...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Pháp Chỉ Thẳng
- Đại-lãn
Như chúng ta biết, tất cả mọi biểu
hiện trong cuộc sống, qua mọi thi vi động tác của ngôn ngữ cử chỉ
hành động của chúng ta, đều phát xuất từ tự tâm chúng ta, như chính
đức Phật đã xác quyết trong kinh Hoa Nghiêm: " Nhất thiết duy tâm tạo.
" Ở đó, trong cuộc sống thường nhật hằng ngày, chúng được thể
hiện qua hai biểu thị: vọng và chân (chân ở đây vượt lên
trên vọng và chân của vọng), nhưng thông thường chúng ta chỉ nhận
biết được cái vọng và chân của vọng qua pháp phủ định của các
ngài hơn là cái chân như thật, để từ đo chúng ta nhận thấy được cái
sai lầm trong cách thể hiện do vọng tâm phân biệt khởi động và chi phối
trong cuộc sống.
Sự thể hiện này bị vọng tâm phân biệt bóp méo; do đó
biến thực tại không như thực tại của chính nó, mà tuỳ thuộc vào cái
nhìn do vọng tâm phân biệt đẻ ra, từ đó mọi sai biệt mâu thuẫn hiện
ra trong cuộc sống như: Có-không, đúng-sai, chơn-giả, thiện-ác, tốt-xấu
v.v... tùy thuộc vào kiến giải do vọng tâm phân biệt áp đặt lên trên
lòng thực tại mà chúng hiện hữu. Ở đây thực tại không còn là một
thực tại như chính nó, như đức Phật đã từng tuyên thuyết: " Sanh
tử là Niết bàn, Niết bàn là sanh tử; phiền não tức Bồ đề, Bồ đề
tức phiền não." Hay như trong văn học Thiền có xuất hiện một bài
thơ khá độc đáo và nổi tiếng:
Lô sơn yên toả Triết giang triều,
Vị đáo bình sanh hận bất tiệu.
Đáo đắc hoàn lai vô thị sự,
Lô sơn yên toả Triết giang triều.
Dịch:
Khói toả Lô sơn sóng Triét giang,
Khi chưa đến đó hận mơ màng.
Đến rồi đích thật không gì khác,
Khói toả Lô sơn sóng Triết giang.
Khi chúng ta còn là phàm tục chưa mở mắt ra được, thì
cái nhìn này do tâm vọng mê mờ phân biệt thể hiện, nên thấy tất cả
mọi vật như là mâu thuẫn ngăn cách nhau trong suốt cả một bình sanh. Khi
có thể như thế này, khi có thể như thế kia; chúng sẽ trở thành sai lầm
vì không đúng như thật chính nó. Cái nhìn này trở thành khó tiêu, mắc kẹt
trong trạng thái mơ màng hoài vọng của vọng tâm. Do đó, cái thấy này như
là nghe thấy chứ không phải nhìn thấy.
Ngược lại, một cái nhìn như thật chính nó, là cái nhìn
khi mắt đã được mở ra (giác ngộ); cái nhìn này không còn bị kẹt
trong trạng thái mơ màng hoài vọng của vọng tâm phân biệt chấp trước,
do đó cái nhìn dung hội thông suốt tự tại. Lúc này cái nhìn trở thành
hiện thực như thật chính nó, như hai câu cuối của bài thơ đã diễn tả,
qua cái hìn của tâm vô phân biệt khi đã đạt được Đạo: " Đến rồi
đích thực không gì khác, Khói toả Lô sơn sóng Triết giang." Không như
cái nhìn do tâm phân biệt chấp trước.
