KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ PHẬT THÀNH ĐẠO PHẬT LỊCH 2552
NGÀN
LỜI CA TỪ CÁT SÔNG HẰNG
Cư sĩ Liên Hoa
-
- Quảy
gánh trăng tàn theo bến mộng
- Sông
Hằng ngày trước vẫn còn đây
- Dòng
sông chuyên chở bao mê nhiễm
- từng
hạt cát thầm, thắp hương cay
-
- Dẫm
bước nơi nầy, buổi sớm mai
- sương
rơi thấm lạnh ướt đôi vai
- ngỡ
rằng ban sáng, mai sẽ mọc
- sương
lại vô tình ủ bóng mai
-
- Người
bao năm trước, dư hương cũ
- từng
pháp hư tâm phủ giấc trần
- rằng
bao huyễn mộng, vòng sương gió
- chạnh
xót thương đời, mộng vẫn đi…..
-
Minh Thanh
Buối sáng sớm
tại thành phố Varanasi, một phái đoàn đi hành hương gồm tất cả 48 người,
đang trực chỉ bến sông Hằng, để đón mặt trời mọc. Qua nhiều người đi
trước kể lại, mặt trời mọc trên sông Hằng rất đẹp, nên thơ, tuyệt diệu.
Vầng hồng sẽ sáng rực, khởi đầu là vòng tròn đỏ nhô lên ở bên kia chân
trời, hướng Đông và từ từ cất mình lên khỏi đuờng ngang mặt đất, vươn
mình lơ lửng trên bầu trời. Màn đêm sẽ vụt tan biến và …. Ồ, chỉ nghĩ
đến mà lòng cũng thôi thúc muốn được nhìn thấy.
Nhưng tất cả mọi
người, ai nấy đều chậm rãi bước, mắt luôn nhìn xuống đất, không dám đi
mau hơn. Trên mặt đất mà đoàn người đi qua, biết bao nhiêu uế vật được
vung vít bừa bãi, vô tinh sẽ đạp nhầm, không hay. Dọc theo đường xuống
bến sông Hằng, những sạp, hàng quán hai bên của ngôi chợ còn ẩn mình
trong bóng tối mờ mịt dưới ánh đèn vàng loe lét, nhạt, hiu hằt. Có những
người nằm ngủ rải rác, co ro trong cái khăn choàng mỏng, dưới cơn lạnh.
Bước xuống từng cấp bậc thang để đến chiếc thuyền đã thuê sẳn, lại có
những người ngủ dưới sương khuya, rải rác, nằm trên bục xi măng, cuộn
mình trong chiếc áo mõng, không biết còn sống hay đã chết. Bên cạnh, có
những con vật như dê, bò, gà v.v..nằm kề, làm khó tưởng cuộc sống nơi
nầy như thế nào!
Mọi người chia
nhau lên 2 chiếc thuyền, tất cả máy hình đều thủ sẳn. Bên hướng Tây,
nhiều nhà, lâu đài, đền thờ, tháp được xây cất dọc theo bờ sông, nhưng
bên hướng Đông, trống không, hình như đó là mục đích của chính phủ Ấn độ
muốn cho mọi người đến đây được ngắm bình minh trên sông Hằng.
Sông Hằng bắt
nguồn từ dãy núi Hymalaya, dài 5575 km, chảy xuyên qua Tây tạng và Ấn độ.
Cát và sông Hằng thường hay được nhắc trong nhiều Kinh của Phật giáo,
như chứa đựng cả một quá khứ tâm linh, cổ kính, kỳ ảo, so sánh v.v..tiếp
nối từ thời điểm xa xưa đến hiện nay. Được thấy bằng chính mắt của mình
là điều rất thú vị.
Thuyền chạy dọc
theo bờ sông, ngoài 2 chiếc thuyền của đoàn, còn có những chiếc thuyền
của du khách đến từ nhiều nước khác, đều thả trôi xuôi theo dòng sông,
để đón bình minh hay tò mò, thú vị với những hoạt cảnh của người dân địa
phương. Nhìn quang cảnh chung quanh. Có những chiếc thuyền của người địa
phương cập gần sát thuyền của đoàn, mời gọi mua đồ kỷ niệm hoặc nước của
sông. Đây là con sông mà người Ấn Độ tin tưởng rất linh thiêng, có thể
tẩy rửa được nghiệp chướng xấu xa, làm thân thanh tịnh, tiêu tan tội lỗi,
nên thường đến để tắm rửa và cầu kinh. Trên bờ, có những đạo sĩ đang
ngồi trầm ngâm, nhìn hướng xa xăm hoặc nhắm mắt. Có một số người đang
tắm, ngụp lặn đầu xuống nước, rồi lại ngẩng nhô lên, lầm bầm lời kinh.
