Huấn Luyện Thiền Tập Ngắn Hạn Với Sự
Cải Thiện Chú Ý và Tự Điều Chỉnh
Nguyên tác: Short-term meditation training improves attention and
self-regulation
Contributed by Michael I. Posner, August 16, 2007 (received for
review July 26, 2007)
Tuệ Uyển chuyển ngữ
Những sự nghiên cứu gần đây khuyến nghị rằng
sự huấn luyện thiền tập cường độ mạnh và có phương pháp hàng tháng đến
hàng năm có thể phát triển sự chú ý. Tuy thế, do yêu cầu về chiều dài
của thời gian huấn luyện đã làm cho khó khăn để hướng đến việc xử dụng
sự phân công một cách ngẫu nhiên những người tham dự,tác động đến những
điều kiện để khẳng định những khám phá này. Đề tài này cho thấy rằng
một nhóm được phân công một cách ngẫu nhiên đến năm ngày thực hành thiền
với một ‘phương pháp huấn luyện thân-tâm hiệp nhất’ cho thấy một cách
nổi bật về sự chú ý tốt hơn và sự kiểm soát căng thẳng tốt hơn một nhóm
tương tự được lựa chọn kiểm soát cho ‘sự huấn luyện thư giản’. Phương
pháp huấn luyện đến từ truyền thống y học Trung Hoa và phối hợp những
khía cạnh của những truyền thống huấn luyện thiền quán và tỉnh thức khác.
So sánh với ‘nhóm kiểm soát’, ‘nhóm thể nghiệm’ của bốn mươi học sinh,
mỗi 20-phút/ngày/ trong 5 ngày huấn luyện hiệp nhất thân tâm cho thấy sự
cải thiện mạnh hơn trong xung đột, đạt được thắng lợi trên ‘Hệ thống Thử
thách Chú ý’, lo âu, căng thẳng, giận dữ, và mệt mõi thấp hơn, và khí
lực cao hơn trên cán cân của ‘Đồ biểu Tình trạng Tâm lý’, một sự gia
tăng nổi bật trong hormone liên hệ căng thẳng, và một sự gia tăng trong
phản ứng của kháng nguyên và thể kháng của nó. Những kết quả này cung
cấp một phương pháp thuận tiện cho sự nghiên cứu về ảnh hưởng của việc
huấn luyện thiền quán bằng việc dùng những phương pháp thí nghiệm và
kiểm soát tương tự đến những ai dùng để thử nghiệm dược phẩm và những sự
can thiệp khác.
- Cấu trúc nếp cuộn não phía trước
- Huấn luyện chú ý
- Kiểm soát
- Huấn luyện tinh thần
Trong những năm gần đây, một số những đề mục
đã chứng minh lợi ích của những hình thức khác nhau của việc huấn luyện
thiền quán và chính niệm (1- 8). Nhiều người trong họ đã được thử
nghiệm những hành giả của những sự thực hành thiền tập khác nhau và so
sánh với những sự kiểm soát (những người) không có huấn luyện. Những
người khác đã so sánh những nhóm tương đương trong thực hành trước khi
huấn luyện nhưng được lựa chọn để xem họ có thể tham gia huấn luyện hay
không (2,4,9,10).
Trong một nghiên cứu hoàn hảo (2), ‘nhóm thể
nghiệm’ tiếp nhận ba tháng huấn luyện. ‘Nhóm kiểm soát’ còn lại những
người muốn học về thiền quán. Nghiên cứu này dùng một bài tập mạnh bạo
về chú ý, sự chú ý quán sát nhanh như chớp mắt [attention blink](11);
hai nhóm thi hành bình đẳng trước khi thiền tập, và được khuyến cáo rằng
thiền tập là nguyên nhân làm cải thiện ‘mạng lưới chú ý thực hiện’, một
cách chắc chắn hầu hết trong mọi hình thức chú ý dùng cho nhiệm vụ này
(2).
Tuy thế, những vấn đề tế nhị khác nhau giữa
những ‘nhóm kiểm soát và thể nghiệm’ tồn tại trong nghiên cứu thảo luận
ở trên, bời vì hai nhóm không hoàn toàn phân công một cách ngẫu nhiên,
và những thiền giả bất đồng một cách lớn lao về thể loại thiền quán đã
thực tập trước đây (2). Nhóm Slagter et al. (2) nói rằng, “việc thiếu
vắng của một sự phối hợp giữa khối lượng huấn luyện thiền tập trước đây
và kết quả nghiên cứu của chúng tôi có thể là qua sự kiện rằng có quá
nhiều sự khác biệt xuyên qua những hành giả trong thể loại và truyền
thống của những người học thiền trước đây. Theo chiều dọc của thể
nghiệm so sánh nghiên cứu những ảnh hưởng của những phương pháp thiền
tập khác nhau trên não bộ và chức năng tinh thần cùng thời gian của
những ảnh hưởng như thế cần thiết đến.”