Như vậy thực tại không là gì hết, chúng luôn luôn vẫn
là thực tại như chính nó, khi không bị vọng tâm khởi lên phân biệt can
thiệp vào. Chúng chỉ biến tướng biến dạng khi tâm vọng khởi lên phân
biệt, để rồi chấp vào đó cho là như thế này, không phải như thế
kia, thế kia không phải như thế này v.v... Mọi rắc rối lôi thôi hiện
ra, và mọi sự trói buộc theo đó mà hiện hữu. Nhất thiết duy tâm tạo
quả thật là một hiện tướng tuỳ theo tâm phân biệt và tâm vô phân biệt
thể hiện, theo đó các thiền sư dùng pháp phủ định để phủ định mọi
sai lầm do vọng tâm phân biệt đẻ ra, và chỉ thẳng cái tâm vô phân biệt
cho mọi người thấy, chúng vẫn luôn luôn thể hiện trong cuộc sống của
chúng ta mà chúng ta không nhận ra, như chúng ta không nhận ra cái sai lầm của
vọng tâm phân biệt vậy. Như Hy Thiên Thạch Đầu bảo Duy Nghiễm Dược
Sơn:
" - Như thế cũng chẳng được, không như thế cũng
chẳng được; Như thế không như thế đều không được, ngươi làm sao?
Dược Sơn mờ tịt không hiểu.
Hy Thiên Thạch Đầu bảo:
- Nhân duyên nhà ngươi không phải ở đây, hãy đến chỗ
mã đại sư. Dược Sơn vâng lời đến yết kiến Mã Tổ, Dược Sơn thuật
lại chuyện đã qua. Mã Tổ bảo:
Ta có khi dạy Y nhướng mày chớp mắt, có khi không dạy Y
nhướng mày chớp mắt; có khi nhướng mày chớp mắt là phải, có khi nhướng
mày chớp mắt là không phải, ngươi tính làm sao?
Ngay câu nói này Dược Sơn khế ngộ, bèn lễ bái.
Mã Tổ hỏi:
Ngươi thấy đạo lý gì mà lễ bái?
Dược Sơn thưa:
Con ở chỗ Thạch Đầu như con muỗi đậu trên trâu sắt.
Mã Tổ bảo:
- Ngươi đã biết như thế thì tự giữ gìn."
Tất cả mọi khả năng luận lý, dù đúng hay là sai của
ngôn ngữ đều bị thiền sư Thạch Đầu phủ nhận. Vậy thì Duy Nghiễm Dược
Sơn phải làm sao đây? Ở đây, rõ ràng ông bị hớt hẫng và trở nên mù
tịt khi nghe Thạch Đầu phủ nhận mọi sở đắc có được về luận lý
đúng sai v.v... trong cuộc sống. Từ thử thách này Thạch Đầu biết rằng
Dược Sơn không hợp với phương pháp phủ định của mình, nên liền chỉ
ông đến Mã Tổ.
Như cái thấy của Thạch Đầu, Dược Sơn qua những lời
chỉ dạy của Mã Tổ về nhướng mày chớp mắt, có khi nên, có khi không
nên, khi nào đúng khi nào không đúng, qua đó Dược Sơn đã được khế ngộ.
Ở đây Dược Sơn đã ngộ được cái chi trong cái nhướng mày chớp mắt
này mà lễ bái? Để biết chắc là Dược Sơn đã ngộ được những gì
mà mình đã nói, Mã Tổ đã ướm thử cho Dược Sơn thể hiện ra, và ông
đã thật sự thể hiện cái ngộ của mình qua con muỗi đậu trên trâu sắt.
Thế là Phật tính của mọi người được thể hiện ra trong những cử chỉ
những động tác hoặc lời nói, trong những cái nhướng mày chớp mắt, nếu
tất cả mọi động tác đó là VÔ SỰ. Chính những biểu hiện vô sự
này mà thiền sư Trí Chơn đã đem ra chỉ thẳng cho đại chúng của ông
khi ông dạy.
" Trí Chơn dạy chúng:
- Nheo mày chớp mắt không ngoài người này, một niệm tịnh
tâm xưa nay là Phật."
Qua đây, đã quá rõ ràng cho chúng ta nhận ra pháp chỉ
thẳng phải không? Những cái này xưa nay chúng ta đã từng coi thường, đã
từng bỏ quên; do đó mới chạy rông bên ngoài tìm Phật đâu đâu, để
cuối cùng không được chi chi đâm ra quờ quạng bối rối; trăm việc ngàn
duyên đâm ra bế tắt trói buộc lẫn nhau mất dần đi tự tại và giải
thoát. Cũng trong cung cách này thiền sư Pháp Loa của Việt nam đã thể hiện
trong pháp chỉ thẳng của mình khi dạy chúng.