Tiếng ồn ào,
tiếng mời gọi, âm thanh hổn độn. Xa xa, chỗ thiêu người chết, lửa vẫn
còn âm ỉ cháy trên giàn hoả. Xác người nằm đó, co quắp lại. Trên sông,
vài xác người chết, đen đúa, được đẩy xuống sông để thủy táng, sau khi
đã hoả thiêu chưa rụi thành tro. Xác trôi bồng bềnh, theo dòng sông để
ra biển cả. Xác của một đời người hay là sự tan hoại của bốn đại, không
một tiếng khóc than, đưa tiễn, vật vã, buồn đau.
-
Ồ, thuyền tứ
đại trôi theo nước
-
rửa sạch oan
khiên một bến đời
-
về đâu hởi,
về đâu con sóng
-
đổi hình hài
tóc bạc trăm năm
-
-
đã bao năm,
tìm đời theo vọng
-
ngỡ bên mình,
thanh sắc vẫn xưa
-
cơn gió qua,
thu tàn rời bến
-
con thuyền
buông, bóng ngã xuôi dòng….
-
Minh
Thanh
Đời
vẫn nô đùa theo từng cơn sóng, mênh mông, trôi chảy như theo dòng xuôi
ngược. Bến cập nơi đâu, khi tâm lăn xăn bay nhảy, nhưng vẫn vang lên lời
tự tinh năm nào. Đó là cuộc lữ trăm năm, đó là một đoạn đường hoang vắng,
hay là dấu chấm xuống hàng, để rồi nối tiếp. Nhìn hoạt cảnh quanh đây,
nhìn xác người trôi sông, xác không do chiến tranh hũy hoại, nhưng cái
chết là bình đẳng của con người. Lúc đầu, ai nấy đều bở ngỡ, tò mò và
suy nghĩ đến kiếp người. Thân phận con người từ dân giả, giàu sang, phú
quí, sắc đẹp, danh vọng v.v…đều bị lột trần theo qui luật sinh già bệnh
chết. Lòng ai nấy đều rộn ràng lên một thực tế, đây là tử hay sinh? Ít
ai có thể nhìn thấy được xác chết trên sông, nói gì đến cuộc ra đi, vĩnh
biệt ? Và mỗi người đều tự trả lời, dù là trốn tránh, mắt hướng xa xăm,
nơi khác.
Dòng sông vẫn
còn là tiếng cười, nói, ồn ào. Sương rơi nhiều hơn, dày đặc, nhìn nhau
qua màn sương khói, như ảo ảnh. Ánh bình minh như e thẹn, chưa chịu cất
cánh, vươn lên, để mọi người mong, chờ đợi. Ồ kìa, cũng có hình dáng của
buổi sáng ban mai, một chấm đỏ nhỏ xíu của ánh mặt trời, nằm gác đầu lên
khỏi chân trời, hướng đông. Biết đó là mặt trời, nhưng lại quá nhỏ bé,
mờ nhạt sau màn sương lạnh, đã làm cho đoàn người đang chờ đợi cảm thấy
chút gì tiếc nuối.
Trở lại xe du
lịch, qua lại con đường cũ. Khu phố đã bắt đầu nhộn nhịp vào buổi sáng
họp chợ, người là người, lẫn với đàn bò đang thong thả đi. Đó là một tín
ngưỡng hay là một tình thương hy hũu, hiếm có, khó lòng giải thích.
Nhiều cảnh khổ quá, nhìn thấy cầm lòng không đặng, chỉ biết quán chiếu
đó là cuộc đời. Một thân phận người, nhiều người hay sự khổ tiếp nối,
chuyền tay, trao hơi ấm. Có nhìn được những cảnh hiện hũu trước mắt, ý
nghĩa đi hành hương lại càng mang những dấu ấn, nét đặc biệt, của cõi ta
bà, của sự bừng tỉnh.
Trở về lại Khách
sạn, dùng điểm tâm, sau đó, đoàn người lên 2 chiếc xe du lịch, tiếp tục
lên đường đi đến Vườn Lộc Uyển ( Sanarth), một địa danh được nhắc nhiều
trong các bộ Kinh của Phật giáo. Vườn nằm cách Thành phố Ba La Nại ở
hướng Bắc, khoảng 10 km. Đây là một trong những thành phố lớn của của
Tiểu bang Uttar Pradesh, thuộc Trung Bắc Ấn Đô, được biết đến là nơi có
nền văn minh tâm linh rực rỡ.
Đại tháp Chuyển
Pháp Luân (Dharmekha stupa ) cao 31,3m, đường kính 28,3m còn đó, được
Vua Asoka ( A Dục )- vị Vua Phật tử xây vào khoảng 300 năm trước Tây
lịch, đánh dấu nơi đầu tiên mà Đức Phật đã thuyết pháp cho năm anh em
của Ngài Kiều Trần Như, sau khi Ngài đắc quả Chánh Giác.