Những thể loại khác nhau của thiền quán. Một
số kỷ thuật chẳng hạn như thiền tập trung, thiền mật tông mantra , thiền
chính niệm, v.v… dựa trên sự kiểm soát của tâm thức hay hoạt động tư
tưởng, bao gồm tập trung trên một đối tượng, chú tâm vào giây phút hiện
tại, v.v…(2, 12-15). Những phương pháp huấn luyện tinh thần cũng chia
sẻ vài cấu trúc then chốt, chẳng hạn như thư giản thân thể, thực tập hơi
thở, quán tưởng hình tướng, và chính niệm, v.v… những điều có thể hổ trợ
và thúc đẩy hành giả tiến vào ngưỡng cửa của những thể trạng thiền quán
(3,8,16-19). Những kinh nghiệm này làm gia tăng khả năng phối hợp một số
cấu trúc then chốt về những kỷ thuật của thân thể và tâm thức với những
đặc trưng của những truyền thống thiền quán và tỉnh thức trong khi giảm
thiểu trên sự kiểm soát và hạn chế tư tưởng, có thể dễ dàng hơn để hướng
dẫn những người tập sự bởi vì họ sẽ không phải dằn dặt quá khó khăn để
kiểm soát tư tưởng của họ. Do thế, sự huấn luyện hiệp nhất thân-tâm
(IBMT; hay đơn giản là thiền hiệp nhất, hay thiền nhất tâm) đã được phát
triển từ những năm 1990, và những ảnh hưởng của nó đã từng được nghiên
cứu ở Trung Hoa từ những năm 1995. Căn cứ trên những kết quả từ hàng
trăm người lớn và thiếu niên từ 4 đến 90 tuổi ở Trung Hoa, sự thực tập
thiền nhất tâm IBMT đã cải thiện những biểu hiện cảm xúc và nhận thức
cũng như quan điểm xã hội (20, 21).
Sự huấn luyện IBMT đã đạt đến thể trạng mong
ước bằng một thời điểm hướng dẫn vắn tắt đầu tiên trên phương pháp
(chúng tôi gọi nó là sự bố trí tâm thức ban đầu và mục tiêu của nó là để
gây ra một chuỗi nhận thức hay cảm xúc sẽ ảnh hưởng đến việc huấn
luyện). Phương pháp nhấn mạnh sự không cố gắng kiểm soát tư tưởng, mà
thay vào đấy là một thể trạng tỉnh táo thư giản yên tĩnh cho phép một
mức độ cao cấp của sự chính niệm về thân thể, hơi thở, và những sự hướng
dẫn bên ngoài từ một dĩa compact disc. Nó nhấn mạnh một sự cân bằng của
thể trạng thư giản trong khi tập trung chú ý. Sự kiểm soát tư tưởng
được đạt đến một cách dần dần qua tư thế và thư giản, thân-tâm hòa hiệp,
và sự cân bằng với sự hướng dẫn của huấn luyện viên hơn là hành động mà
thực tập sinh tự mình cố thử hay cố luyện một sự vật lộn nội tại để kiểm
soát tư tưởng phù hợp với sự hướng dẫn.
Huấn luyện trong phương pháp này cho phép
nhóm thực tập năm ngày, trong thời gian ấy huấn luyện viên trả lời những
câu hỏi và quán sát những tín hiệu trên mặt và thân thể để xác định
những người nào đấy đang vật vả với phương pháp. Những thực tập sinh
tập trung trên việc đạt đến một thể trạng cân bằng của tâm thức trong
khi được hướng dẫn bởi huấn luyện viên và dĩa compact disc hướng dẫn họ
thư giản, theo dõi hơi thở, và dùng sự quán tưởng tinh thần. Bởi vì sự
tiếp cận này thích hợp cho những người tập sự, chúng tôi giả thuyết rằng
sự huấn luyện và thực tập ngắn hạn có thể tác động một cách hiệu quả hệ
thống chú ý liên hệ đến sự tự điều chỉnh (22).
Trong sự nghiên cứu hiện tại, chúng tôi đã
dùng một sự phân công ngẫu nhiên cho bốn mươi học sinh chưa tốt nghiệp
Trung Hoa đến một ‘nhóm thể nghiệm’ và bốn mươi thuộc ‘nhóm kiểm soát’
cho 20 phút/ngày/trong 5 ngày. ‘Nhóm thể nghiệm’ được cho khóa thực tập
ngắn về thiền thân-tâm hiệp nhất-IMBT [tiêu chuẩn một] (20, 21). Sự
huấn luyện được trình bày trong một phương pháp tiêu chuẩn hóa với dĩa
compact dish và được hướng dẫn bởi một huấn luyện viên IMBT lão luyện.
Do bởi tầm quan trọng của chúng những huấn luyện viên một cách tổng quát
có vài năm kinh nghiệm với IMBT (thiền thân tâm hiệp nhất). ‘Nhóm kiểm
soát’ được cho một hình thức huấn luyện thư giản rất phổ biến ở phương
Tây (17, 23).