" Đại Đạo rộng suốt nào có buộc nào có ràng, bản
tánh lặng trong không thiện không ác. Bỡi do lựa chọn nên sinh ra tắt
ngang lắm nẻo; chỉ cần quán mắt tí thôi cũng thành cách xa trời đất.
Thánh phàm vốn chung một lối, phải quấy nào phải hai đường. Cho nên biết
rằng tội phước vốn không, cứu cánh nhân quả chẳng thật, mọi người
đầy đủ kẻ kẻ trọn thành, Phật tánh pháp thân như hình với bóng, tuỳ
ẩn tuỳ hiện, chẳng tức chẳng ly. Lỗ mũi thẳng xuống, chân mày nằm
ngang mặt ở phía trên mắt, nhưng không dễ gì nhìn thấy. Cần phải truy
tầm, chẳng thấy nói sao: " Ba ngàn pháp môn cùng về vuông tấc,
hà sa diệu dụng thảy tại nguồn tâm." Nên bảo ba cửa Giới-Định-Tuệ
các ông không thiếu, cần phải quán nơi chính mình. Phàm những tiếng ho
tiếng tằng hắng, nhướng mày chớp mắt, tay cầm chân đi. Đó là tánh
gì? Khi biết được tánh này rồi, thì đó là tâm gì? Tâm tánh đều rỗng
sáng. Vậy cái nào là phải, cái nào là không phải?"
Thiền sư Pháp Loa càng rõ ràng hơn trong việc biểu hiện
" Nhất thiết duy tâm tạo" qua hai cách thể hiện, phủ nhận mọi
cái nhìn sai lầm do vọng tâm phân biệt đẻ ra, và chỉ thẳng những thể
hiện do tâm vô phân biệt lưu xuất qua cuộc sống mà chính chúng ta không
nhìn ra, hay tự lãng quên chúng, đó là pháp " Trực chỉ nhơn tâm kiến
tánh thành Phật" của Phật giáo Thiền Tông. Chẳng thấy nói sao:
" Ba ngàn pháp môn cùng về vuông tấc, hà sa diệu dụng thảy tại nguồn
tâm." Vọng-chân đi theo chúng ta thì có thủ xả kèm theo, nhưng đối với
các thiền sư thì tất cả đều bị ba mươi hèo như thiền sư Đức Sơn
đã từng vung gậy bảo: " Nói được cũng bị ba mươi hèo, không nói
được cũng bị ba mươi hèo." Vậy thì ở đây, cái chỉ thẳng sẽ hiện
ra khi các vọng-chân được phủ định, nếu người nào có đủ căn cơ và,
lanh mắt sẽ nhận ra ngay. Nơi đây, mọi phương pháp đều bị cắt đứt,
mọi tư duy mọi khái niệm đều bị thủ tiêu; cái gì biểu hiện ra bên
ngoài mà không có ý thức can thiệp vào, thì cái đó được chỉ thẳng. Cái
được thể hiện này chính là cái biểu hiện của tâm vô phân biệt. hãy
phản quán nơi chính mình thì sẽ thấy chúng trong cuộc sống. Chúng sẽ hiện
hữu qua cuộc sống của chúng ta một cách rõ ràng, mà chúng ta không cần
phải tìm cầu đâu cho xa mệt. Hơn nữa, sẽ bị rơi vào đường ma lối
quỷ, nếu chúng ta chạy rông tìm chúng bên ngoài, như ngài Mã Tổ đã cảnh
cáo Đại Châu Huệ Hải khi ông đến tham vấn ngài.
" Huệ Hải Đại Châu đến tham vấn Mã Tổ, Mã Tổ
hỏi:
- Từ đâu đến?
Đại Châu Huệ Hải thưa:
- Từ chùa Đại Vân ở Việt Châu.
Hỏi:
- Đến đây cầu việc chi?
Thưa:
- Cầu Phật pháp.
Mã Tổ hỏi:
- Kho báu nhà mình mà chẳng đoái hoài, bỏ nhà đi tìm cái
chi? Ta ở trong đó không có một vật. Phật pháp là cái chi mà cầu?