Đoàn đã quỳ lạy,
tụng kinh, thiền định trước Đại Tháp, rồi đi kinh hành chung quanh Tháp,
từng bước đi thong thả trong chánh niệm. Mỗi người đều cảm thấy an lạc,
tuy trong lòng nhiều nổi niềm cảm xúc dâng lên. Chung quanh, rải rác còn
nhiều nền móng của Chùa Tháp ngày xưa sót lại, lưu dấu thuở cực thịnh
của Phật giáo vào những ngàn năm trước. Nhưng với vô minh, với ác tâm,
cuồng tín của đoàn quân Hồi giáo, biết bao nhiêu Tự viện, Tháp v.v..bị
phá hũy, các tăng sĩ đều bị thảm sát.
Ở nơi khu nền
Tháp Dharmarajika mà các nhà khảo cổ tìm thấy Xá Lợi của Đức Phật. Cạnh
đó, còn Trụ Đá của Vua A Dục. Trên mình trụ đá, có ghi lại hàng chữ
khuyên Tăng đoàn sống hoà hợp thanh tịnh. Trụ đá nguyên thủy cao 21,33
m, trên đỉnh có tạc tượng sư tử bốn đầu, nhưng phần nầy đã bị gãy và
hiện được lưu giữ trong Viên Bảo Tàng Khảo Cổ. Phần dưới còn lại, được
bao bọc chung quanh bởi hàng rào sắt.
Có
Tháp Chaukhandi ở gần khuôn viên Vườn Lộc Uyển ghi dấu chỗ Đức Cồ Đàm
gặp lại năm anh em Kiều Trần Như- những người bạn đồng tu thưở trước. Đi
ra cổng trước, có Tịnh xá Mulgandha Kuti, cao 30,48 m. Bên phải có Tượng
Đức Phật và 5 anh em Ngài Kiều Trần Như. Sau lưng có Cây Bồ Đề rợp bóng
mát, lá rì rào. Cây Bồ Đề nầy được chiết từ cây Bồ Đề ở Tích Lan, cùng
nguồn gốc với cây Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng.
Từng đọc những
lời Kinh, từng sống trong suối nguồn tâm linh của Đạo Phật và được biết
rằng sẽ gặt hái nhiều thù thắng như khi đi Hành Hương chiêm bái các
Thánh tích, với tâm thành, với tinh tấn tu học, như đoạn Kinh sau đề cập
đến:
“-
Này Ananda, có bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn
kính. Thế nào là bốn?
- "Ðây
là chỗ Như Lai đản sanh". Này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần
phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
- "Ðây
là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác", này Ananda, đó là
Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
- "Ðây
là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng", này Ananda, đó là Thánh tích,
kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
- "Ðây
là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết-bàn", này Ananda, đó là Thánh
tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
Này
Ananda, đó là bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cư sĩ cần phải chiêm ngưỡng
và tôn kính. Này Ananda, các thiện tín Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cư sĩ nam,
cư sĩ nữ sẽ đến với niềm suy tư: "Ðây là chỗ Như Lai đản sanh", "Ðây là
chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác", "Ðây là chỗ Như
Lai chuyển Pháp luân vô thượng", "Ðây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư
y Niết-bàn".
Này
Ananda, những ai, trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với
tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ
được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên. -- (Kinh Ðại Bát-Niết-Bàn,
Mahàparinibbàna sutta - Trường Bộ 16)
Nhìn những cảnh
cũ, Chùa, Tháp, Tăng phòng, Tịnh xá v.v…dù đã hoang tàn theo năm tháng,
nhưng dấu vết xưa vẫn còn đây. Bao hưng vong, thịnh suy, biến hoại như
phủ hết toàn cảnh. Trong tâm thức của người con Phật bỗng thấy lòng
chùng xuống, như chứng kiến những điêu tàn, đổ nát của tâm linh. Bài học
nầy thật đáng giá, cao quý, làm cho mỗi người đều lặng nhìn, suy tư,
quán chiếu lại vòng sanh diệt diệt sanh.