Hai nhóm được cho một chuỗi thử nghiệm một
tuần trước khi huấn luyện và một chuỗi thử nghiệm nữa ngay lập tức sau
phiên huấn luyện cuối cùng. Một cuộc kiểm nghiệm chú ý trang bị máy
điện toán chuẩn mực đo lường sự định hướng, cảnh giác, và khả năng để
giải quyết xung đột (chú ý hiện thực). Sự Kiểm Nghiệm Hệ Thống Chú ý
(Attention Nextwork Test-ANT) liên hệ sự đáp ứng đến một mục tiêu hình
mũi tên được bao quanh bởi những sự bảo vệ chỉ dẫn hoặc là cùng hướng
hay nghịch hướng. Những sự gợi ý cung cấp tin tức hiện lên khi một sự
trắc nghiệm xãy ra và nơi sẽ là mục tiêu (24). Khuôn Mẫu Tiến Triển
Tiêu Chuẩn Raven (25, 26) lả một thử nghiệm tiêu chuẩn văn hóa công
bằng; một thử nghiệm thể trạng tính tình, Sơ Lược Thể Trạng Tính Tình
(POMS) (27,28); và một sự thử thách căng thẳng của một bài tập tính nhẫm
số học tiếp theo bằng sự đo lường hormone và sự phân tiết
immunoglobulin A (29-34). Tất cả những
điều này là bài tập tiêu chuẩn được ghi điểm một cách khách quan bởi
những người mù tịt với điều kiện thử nghiệm. Xem chi tiết trong
‘Material and Methods’.
Trong những việc làm trước, Sự Kiểm Nghiệm
Hệ Thống Chú ý (Attention Nextwork Test-ANT) đã được dùng để đo lường
khả năng trong sự giải quyết xung đột tinh thần gây ra bởi sự kích thích
cạnh tranh. Nó khởi động hệ thống não phía trước liên hệ võ não trung
gian phía trước và võ thùy não phía trước (35, 36). Lý luận cơ sở của
chúng tôi là thiền hiệp nhất thân-tâm IBMT cải thiện chức năng của hệ
thống thực hiện chú ý, điểu này đã được liên hệ tốt hơn sự điều chỉnh
nhận thức và cảm xúc (22, 37). Đặc biệt, chúng tôi giả thiết rằng:
(i) bởi vì sự phân công là
ngẫu nhiên, sự huấn luyện và ‘nhóm kiểm soát’ không nên bất đồng trước
khi huấn luyện,
(ii) sự huấn luyện sẽ cải thiện
hơn sự chú ý hiện thực (chỉ rõ bởi đồ thị ANT và POMS liên hệ đến sự tự
điều chỉnh và Khuôn Mẫu Tiến Triển Tiêu Chuẩn Raven) trong ‘nhóm thể
nghiệm’hơn cho ‘nhóm kiểm soát’, và
(iii) nếu khả năng tự điều chỉnh
cải thiện trong nhóm huấn luyện, những thành viên của nhóm cũng biểu
hiện sự giảm thiểu phản ứng đến căng thẳng như được đo lường trong những
sự xét nghiệm hormone và hóa sinh. Tóm lại, ‘nhóm thể nghiệm’ sẽ biểu
hiện sự cải thiện to lớn hơn trong hệ thống chú ý hiện thực liên hệ đến
sự tự điều chỉnh; cán cân tính tình liên hệ đến tự kiểm soát ; và sự đo
lường hormone cùng hóa sinh về căng thẳng đến sự thử thách tính nhẫm số
học.
KẾT QUẢ (lược dịch)
1- Kết quả chứng minh rằng sự thực hành
ngắn hạn thiền hiệp nhất thân tâm IBMT có thể ảnh hưởng hiệu quả của hệ
thống chú ý hiện thực.
2- Kết quả chứng tỏ rằng sự thực hành ngắn
hạn thiền hiệp nhất thân tâm IBMT có thể làm nâng cao những tính tình
tích cực và làm giảm thiểu những thứ tiêu cực.
3- Kết quả phát giác rằng sự thực hành
ngắn hạn thiền hiệp nhất thân tâm IBMT có thể cải thiện điểm số Raven
(Khuôn Mẫu Tiến Triển Tiêu Chuẩn Raven) trong ‘nhóm thể nghiệm’, mặc dù
chỉ hơn sát giới hạn trong ‘nhóm kiểm soát’.
4- ‘Nhóm thể nghiệm’có lượng hormone thấp
hơn một cách nổi bật phản ứng với sự căng thẳng tinh thần sau huấn luyện
hơn là ‘nhóm kiểm soát.’
5- Kết quả thử thách làm tính số học nổi
bật lớn hơn về sự phân tiết
immunoglobulin A (sIgA) cho ‘nhóm thể nghiệm’ hơn là ‘nhóm kiểm
soát’.
Năm ngày huấn luyện đã giảm thiểu sự phản ứng
căng thẳng đến sự thử thách tinh thần một cách đặc biệt sau khi thêm một
sự bổ xung 20 phút thực tập.