Huệ Hải lễ bái thưa:
- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?
Mã Tổ nói:
- Hiện tại chính ngươi hỏi ta là kho báu của ngươi. Tất
cả đều đầy đủ không thiếu thốn, tự do sử dụng đâu cần cầu bên
ngoài. Ngay câu này, Huệ hải tự nhận ra bổn tâm mình không do hiểu biết."
Qua công án này, chúng ta đã nhận ra ông Phật chính
mình chưa? Nếu không, cho dù có hiểu nhờ vào những định nghĩa do ngôn
ngữ văn tự hay mọi sự trình bày, đều không có ích chi cả, vì mọi sự
hiểu biết do trí phân biệt đẻ ra, đều cũng là một thứ vọng mà
thôi. Nếu ngay chính nơi ta, ngay trong cuộc sống mà chúng ta không nhận ra
cái bản lai Phật tánh của chính ta, thì cho dù là nhướng mày chớp mắt
mệt nghỉ, tưởng cũng chẳng can hệ chi đến việc thấy tánh thành Phật,
trong khi những cái biểu hiện đó bị ý chí can thiệp vào, và tức khắc
chúng bị bóp méo. Do đó, để tránh những tình trạng học đòi bắc chước
này Thạch Đầu đã trắc nghiệm Hoa Lâm, khi hỏi về thiền. Hoa Lâm
được thầy là Thạch Đầu hỏi như vầy:
" Ông là Thiền tăng hay tăng thường?
Hoa Lâm:
- Con là thiền tăng.
Thạch Đầu:
- Thiền là gì?
Hoa Lâm:
- Nhướng mày chớp mắt.
Thạch Đầu:
- Hãy trình cái bộ mặt thật xưa nay của ông ra đây ta
xem; ta không bảo việc nhướng mày chớp mắt.
Hoa Lâm:
- Thưa thầy, xin để việc nhướng mày chớp mắt ấy đi,
hãy xem con, kia ngay chỗ con ở đấy.
Thạch Đầu:
- Kia đi mất rồí!
Hoa Lâm:
- Con đã trình xong."
Người đã đạt đạo rồi thì luôn luôn tự tại trong
vấn đáp, chỉ có kẻ học đòi bắt chước mới bị bế tắc nghẹn họng
trong những cú đánh bất chợt như vậy. Hầu hết những tri kiến của chúng
ta là kiến giải của bọn mù, ngôn ngữ sử dụng của chúng ta là ngôn ngữ
của những con vẹt, không ăn nhằm gì đến thực tại cả. Thực tại được
gọi là thực tại khi chúng không bị tư tưởng văn tự, khái niệm của
nhân qủa xen vào bóp méo đi sự thật như là chính nó, mà nó luôn luôn
được thể hiện một cách trần truồng, không bị biểu tượng do vọng tâm
đẻ ra chi phối. Nó luôn luôn được thể hiện dưới dạng vô phân biệt.
Có thể qua nhướng mày chớp mắt, qua tiếng dạ, hay qua bất cứ sự thể
hiện nào ra bên ngoài. Đều đó được Huệ Siêu Thủ Sơn dạy Động
Sơn.
" Một hôm Động Sơn đến viếng Huệ Siêu Thủ Sơn
xin chỉ dạy, Huệ Siêu nói:
- Ông đã có chỗ trụ rồi, sao còn đến đây xin chỉ dạy?
Động Sơn:
- Tâm tôi còn có chỗ khó giải mà tôi không thể kiểm
soát nó được, vì vậy tôi đến đây gặp thầy.
Huệ Siêu:
- Này Lương Giớí!
Nhân đó Động Sơn đáp:
- Dạ, Bạch thầy!
Huệ Siêu:
- Đó là cái gì?
Động Sơn không nói được câu nào.
Huệ Siệu liền phán:
- Phật đẹp quá! Tiếc thay không có chút ánh sáng nào!"