Chúng
ta đến nơi đây tựa như những cơn gió, vực dậy, như làm sống lại một quá
khứ nào đó. Đem hơi thở của chính mình, của tâm tìm cầu, mong ước, bới
tìm vĩnh cửu, làm trời đất đầy vọng tưởng. Lầu đài, tường vách, thánh
tích bị vực dậy, tạo nên những âm hưởng sống. Đã bao năm, đắm chìm
trong tơ tưởng, nhiều như suối tóc rủ chảy mênh mông. Đã bao đêm trường
dệt mộng thiên thu, đem từng niệm đổ vào hơi thở. Gió vẫn vui đùa cùng
không sắc, chuông vẫn im lặng vô thinh như lúc nào. Âm thanh còn hay mất,
tại vì quên tánh nghe hay tại vì vọng niệm, chạy theo hương sắc, bỏ quên
tâm mở rộng lúc vô sinh. Thời gian nào có, không gian nào đâu, sương vẫn
còn đọng, lung linh trên cành liễu. Ngôi tháp của Phật Đa Bảo, ngôi tháp
của Pháp Thân vẫn còn đây, dù đã sụp đổ, dù đã hoang tàn, vẫn còn huyền
mặc trong buổi sương mai, trong tâm hồn lúc tỉnh thức, buông vọng rời mê.
Trong trời không sắc, trong tâm diệu huyền, bảo tháp của quá khứ, của vị
lai, của vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, của một sát na, của một niệm
buông, Bảo Tháp kỳ diệu của Chân Tâm vẫn cười, nở hoa, làm ấn chứng của
cuộc hành trình trở về.
- Sương
còn vương, đọng trên từng cánh liễu
- Ngôi
tháp trầm, huyền mặc buổi sương mai
- Gió
về đây vực dậy khối linh tuyền
- Đem
hơi thở thời gian vào vĩnh củu
-
- Tiếng
chuông khuya thinh lặng bốn phương trời
- gió
cô tịch chở thanh đùa không sắc
- trời
có thở khi trời còn vọng tưởng
- lòng
vô sinh nên tâm mở vô cùng
-
- ai đã
thấy tóc mây trời tơ tưởng
- ai đã
từng say dệt mộng đêm trường
- hãy
về đây, ngắm lại trời không sắc
- tận
hoa lòng nở bảo tháp vô biên…
-
Minh Thanh
Một
thực tế của lịch sử, chứ không phải là huyền sử, của trên 2500 năm trước,
có một con người đã đi ngược dòng sanh tử và tìm ra chân lý giải thoát.
Sự chứng đạo của Đức Phật, một vị Độc Giác, là một sự kỳ vĩ, hy hũu trên
thế gian nầy, đều do sự nổ lực không ngừng của một tấm lòng vì đại
nguyện tìm sinh lộ giải thoát cho muôn loài. Nếu không có tấm lòng lớn,
nguyện lớn, một tâm hồn bao la …thì sẽ không bao giờ thực hiện được.
Đó là bước đi
của Tinh Tấn ( Viriya ), bước đi không mệt mỏi, không
thoái tâm, dù bị biết bao nhiêu sự ngăn trở. Đối với chúng ta, có thể
nói rất dễ khi mình chưa có gì hết, nhưng khi đã có danh vọng,
tiền tài, sắc đẹp, sung túc, đầy đủ đời sống vật chất, mới cảm nhận đủ
hết sự khó khăn tột cùng, cũng như phải quả quyết và dũng mãnh để rời xa,
từ bỏ như thế nào…khi đối diện, vượt qua những réo gọi, ghì kéo của dục
lạc, vật chất, vượt qua những đòi hỏi của thân và tâm v.v…Sự tinh tấn
là cây cầu để bắt qua vực thẳm của tham chấp, vị ngã và đó cũng chính là
sự nhẫn nhục vi diệu, tu sửa, chuyển hoá những vọng tưởng, những bất
thiện của tâm, làm cho những thiện pháp chưa sanh được sanh khởi, phát
triển và để vượt thoát qua màn lưới vô minh ( avijja ) đã chi phối, kéo
dẫn con người qua mọi phương hướng, để phục vụ cho nhu cầu dục lạc, khát
ái của ngã.
Khi từ một địa
vị trên đỉnh cao trong một quốc gia, trong xã hội, đời sống đầy đủ, tuổi
trẻ, tài cao, sức khoẻ đang thời sung mãn, vợ đẹp, con ngoan và một
tương lai huy hoàng chờ đợi, nhưng Ngài đã từ bỏ, vượt qua trên lộ trình
của tinh tấn. Không phải cố ghép cho sự tinh tấn là duy nhất để khoả
lấp cho mọi yếu tố khác, nhưng chính thực tinh tấn là bưóc đường
đi đến giải thoát. Không tinh tấn, chúng ta sẽ dậm chân tại chỗ do dã
dượi, làm biếng, tâm buông lung và đánh mất cơ hội khám phá, khai phá và
sống với Chân Tâm. Tinh tấn không có nghĩa là vùi đầu trong một mục đích,
một cứu cánh và bỏ quên tất cả mọi pháp chung quanh, nhưng là chuyên cần,
tiến bước, vì qua đó, qua sự tinh cần, vùng trời trí tuệ sẽ phát sinh,
lòng từ khai mở và nhận thức rõ đâu là yếu tố đưa đến thực chứng và đâu
là con đường đưa mình trôi theo dòng sanh tử, đâu là nguyện lớn và đâu
là tha hoá, buông lung, mất dấu đi về. Sự tinh tấn đến từ sự nhẫn nhục,
quyết tâm đó… toát ra nét hoan hỷ, từ bi, an lạc, tươi mát trên gương
mặt của người đang thực hiện, dấn thân.