THẢO LUẬN
Trong Sự Kiểm Nghiệm Hệ Thống Chú ý (ANT) và
Sơ Lược Thể Trạng Tính Tình (POMS), ‘nhóm thể nghiệm’ cho thấy một sự
cải thiện lớn hơn một cách nổi bật sau năm ngày thực hành IBMT hơn là
‘nhóm thư giản kiểm soát.’ Do bởi chúng tôi phân công một cách ngẩu
nhiên những chủ đề đến những ‘nhóm thể nghiệm’ và ‘nhóm kiểm soát’và
dùng những cuộc thử nghiệm khách quan với những nhà nghiên cứu mù tịt
đến tỉnh trạng, chúng tôi kết luận rằng IBMT cải thiện khả năng chú ý và
tự điều chỉnh tốt hơn là kiểm soát thư giản. Sự phản ứng đến sự căng
thẳng tinh thần cũng được cải thiện một cách nổi bật hơn trong nhóm thể
nghiệm, mà nó cho thấy ít hormone hơn và ‘phản ứng giữa kháng nguyên và
thể kháng’( immunoreactivity)
nhiều hơn ‘nhóm kiểm soát’sau sự huấn luyện phụ trội. Những kết quả chỉ
sau 5 ngày huấn luyện mở ra một cánh cửa cho một sự khảo sát giản dị
cùng hiệu quả về ảnh hưởng của thiền tập. Sự thiền tập hiệp nhất
thân-tâm cung cấp một phương pháp thuận lợi về nghiên cứu ảnh hưởng của
huấn luyện thiền tập bằng dùng những phương pháp thể nghiệm và kiểm soát
thích hợp tương tự đến những người dùng để thử nghiệm dược phẩm hay
những sự nghiên cứu khác. Sự khám phá xa hơn của chúng tôi chứng tỏ khả
năng thiền hiệp nhất thân tâm cho sự điều khiển quản lý căng thẳng, sức
khỏe thân-tâm, cùng sự cải thiện trong sự biểu lộ nhận thức cũng như tự
điểu chỉnh (20, 21).
Mặc dù không có sự đo lường nào của não bộ
được dùng trong nghiên cứu này, một nghiên cứu trước đây khuyến nghị
rằng những sự thay đổi trong mạng lưới não bộ có thể xãy ra. Nhóm
Thomas (40) cho thấy rằng, trong chuột, một kinh nghiệm ngắn hạn nhạy
cảm phơi bày đến sự căng thẳng tâm lý (psychosocial)
đã giảm thiểu cả sự tồn tại ngắn và dài hạn của ‘những lằn gợn não thất
bên thần kinh’ (hippocampal neurons)
mới sinh. Tương tự thế, não bộ con người nhạy cảm đến những kinh nghiệm
ngắn hạn. … Nhóm Brefczynski-Lewis (42)
so sánh những người tập sự, tham gia thiền tập một giờ/mỗi ngày bằng
dùng ba kỷ thuật khác nhau với những thiền gia chuyên môn đã từng có
mười đến 54 nghìn giờ thực hành. Cả hai nhóm (thực tập) cho thấy sự
khởi động của một mạng lưới gối đầu nhau rộng lớn về những vùng liên hệ
chú ý của bộ não (42). Một trường hợp khác, một thời kỳ đơn lẽ đã thay
đổi tiến trình não bộ được diễn tả bởi nhóm Raz (43). Những người bị
thôi miên cao độ khi được cho một hướng dẫn để nhìn một chữ vô nghĩa đã
cho thấy sự loại trừ của sự nhiễu Stroop tác động và cũng loại trừ hoạt
động trong vỏ não phía trước trong thời gian thử nghiệm xung đột
(43). Nó cũng chứng minh rằng 5 ngày huấn luyện chú ý với một chương
trình điện toán vi tính cải thiện khả năng của những mạng lưới chú ý
thực hiện cho nhi đồng (39). Lấy một cái khác, chúng ta có lý do để tin
tưởng rằng 5 ngày thiền tập hợp nhất thân tâm IBMT có thể thay đổi những
mạng lưới não bộ, hướng đến những cải thiện trong sự chú ý, nhận thức,
và tình cảm cùng sự phản ứng đến căng thẳng.
Tại sao thiền
tập thân tâm hiệp nhất IBMT chỉ sau có vài ngày thực hành trái lại những
nghiên cứu với những phương pháp khác thường đòi hỏi hàng tháng? Những
điều tiếp theo là những lý do khả dĩ.
1-Trước nhất,
IBMT phối hợp vài cấu trúc chìa khóa của kỷ năng thân và tâm bao gồm cả
huấn luyện thư giản thân thể (17), điểu hòa hơi thở (18), quán tưởng
tinh thần(44, 45), và chính niệm (12-15), là những điều ảnh hưởng tích
cực rộng rãi trong sự chú ý, cảm xúc, và thái độ giao tiếp xã hội trong
những nghiên cứu trước đây (1-8). Điều phối hợp này có thể khuếch đại
những tác động huấn luyện trên việc chỉ xử dụng đơn thuần các thành phần
này.
