nghĩ và trả lời, cuối cùng người học hiểu ra bài
học. Tương truyền, bằng lối dạy này, Socrates đã giúp cho một học sinh
tự mình chứng minh được một bài toán hình học sơ cấp.
Thi sĩ
Térence thời cổ đại có một câu bất hủ: “Tôi là người, tất cả
những gì thuộc về con người không phải là không quan hệ đến tôi”
Nguyên tiếng La Tinh là: “Homo sum, et humani nihil a me alienum
puto”.
Tôi suy niệm,
nếu có một vị Phật hay vị Bồ-tát từ cõi trời nào đó hóa thân làm người
để cứu độ chúng sinh, Ngài hẳn mang trái tim người còn
nhạy cảm hơn tim người của chúng ta hiện nay, - vì sao? – Vì chúng ta
đang dần dần trở nên “vô cảm”, mà vô cảm thì
không thể ứng. Không cảm ứng thì dù có
linh cách mấy cũng không cứu được. Trong kinh Lăng Nghiêm có
ghi chép: Đức Bồ-tát Quán Thế Âm bạch Phật rằng: “ Nếu có A-tu-la
muốn thoát khỏi loài mình, tôi ở trước họ, hiện ra thân A-tu-la, vì họ
mà thuyết pháp, khiến cho họ được thành tựu.” -- Nếu A-tu-la
không thành tâm cầu giải thoát, thì Bồ-tát đâu ứng hiện để cứu độ!
Tôi hay dùng một
phương cách giản dị để theo dõi, đánh giá lòng từ bi của mình, và
khi thật sự nhận ra, bao lần tôi cảm thấy lo buồn vì
thấy lòng từ bi của mình đáng liệt vào hạng gần bét!
Số là có một câu
triết lý tôi biết từ hồi còn trẻ, tôi cho rằng rất hay và vận dụng, câu
đó là: “Về sự biểu hiện lòng nhân ái, tình cảm đầu tiên là quý
nhất.” Chúng ta thường nói về từ bi, bác ái, đó là điều tốt,
nhưng cái căn bản nhất là “cảm ứng tự nhiên ngay từ ban đầu”
ta có không? -- Trước một nỗi khổ đau cực độ của người khác, nếu
không phải là cha mẹ, bà con ruột thịt, bạn bè chí thân, sư phụ hoặc
huynh đệ mình … thì lòng thương xót, lòng từ bi chỉ xuất hiện sau khi
suy lý, dù sự suy lý chỉ can thiệp trong một vài sát-na. Mà
hễ “chỉ thiên về tu lý thì trì trệ; chỉ thiên về tu trí thì không
còn từ bi” (thiên tu lý tắc trệ tịch, thiên tu trí tắc vô bi, -
偏
修
理
則
滯
寂,
偏
修
智
則
無
悲).
Tôi không thể tự biện minh bằng những câu như “mọi sự
là vô thường”, “đó là do nghiệp báo” …, rằng tôi “biết chế ngự
tình cảm”, “sống tự tại” v.v… Nhưng đồng thời tôi cũng không được
nhầm lẫn “từ bi” với “bi lụy” hay với “tính đa cảm đa
sầu”. Xin được ví von bằng hình tượng: trước một nỗi thống khổ
của đồng loại, tim ta phải ‘nhói lên ngay’ như cơn địa chấn mà cường độ
Richter chưa đến nỗi gây long trời lở đất hay sóng thần. Muốn được
như vậy, ta phải thường xuyên tự phản tỉnh, tự quán chiếu về vấn đề này
để nuôi dưỡng “lòng từ bi”.
Đức Phật dạy
rằng: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”.
Cái học của phàm
nhân là cái học tiếp thu từ bên ngoài vào. Càng ngốn những thứ
bên ngoài vào thì tâm hồn càng nặng trĩu tri kiến, - nói như câu thơ Huy
Cận:
“Thân quá nặng
nên hồn sa xuống thấp”.
Cái học để giải
thoát là cái học phát huy từ bên trong ra, từ bản tâm chân như
thanh tịnh hiển lộ ra thành một diệu hữu dưới dạng một con người, - một
hiện thân Bồ-tát. Tự quán chiếu là tự học căn bản nhất.