Và cuối cùng,
Ngài đã đắc đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bài pháp đầu
tiên tại Vườn Lộc Uyển, Ngài đề cập đến Bốn Sự Thật Vi Diêu, đó là Tứ
Diệu Đế: Khổ Tập Diệt Đạo. Đề tài nầy, trong nhiều bài viết, chúng tôi
cũng có trình bày theo sở học khiêm tốn của mình, nên nơi đây, chỉ nói
khái quát.
Bài Pháp đã được
tuyên giảng cùng năm anh em Ngài Kiều Trần Như, đều bắt nguồn từ cái
thấy, sống và sự chứng đắc của Ngài, bao gồm và dung hoá tất cả mọi học
thuyết, nhưng siêu việt vì đến từ vùng trời bao la của một tâm thức Giác
Ngộ, nhìn thấy rõ thực tướng của bản thể. Giác ngô về sự thật của các
Pháp từ hữu đến vô, đều rỗng không. Giác ngộ về những cấu trúc tương
duyên tương sinh của vạn pháp và từ đó, nhìn rõ căn nhà được xây cất bởi
vô minh, cái hệ lụy làm điên đảo, vọng tưởng nơi con người, kéo theo
những sai lầm, lạc lối.
Đức Phật không
bao giờ tuyên xưng mình là một Đấng Tối Cao, một thần linh, một nhân vật
có thể cứu rỗi hoặc ban phước giáng họa, toàn năng, toàn trí v.v..Ngài
đơn thuần là một vị Thầy dẫn đường và chỉ rõ mỗi người đều có sẳn Tánh
Phật Sáng Suốt trong tâm, và cần khai phá để đạt Giác Ngộ như Ngài. Con
đường mà Ngài vạch ra là con đường mà Ngài đã đi qua, đã chứng và giải
thoát. Phật Tánh chỉ có thể thể nhập và chứng đắc do tâm định và tuệ
giác sáng soi, đó không phải là một pháp mầu do một ai ban cho, mà chính
do tự mỗi người dấn thân, thực hiện ra pháp mầu đó. Qua sự tinh tấn,
người hành giả đi vào sâu để tìm hiểu cặn kẽ cái “bất sanh bất diệt”
để thể chứng.
Con
người chính là chủ nhân ông, có quyền tự đo cho tất cả mọi tác động,
hành vi thiện hoặc ác, thiên đàng hay địa ngục v.v..đều do mình gây ra
và hoàn toàn chịu trách nhiệm những hành nghiệp đó.
Theo Đạo Phật
không đòi hỏi một đức tin mù quáng, thần quyền, mê tín, chỉ tin đi rồi
sẽ được tất cả v.v..mà chỉ nói rằng: Hãy tìm hiểu (Văn), suy nghĩ (Tư),
thực hành (Tu) và sau khi thực hành, nếu những gì có thể đem lại cho
mình sự an lạc, lợi ích cho mình, cho người và ảnh hưởng tốt cho môi
trường, xã hội, quốc gia v.v…thì hãy tin.
Con người bao
gồm danh sắc: tâm và thân, liên hệ tự bản thân cũng như đến con người,
xã hội, theo lý duyên khởi. Sự khổ đau của một con người cũng là
sự đau khổ, bất lực của xã hội, ảnh hưởng môi trường sống. Có ai không
được cấu tạo bằng thân ngũ uần và dĩ nhiên sẽ bị chi phối. Không có một
pháp nào trong vũ trụ tự đơn thuần có, không có một cái ngã duy nhất mà
tất cả đều do nhân duyên chằng chịt, chi phối lẫn nhau. Tách lẻ ra và tự
cho mình là một pháp duy nhất, đơn độc, đó là một ảo tưởng, không logic.
Cuộc
khủng hoảng trên toàn thế giới, buộc con người phải tìm đến tôn giáo. Đó
không phải là liều thuốc phiện để ru ngủ con người như một số nhà xã hội
của Tây phương đã phê phán đối với những tôn giáo ở địa phương đó.
Kinh nghiệm va
chạm với nhiều tôn giáo, triết thuyết v.v..qua suốt dòng lịch sử sinh
tồn của loài người, mỗi tôn giáo đã và đang trả lời cho con người về
những vấn nạn xảy ra, do chính con người, do tôn giáo làm ra. Từ đó, đức
tin bị giao động, phủ nhận những giá trị tinh thần giả tạo, bởi vì sự
sai lầm, cuồng tín, tha hoá của tôn giáo đã ảnh hưởng, đe dọa đến sự tồn
vong của con người, như đã từng xảy ra trên nhiều địa phương ở thế giới,
có khi cục bộ, có khi lan rộng và cuồng tín, bảo vệ những niềm tin ảo
vọng, hảo huyền.