2- Thứ hai, do
bởi mọi người đôi khi trãi qua kinh nghiệm tỉnh thức
(12, 13, 19, 46,47),
nên một huấn luyện viên tương xứng có thể hổ trợ mỗi thành viên tham dự
tăng trưởng những khối lượng kinh nghiệm này và điều này bảo đảm rằng
mỗi kỳ thực tập đạt được một kết quả tốt (20,21). Vì những tham dự viên
thiền tập với hàng tháng đến hàng năm, đã có dịp để làm những sai sót,
điều chỉnh họ, và dần dần tìm ra phương thức đúng. Cho 5 ngày thiền
tập, phẩm chất thực hành cần thiết cho mỗi kỳ. Khám phá mới đây cho
thấy rằng khối lượng thời gian những tham dự viên dành cho thiền tập mỗi
ngày, đúng hơn là tổng số giờ thiền tập qua cả đời sống của họ, ảnh
hưởng sự thực hiện trên những nhiệm vụ chú ý (10).
3- Trong một
nghiên cứu, một loại âm nhạc thoãi mái chọn lọc quá khứ cho thấy nhiều
tác động hơn là nhạc Mozart (21). Có âm nhạc trong đĩa compact phối hợp
sự hướng dẫn thực hành và thâm nhập tâm tư rong ruỗi của người mới thực
tập liên tục cung ứng cho cảm giác, duy trì và làm thuận lợi cho tình
trạng tỉnh thức. Nhiều phương pháp huấn luyện thiền định dùng dĩa hình
hay âm thinh để hổ trợ những người mới bắt đầu (13, 46, 48).
Chúng tôi
không biết đặc trưng nào trong những thứ này là quan trọng hơn cả trong
việc thu được sự thay đổi, nhưng chúng tôi tin rằng sự phối hợp những
phương pháp khác nhau vào trong một chuỗi huấn luyện dễ dàng thực dụng
có thể giải thích tại sao thiền tập hiệp nhất thân tâm IBMT tác động tại
một liều lượng ít ỏi như thế. Chúng tôi cũng xem hoạt động của huấn
luyện viên là thiết yếu. Huấn luyện viên cần biết làm thế nào tác động
hổ tương với thực tập viên để đạt được tình trạng mong muốn. Mặc dù
những huấn luyện viên không hiện diện trong những buổi huấn luyện, họ
quán sát những thực tập viên qua truyền hình và giúp đở sau khi buổi
thực tập với những vấn đề (cần thiết). Những huấn luyện viên có thể là
một thành phần hoàn hảo của thành tố ảnh hưởng của thiền tập hiệp nhất
thân tâm IBMT, và vai trò của họ đòi hỏi nghiên cứu thêm.
Chúng tôi vì
thế ước định lợi lạc lâu xa của
thiền
tập hiệp nhất thân tâm IBMT với bài tập ngẫu nhiên chỉ hữu ích cho
những học sinh Trung Hoa chưa tốt nghiệp. Tuy nhiên, chúng tôi không
tin rằng bất cứ một phương pháp thiền tập nào cũng thích hợp cho mọi
người. Trong một việc làm khác, tương tự, nhưng sơ bộ hơn, tác động đã
từng được quán sát cho những học sinh và người Trung Hoa trưởng thành
trong nhiều lứa tuổi. Những dữ liệu sơ bộ từ những nghiên cứu ở Hoa Kỳ
khuyến nghị một sự hữu ích hơn về IBMT (20, 21).
Một số người có thể tranh cãi rằng thiền tập hiệp nhất thân tâm IBMT đòi
hỏi một sự tin tưởng trước tiên trong những lợi ích của thiền tập là
chuyện bình thường ở Trung Hoa. Tuy thế, tin tưởng trong thiền tập và y
học truyền thống không cao lắm trong những sinh viên chưa tốt nghiệp ở
xã hội Trung Hoa hiện đại (49).
Cũng thế một nhóm thư giản áp dụng như một sự kiểm soát kiềm chế đã thất
bại để đạt đến một sự cải thiện quan trọng. Một sự khác biệt quan trọng
tiềm tàng giữa những sự nghiên cứu thiền quán Đông và Tây phương là ở
Trung Hoa chúng tôi xử dụng ‘huấn luyện nhóm’ và cùng thời gian mỗi ngày
cho mỗi buổi tập trong suốt năm ngày; hầu hết những sự nghiên cứu ở Hoa
Kỳ dùng thiền tập cá nhân ở những thời gian khác nhau. Những nghiên cứu
về những nhóm năng động cho thấy rằng nhóm hoạt động đưa đến những kết
quả thuận lợi (50), và những khác biệt có thể có giữa áp dụng thiền tập
‘cá nhân và nhóm người’ cần những nghiên cứu xa hơn. Những nghiên cứu
về nhận thức, ngôn ngữ, toán học, và tâm lý học thừa nhận những khác
biệt giữa người Trung Hoa và người Hoa Kỳ trong mỗi lĩnh vực này
(51-54). Do thế, những kinh nghiệm văn hóa đặc trưng có thể hình thành
sự nhận thức và điểu khiển hoạt động thần kinh một cách vi tế trong
những cách chính xác. Nếu có những khác biệt giữa những nghiên cứu Hoa
và Mỹ về huấn luyện chú ý sinh khởi, những nghiên cứu xa hơn sẽ cần
thiết để xác định những lý do.