Không biết mình
thì làm sao biết người, giúp người? Ngôn ngữ Việt Nam có những từ ngữ
như “cảm hóa”, “cảm động”, “tha thứ”, “xin bạn thông cảm cho tôi”,
“tôi rất thông cảm bạn”, “xin hiểu cho hoàn cảnh của tôi”, “tôi rất hiểu
hoàn cảnh của bạn” v.v… Một bên kêu gọi lòng từ bi, một bên phát ra
lòng từ bi. Nếu hai vật thể không tương ứng thì làm sao mà
cảm với thông. ---- Hồi nhỏ tôi cực kỳ
sợ ma, bây giờ tôi vẫn còn sợ ma nhưng không cực kỳ. Cứ mỗi lần
đi đêm ra ngoài là sợ đến gần loạn trí, hai tay bắt ấn (bây giờ tôi
không còn nhớ đã bấm vào ngón tay nào), miệng niệm liên miên như máy:
“Nam mô linh cảm Quan Thế Âm Bồ-tát”, hay “Nam mô cảm ứng Quan
Thế Âm Bồ-tát”. Lúc bấy giờ tôi nghĩ, nếu niệm đủ “Nam mô đại từ
đại bi cứu khổ cứu nạn linh cảm Quan Thế Âm Bồ-tát” có lẽ linh
nghiệm hơn, nhưng dài quá sợ niệm có khi lộn, (con nít mà), vả lại niệm
không được nhiều lần. Lối suy nghĩ trẻ con đó, ngày nay người ta gọi là
“lấy số lượng bù chất lượng”.
Xin thưa, sở dĩ
tôi nhắc lại chuyện thời thơ ấu là để nhấn mạnh hai chữ linh cảm,
cảm ứng.
Chữ “thứ
- 恕”
trong từ ngữ “tha thứ”, “dung thứ” gồm hai phần, phần trên
chữ “như –
如”
là giống như, phần dưới chữ “tâm –
心”
là lòng; “tha thứ” có nghĩa là xem lòng mình như
lòng người, xem người với mình như một, có như vậy
mới thực sự hóa giải, bao dung được những gì người khác xúc phạm gây đau
khổ cho mình; bằng không thì thái độ hay lời nói tha thứ
chỉ là hình thức, - hoặc do tình thế bắt buộc, kiểu như nói “không tha
thì sợ nó thù oán”, -- hoặc để được khen là rộng lượng.
Trên thế gian
này, có tôn giáo nào? chủ thuyết nào? dạy cho loài người những lời
đại trí đại bi, như đức Thế Tôn đã dạy chúng ta:
“Đừng tin điều
gì
chỉ vì nghe
người ta nói như thế
Đừng tin vào các
truyền thống
chỉ vì chúng đã
được lưu truyền qua nhiều đời
Đừng tin điều gì
chỉ vì đó là dư
luận trong quần chúng
Đừng tin điều gì
chỉ vì thấy nó
được ghi chép
trong kinh điển
của tôn giáo mình
Đừng tin điều gì
chỉ vì căn cứ vào uy tín
của các bậc thầy
hay tiền bối của mình.
Nhưng sau khi
quán sát và phân tích,
thấy điều gì phù
hợp với lý trí
và đưa đến sự
tốt lành,
đem lại lợi ích
cho cá nhân và cho tất cả;
hãy chấp nhận
điều đó và thực hành theo nó”.
- Kinh Tăng Nhất
A Hàm –
(2)
Kính lạy
Đấng Đại Từ Đại
Bi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
Ngài đã dạy
chúng con “ Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”.
Ngài đã chỉ cho
chúng con biết hai thứ quý báu nhất trên đời là TRÍ TUỆ và TỰ
DO.
Kính bạch Ngài,
có những cộng đồng nhân loại đang sống tủi nhục vì mất tự do, hay sống
trong cái tự do trên giấy tờ chữ nghĩa; đang quằn quại trong cảnh thịt
rơi máu đổ vì các tà thuyết vô minh. Chúng con xin nguyện tinh tấn tu
học, nỗ lực “tự tu, tự học, tự giác”, ngõ hầu có thể
giúp tha nhân cùng giác ngộ.
Nguyện cầu hành
tinh động loạn tràn ngập khổ đau này sớm trở thành một thế giới hạnh
phúc an lành: MỘT PHÁP GIỚI DIỆU HỮU TRANG NGHIÊM THANH TỊNH.
Nam mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật
Chú thích:
(1) Chủ nghĩa
Mác-Lênin, “Cơ sở phương pháp luận của Tâm Lý Học” do Ủy ban khoa
học xã hội Việt Nam, Viện triết học ấn hành 1977, trang 162.
(2)
Dịch từ
The Anguttara Nikaya:
“Do
not believe in anything
simply because you have heard it.
Do
not believe in traditions
because they have been handed down
for
many generations.
Do
not believe in anything
because it is spoken and rumored by many.
Do
not believe in anything
simply because it is found written in your religious books.
Do
not believe in anything merely on
the
authority of your teachers and elders.
But
after observation and analysis,
when
you find that anything
agrees with reason
and
is conducive to the good
and
benefit of one and all,
then
accept it and live up to it.”
***