Thật là ảo tưởng,
mơ mộng khi đòi hỏi, cầu mong có nền hoà bình thực trên toàn thế giới,
khi tâm con người đang chứa đầy mưu mô, áp đặt, sân hận, bè phái….Ái ngã,
cái ngã tự cao tự đại, vẫn còn ngự trị, đầy đủ, đã làm cho con người đau
khổ, và còn khổ đau hơn khi bị chỉ huy, điều khiển dưới tâm vọng đọng.
Tư tưởng an lạc,
hoà bình, bao dung, giải thoát của Đạo Phật sẽ trả lời ra sao trước
những vấn nạn của con người và do tâm con người tạo ra, để giải quyết
tận gốc rễ khổ đau, mù quáng, cuồng tín và đưa nhân loại vượt qua những
thử thách thời đại, nếu không muốn tuyệt vong.
Chúng tôi đã đi
trên bờ cát sông Hằng, lắng nghe tiếng hát, tiếng gọi. Có phải đó là
những tiếng nói tâm linh tiếp nối từ xa xưa nào đó dẫn đến hôm nay.
-
Đứng lặng
nhìn dòng sông dĩ vãng
-
nghe từ tâm,
cất tiếng bao đời
-
hồn xưa ơi,
chút tình còn lại
-
mà muôn
người còn ấm áp bên nhau….
-
Minh
Thanh
Đó
không những là chút tình còn lại, nhưng là tiếng nói của người xưa,
tiếng nói vang vọng đến hôm nay, tiếng nói của tâm con người. Nếu tâm
chúng ta vọng đọng, còn đầy dẫy, che lấp bời những mâu thuẫn, vị kỹ,
ganh ghét v.v…tiếng nói đó sẽ im lặng, không thể nghe đặng, trôi vào dĩ
vãng. Nhưng với chút tâm thanh tịnh, tiếng nói đó sẽ cất lên như tiếng
sóng gầm, như tiếng vỗ của bàn tay, như tấm lòng cần có bên nhau, trong
an vui, trong giải thoát.
Trên
bờ cát nầy, tôi đã nhìn thấy dấu chân, dù thời gian đã làm phôi pha, dù
bao cát bụi xoá nhoà, nhưng dấu chân vẫn in đậm trên bờ cát, trong tâm
của mỗi người, của người con Phật. Dấu chân của bậc Đại Tỉnh Thức với
những bước chậm rãi, toát ra nét hiền diệu, thanh thoát,
Qua
nơi chốn còn in hình bóng của Đấng Cha Lành nơi Vườn Lộc Uyển. Đâu đây,
tiếng gió vẫn còn thổi, hương trầm xưa vẫn còn hoà quyện vào không khí,
tiếng nhạc của các cõi trời còn réo rắc cúng dường, tiếng của từng lớp
người triền nhiễu, tiếng của pháp âm vẫn còn vang lên, đưa người về sống
thực với chính mình.
Chúng ta nhận thấy Đạo Phật sao quá thực tế, đơn giản. Không thể có giải
thoát khi chỉ nói và không chuyên cần tu tập. Không thể nói hạnh phúc
ban cho người, khi mình chưa có. Không thể nói hoà bình, khi tâm còn đầy
sân hận.
Từ
nơi suối nguồn thanh thoát, an lạc nầy, chúng ta dấn thân vào đời với
hành trang là từ là bi là chia xẻ, là bao dung, rỗng không, vô ngã.
Chúng ta không thể sống và chia xẻ với mọi người về những gì mình nêu ra,
khi mà mình không có. Tất cả đều đến từ sự chuyển tâm, tu học và chuyển
hoá.
Trong Giáo Pháp của Đạo Phật, không có pháp nào cao hay pháp nào thấp “Phật
pháp bình đẳng, vô hũu cao hạ”, mà chỉ là phương tiện thiện xảo
nhằm đưa con người đến bờ giải thoát. Đó là những lương dược để trị tâm
bệnh và mỗi người tùy theo “khế cơ, khế lý” mà áp dụng.
Qua
những năm dài kinh nghiệm tu tập, qua những tiếp xúc với nhiều hành giả
Phật Giáo, và với sự nghiên cứu, tìm hiểu v.v.., chúng tôi nhận chân
rằng, có nhiều pháp môn rất đơn giản, nhưng bao người thực hành đều được
ân triêm, lợi lạc. Thật mầu nhiệm, thật cao cả thay tấm lòng của Đức
Phật đã mở nhiều phương tiện để độ sinh, nhất là thời hiện đại.