Trong
việc làm trước đây, sự chú ý hiện thực đã từng được chỉ là cơ chế quan
trọng cho sự tự điều chỉnh nhận thức và cảm xúc
(22, 37, 39).
Những kết quả hiện tại với Sự Kiểm Nghiệm Hệ Thống Chú ý (ANT)
cho thấy rằng thiền tập hiệp nhất thân tâm cải thiện sự thực hiện chức
năng của mạng lưới chú ý hiện thực. Những nghiên cứu phác thảo để cải
thiện sự chú ý hiện thực trong những đứa trẻ con cho thấy những thu thập
điện từ trên da đầu giống người trưởng thành liên hệ tới một tụ điểm
quan trọng của mạng lưới chú ý hiện thực trong võ não phía trước
(22, 37, 39).
Chúng tôi dự kiến rằng những nghiên cứu quán tưởng với người trưởng
thành sẽ cho thấy những thay đổi trong sự hoạt khởi hay liên hệ của mạng
lưới này sau thiền tập hiệp nhất thân tâm IBMT. Những nghiên cứu như
thế sẽ hổ trợ để quyết định những cơ cấu mà qua nó thiền tập hiệp nhất
thân tâm IBMT cải thiện sự biểu hiện. Chúng cũng cung cấp một căn bản
khách quan cho sự so sánh giữa những phương pháp huấn luyện.
Tóm lại, thiền tập hiệp nhất thân tâm IBMT là
một phương pháp dễ dàng hiệu quả cho sự cải thiện trong sự tự điều chỉnh
của nhận thức, cảm xúc, và thái độ cư xử xã hội. Sự nghiên cứu của
chúng tôi là phù hợp với ý tưởng rằng sự chú ý, những tiến trình ảnh
hưởng, và phẩm chất của từng khoảnh khắc tỉnh thức chính niệm là những
kỷ năng uyển chuyển và có thể rèn luyện
được
(55, 56).
THÀNH PHẦN,
KHÍ CỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP
1- Tham dự
viên.
Tám mươi sinh
viên chưa tốt nghiệp khỏe mạnh tại trường Đại Học Kỷ Thuật Dalian (44
nam, tuổi
(±
SD) = 21.8 ± 0.55 ) không có bất cứ một kinh nghiệm nào về rèn luyện đã
tham gia trong sự nghiên cứu này. Họ được phân công một cách ngẫu nhiên
trong một ‘nhóm thể nghiệm’ hay ‘nhóm kiểm soát’ (40:40).
Bốn mươi đối tượng ‘thể nghiệm’ liên tục tham dự thiền hiệp nhất thân
tâm IBMT trong 5 ngày/20 phút huấn luyện mỗi ngày. Bốn mươi đối tượng
‘kiểm soát’ được giao cho cùng số lượng và thời lượng trong những buổi
tập nhưng tiếp nhận tin tức từ một dĩa compact về thư giản mỗi bộ phận
của thân thể. Huấn luyện viên quan sát họ từ một truyền hình cận ảnh và
cung cấp những câu trả lời đến mỗi câu hỏi sau mỗi buổi luyện tập.
Những kinh nghiệm nhân bản được chấp nhận bởi một Hội Đồng Kiểm Nghiệm
Nghiên Cứu Địa Phương, và báo tin sự đồng ý đạt được từ mỗi tham dự
viên.
ANOVA (sự phân tích đa dạng) và những thử
nghiệm thống kê (t tests)
được áp dụng để phân tích.
2- Đo lường:
Sự Kiểm Nghiệm Hệ Thống Chú ý (ANT) được tiến
hành trước và sau khi huấn luyện (24). Mỗi người nhận 248 thử nghiệm
trong mỗi kỳ lượng định. Trừ những thời gian phản ứng được dùng để thu
điểm cho mỗi mạng lưới chú ý, bao gồm cảnh giác, định hướng, và giải
quyết xung đột (24).
Hai nhóm giống nhau của 80 đối tượng nhận Sơ
Lược Thể Trạng Tính Tình (POMS) (27, 28),
và 48 đối tượng [28 nam, tuổi (± SD) = 21.7 ± 0.53] tham gia trong
Khuôn Mẫu Tiến Triển Tiêu Chuẩn Raven
(25,26)
một cách riêng lẻ trước và sau 5 ngày huấn luyện.
Phân nữa nhóm
thể nghiệm và nhóm kiểm soát [20:20, 26 nam, tuổi (± SD) = 21.9 ± 0.97] được
lựa chọn một cách ngẫu nhiên để tham gia đo lường sinh lý học. Tính
nhẫm số học được dùng như một nhân tố căng thẳng nghiêm trọng sau 5 ngày
thiền tập thân tâm hiệp nhất IBMT và thư giản trong hai nhóm
(29–34).
Những đối tượng được hướng dẫn để biểu diễn một dãy 47 tính trừ 4 số
hạng và trả lời bằng miệng. Sau 3 phút tính nhẫm, những tham dự viên
được thúc đẩy trả lời nhanh và chính xác nhất như có thể. Nếu những
tham dự viên không hoàn tất những bài tính nhẫm đúng giờ và chính xác,
máy điện toán sẽ gây một tiếng nhói tai để nhắc nhở những đối tượng,
những người được yêu cầu để bắt đầu trở lại nhiệm vụ và làm lại một lần
nữa.
Đo lường
hormone và phân tiết
immunoglobulin A được áp dụng trong ba thời điểm: tình trạng bỉnh thường
trước khi căng thẳng, sau khi căng thẳng tinh thần, và sau khi thêm 20
phút huấn luyện thêm thiền tập.
a- Tất cả những đối tượng được cho 5 phút
nghĩ ngơi để ở trạng thái bình thường ban đầu.
b- Tất cả đối tượng được hướng dẫn để hoàn
thành 3 phút tính nhẫm để thử nghiệm chúng có những phản ứng căng thẳng
khác nhau giữa hai nhóm hay không.
c- Nhóm thể nghiệm thực tập thêm 20 phút
thiền hiệp nhất thân tâm, trái lại nhóm kiểm soát thư giản 20 phút để
thử nghiệm huấn luyện phụ trội có cải thiện sự thay đổi căn cứ trên 5
ngày huấn luyện hay không.
Để kiểm soát những sự khác biệt của mức độ
hormone trên chuyển động đo lường, sự căng thẳng tính nhẫm toán học được
diễn ra từ 2 giờ đến 6 giờ chiều (32). Mẫu nước bọt được thu thập một
cách lập tức sau mỗi thời điểm đối thoại xong và được cho vào ống nghiệm
trong sự liên tục, với những ống nghiệm đặt trong tủ lạnh âm 20 độ C và
rồi thì làm tan 24 giờ sau để phân tích. Sự tập trung hormone và phân
tiết immunoglobulin A được phân tích bởi RIA (tiến trình đo lường khối
lượng hormone trong một phút) tại trường Đại Học Y Dược Dalian
(31–34).
3- Phương pháp thiền hiệp nhất thân tâm
IBMT
IBMT liên hệ vài kỷ thuật thân-tâm bao gồm:
a- Thư giản thân thể.
b- Điều hòa hơi thở.
c- Quán tưởng hình tượng.
d- Huấn luyện tỉnh thức chính niệm, phối
hợp với âm nhạc chọn lọc làm nền.
Trong nghiên cứu này, tiêu chuẩn đo lường
IBMT được xử dụng. Một đĩa compact được phát triển cho tiêu chuẩn một
mà bao gồm âm nhạc làm nền. IBMT tiêu chuẩn một bao gồm (i) tiền thực
tập, (ii) trong thực tập, và (iii) hậu thực tập.
(i) Trong giai
đoạn tiền thực tập, thường là một ngày trước khi thể nghiệm, huấn luyện
viên tập họp những đối tượng có một cuộc gặp gở về những câu hỏi và trả
lời tự do về ‘thiền hiệp nhất thân tâm IBMT’cho những người mới tập.
Huấn luyện viên cũng thiết lập thời gian chính xác, phòng huấn luyện, và
nguyên tắc cho nhóm thực tập. Điều quan trọng nhất cho huấn luyện viên
là tạo nên một không khí hòa hiệp và thoãi mái cho việc thực tập có hiệu
quả (20, 21).
(ii) Trong giai
đoạn huấn luyện, những đối tượng theo một đĩa compact với sự điều chỉnh
tư thế thân thể, thực tập hơi thở, hướng dẫn quán tưởng hình tượng, và
huấn luyện tỉnh thức chính niệm phối hợp với âm nhạc nền.
Y.-Y.T.
cho những sự hướng dẫn thực tập trên đĩa compact. Sự thực tập kéo dài
20 phút cho 5 ngày. Trong thời gian kỳ huấn luyện, huấn luyện viên quán
sát những dấu hiệu trên mặt và thân thể để xác định những ai đang vật vả
với phương pháp và cho những đánh giá thực tiển ngay lập tức trong thời
gian hậu thực tập.
(iii) Trong thời gian hậu thực tập,
mỗi đối tượng điền vào một bản câu hỏi và đánh giá việc thực tập. Huấn
luyện viên cho những đáp ứng ngắn gọn đến những đối tượng yêu cầu.