Chỉ
cần thực sự tu tập, chắc chắn tâm sẽ có chuyển hoá. Nhân đã gieo, dĩ
nhiên sẽ trổ quả theo nhân, theo tâm. Tuy nhiên, vì thời bây giờ tâm
người luôn xáo trộn, tâm không tinh tấn, chấp thường, chấp ngã, chấp
pháp, nên đã, đang và sẽ có biết bao nhiêu sự xáo trộn xẩy ra.
Có
nhiều phương tiện hay pháp môn tu tập mới ra đời, nhiều pháp môn thời
thượng, có người áp dụng và vội cho đó là cứu cánh, là pháp môn siêu
việt, lại còn được sự cổ võ, ca tụng bởi những tâm thức giới hạn, lấy
phưong tiện làm cứu cánh và vô tình lại còn phỉ báng tất cả các tông
phái khác, cho là của tà ma ngoại đạo. Có nhiều người không hiểu giáo lý
căn bản, dù là Tam Qui Ngũ Giới, nhưng vì những sự cố như nêu trên, cho
rằng mình đã đạt được nầy hay nọ, đã đến một cảnh giới nào đó? Trong khi,
có nhiều vị dù tu đã lâu, dù đã được tâm thanh tịnh, nhưng bề ngoài hay
giao tiếp với ai, thì họ chỉ thể hiện là một con người đơn giản, bình
thường, thanh thoát. Có những pháp môn của Phật giáo bị hũy báng, vì họ
cho là đơn giản, không chiều sâu v.v…nhưng không biết rằng đã có biết
bao nhiêu người nương tu theo đó mà đắc quả. Khi dùng một pháp môn
phương tiện nào mà mình thấy hợp và đi sâu, thể nhập vào chân tánh,
người hành giả lại càng khiêm cung, vô ngã và có cái nhìn chánh kiến về
tất cả các pháp môn khác và trân quí. Có những pháp môn phương tiện
mà chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ, vì nó có giá trị đưa tâm người giải
thoát. Sự khiêm cung, vô ngã là tư cách của người con Phật, là hạnh
của nguời hành giả tu và áp dụng giáo lý của Đạo Phật.
Trong thời buổi nhiẽu nhương xáo trộn, lộng giả thành chơn, như Kinh
thường nói:” Các vị chứng đạo thì không ai biết họ, vì khi biết được họ,
thì họ đã không còn…” và chúng ta nhận thấy, có nhiều con người rất bình
dị, đôi khi chữ nghĩa kém, ăn mặc lôi thôi, ngôn từ thô thiển…nhưng qua
họ, có sức lực của từ bi, hỷ xã, tuệ giác sáng suốt và càng gần gủi,
càng cảm thấy được nhiều an lạc, học được hạnh khiêm nhuờng, khiêm cung,
thấy ta mất dấu, thấy pháp vô ngã.
Qua
những dữ kiện nhỏ được trình bày trên về phương diện tu tập, đi đến
những vấn đề lớn hơn như sự cung ứng giá trị tâm linh của Đạo Phật cho
những vấn nạn của thời nay.
Thực
sự, nói chung, Đạo Phật đang trở mình, bén rể và phát triển rất mạnh ở
các nước Tây phương về phẩm cũng như về lượng. Qua sự cọ sát của lịch sử
con người với tôn giáo, ai nấy đều thấy giá trị đích thực của Đạo Phật
có thể đóng góp, hoà đồng với các tôn giáo, và đưa nhân loại đến bờ hạnh
phúc an lạc thật sự.
Khi
làn sóng người tị nạn Việt Nam có mặt tại các nước tự do, họ đã đem theo
tôn giáo và văn hoá của mình, cung cấp chất liệu tưoi mát, an lành đến
với quốc gia mới. Tuy những năm qua, Phật giáo Việt Nam có nhiều xáo
trộn, quậy phá, chia rẻ v.v.. do những tâm hồn vô minh, do thế lực, thần
quyền, do những người vì mình mà quên đại cuộc, quên người đồng đạo,
quên Thầy Tổ, quên Phật Pháp, quên nhân quả và họ vì danh vọng lợi dưỡng
mà quên sứ mạng, tâm nguyện cao cả của đạo Phật, là đóng góp chất liệu
giải thoát, bao dung, an lạc cho con người.
Đừng
ai mất niềm tin, mà hãy tin rằng, tất cả rồi sẽ trôi qua như áng mây mờ
trên bầu trời sẽ bị gió cuốn đi, như bát phong đến dù có bị ảnh huởng,
nhưng chất vàng ròng, tinh túy của tâm lực của những con người vì
Thầy Tổ, vì Phật Pháp, vì lý tưởng cao cả giải thoát của mình, sẽ vẫn
tiến bước.