IBMT thuộc về khoa học thân – tâm trong
truyền thống cổ truyền Đông phương. Truyền thống và văn hóa Trung Hoa
không chỉ là một lý thuyết của con người nhưng cũng là một kinh nghiệm
và thực tập sống động(một cách quan trọng nhất). Phương pháp IBMT đến
từ truyền thống y học Trung Hoa, nhưng cũng dùng những ý tưởng nhân bản
trong sự hòa hiệp với thiên nhiên trong Lão Giáo và Khổng Giáo, và Phật
Giáo, v.v…Mục tiêu của IBMT là phục vụ như một sự thực hành tự điều
chỉnh cho sự cân bằng và sức khỏe thân-tâm và sự cát tường cùng thúc đẩy
cho sự nghiên cứu khoa học thân-tâm.
Thiền thân tâm hiệp nhất IBMT có ba trình độ
huấn luyện: (i) sức khỏe thân-tâm, (ii) sự cân bằng thân-tâm, và (iii)
sự tịnh hóa thân-tâm cho người trưởng thành và một trình độ sức khỏe và
tuệ trí cho trẻ con. Trong mỗi trình độ, IBMT có những lý thuyết và
,một vài kỷ năng cốt lõi gói gọn trong đĩa compact hay đĩa ghi hình được
hướng dẫn và chỉ đạo bởi một huấn luyện viên phẩm chất tương xứng.
Người đạt đến ba cấp trọn vẹn một kỳ huấn luyện sau khi những bài kiểm
về lý thuyết và thực tập có thể trở thành một hướng dẫn viên.
IBMT liên hệ học hỏi yêu cầu sự hướng dẫn
kinh nghiệm và rõ ràng dứt khoát. Để bảo đảm cho kinh nghiệm thích ứng,
những huấn luyện viên (những hướng dẫn viên đủ phẩm chất) được huấn
luyện để hướng dẫn những người mới thực tập thiền hiệp nhất thân tâm
IBMT một cách chính xác. Những hướng dẫn viên tiếp nhận sự huấn luyện
trên việc làm thế nào để phối hợp với những ‘nhóm thể nghiệm’ và ‘nhóm
kiểm soát’ để bảo đảm họ thông hiểu chương trình huấn luyện một cách
chính xác. Sau mỗi kỳ huấn luyện, những hướng dẫn viên cho những câu
trả lời ngắn gọn ngay lập tức đến những câu hỏi từ những người tham dự,
hổ trợ những ai khi thấy họ gặp khó khăn, và yêu cầu những tham dự viên
điền vào bản câu hỏi và bất cứ bình luận nào. Điều quan trọng nhất cho
những huấn luyện viên là tạo nên một không khí hòa hiệp và thoãi mái
cùng cho những đáp ứng để sự thực hành có hiệu quả. Huấn luyện viên tin
tưởng mọi người có đầy đủ khả năng và đồng đẳng và nhiệm vụ của họ là
khám phá cùng vui thích với khả năng tốt đẹp của chính mình để hổ trợ
những người tham dự suy nghĩ tốt hơn và bày ra khả năng của họ hơn là
dạy họ.
Một huấn luyện viên phẩm chất là rất quan
trọng cho mỗi trình độ hướng dẫn và thực tập. Không có huấn luyện, thì
không thể hay rất khó khăn để thực hành thiền hiệp nhất thân tâm IBMT
chỉ với đĩa compact đơn thuần mà thôi.
Acknowledgments
We thank the Institute of Neuroinformatics
staff for assistance with data collection and Kewei Chen and the RIA
division at Dalian Medical University for technical assistance. This
work was supported in part by National Natural Science Foundation of
China Grant 30670699, National 863 Plan Project Grant 2006AA02Z431,
Ministry of Education Grant NCET-06-0277, and a Brain, Biology, and
Machine Initiative grant from the University of Oregon.
Previous SectionNext
Section
Footnotes
·
Author contributions: J.W. and
Y.F. contributed equally to this work; Y.-Y.T., M.F., and M.I.P.
designed research; Y.-Y.T., Y.M., J.W., Y.F., S.F., Q.L., Q.Y., and D.S.
performed research; Y.-Y.T., Y.M., J.W., Y.F., S.F., Q.L., and Q.Y.
analyzed data; and Y.-Y.T., M.K.R., and M.I.P. wrote the paper.
·
The authors declare no conflict
of interest.
·
Abbreviations:
IBMT:
integrative body–mind training;
ANT:
Attention Network Test;
POMS:
Profile of Mood States;
sIgA:
secretory IgA.
·
© 2007 by The National Academy
of Sciences of the USA
Previous Section
CrossRefMedlineWeb
of Science
--
Short-term meditation training improves attention and self-regulation
Contributed by
Michael I. Posner, August 16, 2007 (received for review July 26, 2007)
Tuệ Uyền
chuyển ngữ
25-12-2009
http://www.pnas.org/content/104/43/17152.long
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/huanluyenthientap.htm