Bởi
vì Đạo Phật chú trọng đến sự tu tập, chuyển hoá, đưa những vọng tưởng,
ác nghiệp v.v..về cõi Niết bàn. Sự chuyên cần tu tập, là sự tinh tấn, là
con đường duy nhất đưa đến bờ giải thoát.
Đạo
Phật với vô số kinh điển dày đặc, triết lý uyên thâm, dung chứa tất cả
mọi học thuyết của nhân loại, bởi vì tất cả do tâm. Tâm an, thế giới an.
Tâm bình, mọi vọng đọng sẽ là cơn mưa rào, nhẹ nhàng đi qua. Đạo Phật
chú trọng đến sự tu tập, không triết thuyết viễn vông, không hý luận,
bởi vì sự sanh, sự tử là quan trọng.
Nếu
không tinh tấn tu tập, triết thuyết, đức tin suông, thì tất cả chỉ là ảo
tưởng.
Khi nhận thức
được nhân tố tạo ra sự khổ đau, con thuyền của cuộc đời, của nhân loại
bị chao đảo, thì sự nổ lực tu tập của con người ngày hôm nay càng bức
thiết hơn nữa. Có sự thực hành pháp, có sự tinh tấn thì mới mở rộng được
tâm hồn, mở được cánh cữa giải thoát cho cá nhân, từ đó mở thoát cho mọi
vấn nạn của con người. Nếu không, chúng ta sẽ luôn luôn vuớng mắc trong
vô minh, thành kiến, vị kỷ và sẽ không giải quyết được vấn đề của chính
mình, huống gì là những vấn nạn khác. Chính vì tâm còn chứa đầy vị kỷ,
tham chấp, sân si tham; chúng ta không còn nhìn nhau bằng ánh mắt bao
dung, thân thiện, chia xẻ nổi khổ đau của kiếp người. Như Đức Phật,
trong tâm của chúng ta có đủ cả mọi đức tánh như: Từ Bi Hỷ Xả, Sáng Suốt,
Bao dung, An Lạc v.v…nhưng vì chúng ta cứ ôm lấy, giữ chặt và không khai
triển, còn Đức Phật là người đã khai triển tất cả những đức tánh đó, nên
đạt Giác Ngộ và chia xẻ đến khắp mọi người, mọi loài..
Đó là đạo đức
Hoà bình, An lạc, Giải thoát và Hạnh phúc mà Đạo Phật muốn trao cho con
người, và đó cũng chính là một trong bài pháp nhỏ uyên thâm, được trích
ra từ Bốn Thánh Đế mà Đức Phật đề cập tới tại Vuờn Lộc Uyển.
Con người có
quyền căn bản tự do, đó là tinh thần nhân bản. Đạo Phật không chèn ép,
áp đặt tư tưởng, thành kiến, đòi hỏi con người phải tin tưởng và làm
theo một cách mù quáng, viễn vông. Đạo Phật trao cho con người xữ dụng
quyền tối thượng của mình là tự do để định đoạt đời sống hạnh
phúc cho mình và cho nhân loại trên hành tinh nầy, qua sự tinh tấn
thực hành pháp chuyển hoá tâm. Hãy cùng nắm tay nhau trên con đường
làm người. Chúng tôi nghĩ- đó phải chăng là tinh thần Dân chủ,
Văn minh, An lạc và Hạnh phúc mà Đạo Phật đem lại cho con người.
-
-
Xin đừng ôm
hết mặt trời
-
Hãy để bình
minh soi tỏ
-
Xin đừng
chuyển hoá đêm ngày
-
Làm cho nhân
sinh xáo trộn
-
Xin đừng hớp
hồn trăng
-
Hãy để trăng
ngời sáng
-
Xin đừng gom
hết muôn vàn tinh tú
-
Hãy để sao
trời lấp lánh
-
Chúng ta cần
không khí thở
-
cần tự do
chuyển hoá thân tâm
-
Hãy nắm tay
nhau, cùng dìu nhau
-
Cho trọn
kiếp làm người
-
Có anh có em
có chị có muôn loài
-
Cùng đều an
lạc
-
Hành tinh
chúng ta ở
-
phải chăng
là cõi an lạc trên trần
-
Phật vẫn vào
đời,
-
tay ôm bình
bát
-
bước chân
chậm rải,
-
y vàng
thanh thoát
-
loài người
hạnh phúc,
-
Đức Phật mỉm
cười….
-
Minh Thanh
Mong lắm thay!
-
Kỷ niệm Ngày Phật Thành Đạo 2552
-
( Ngày mùng 8 tháng Chạp năm Đinh Hợi )
-
-
Viết xong ngày 12.01.2008
***