Ở đây, ai có thể vì Động Sơn mà thay thế trả lời
được không? Đó la cái gì? Khi Động Sơn đáp " Dạ, bạch thầy!"
nhân Huệ Siêu kêu tên mình? Và tại sao Huệ Siêu bảo Phật đẹp quá! tiếc
thay không có chút ánh sáng nào! Nếu là kẻ vô sự thì những gì Huệ
Siêu phán nói cũng chỉ là trò chơi của ngôn ngữ nhẹ như lông hồng mà
thôi. Nhưng đối với những kẻ mang tâm có-không như chúng ta, thì đây quả
thật là một gánh nặng ngàn cân mang suốt cả một đời.
Dạ, đó là một cái gì? Lương Giới hoàn toàn không nhận
ra, chỉ vì tâm ông còn ôm nặng một khối có-không khó giải quyết, nên
không lọt qua khỏi tiếng Dạ này, vì vậy cho nên Huệ Siêu mới bảo Phật
đẹp quá, tiếc thay không có chút ánh sáng nào! Và cũng qua tiếng dạ này
Trường Khánh Huệ Vân đem ra chỉ thẳng cho một vị tăng và nhận xét.
" Một hôm, một ông tăng đến viếng Trường Khánh
Huệ Vân và đặt câu hỏi sau đây:
- Trong thân bốn đại năm uẩn này, người ta gọi cái gì
là Phật tánh?
Sư gọi tên ông tăng và ông tăng đáp:
- Dạ !
Sư yên lặng một lúc rồi nhận xét:
- Nơi ông chẳng có Phật tánh!"
" Dạ" có hay không có Phật tánh chả can hệ
gì đến nó, vì có hay không cũng chỉ là một biểu hiện của trí phân biệt.
Huệ Vân đã dùng " không có" để phủ định " có" của vị
tăng, khi khởi lên tâm phân biệt để hỏi về Phật tánh. Trong khi Huệ
Vân khêu gợi Phật tánh qua tiếng Dạ của ông mà ông không nhận ra. Hay một
cách rõ ràng hơn trong cách chỉ thẳng, Ngô Hồ Đại Nghĩa đã trả lời
minh bạch cho hoàng đế Thuận Tông.
" Hoàng đế Thuận Tông hỏi:
- Phật tánh là cái gì?
Sư đáp:
- Cái ấy chẳng xa chỗ phát xuất ra câu hỏi của bệ
hạ!
Thật quá rõ ràng, nhưng nào ai thật tình nhận ra ông
Phật của mình luôn luôn hiện hữu, mà mãi chạy quanh bên ngoài tìm kiếm
ở Phật đồng, Phật gỗ, Phật ximen cốt sắt, Phật giấy v.v... Tự nhiên
mọi thứ ấy được con người dựng lên, và khoát lên một giá trị nào
đó. Từ đó cắm đầu cắm cổ để lạy để kêu, trong khi ông Phật nơi
chính mình lại bỏ quên! Cũng như Vô Nghiệp suốt đời cắm đầu tìm hiểu
kinh điển, để rồi cuối cùng cũng phải đến Mã Tổ nhờ giải quyết
nghi.
" Vô Nghiệp thưa Mã Tổ:
- Về kinh điển con hiểu biết chút ít, nhưng thường nghe
thiền môn " Tức Tâm tức Phật" thật con chưa hiểu thấu.
Mã Tổ đáp:
- Chỉ cái tâm chưa hiểu đó là đúng rồi, lại không có
vật gì khác.
Hỏi:
- Thế nào là mật truyền tâm ấn của Tổ sư từ Ấn
sang?
Đáp:
- Chính đại đức đang ồn. Hãy đi đí! Khi khác lại.
Sư vừa đi, Mã Tổ gọi:
- Đại đức!
Sư xoay đầu lại Mã Tổ hỏi:
- Là cái gì?
Sư liền lĩnh hội, và lễ bái.
Mã Tổ bảo:
- Kẻ đần độn lễ bái làm gì?"
Một cái chỉ thẳng cụ thể nơi chính người khởi vọng
đặt vấn đề, để đả thông chỗ vướng mắc nơi họ, bằng cách dùng
vướng mắc để mở vướng mắc. Nhưng ở đây người hỏi vẫn chưa nhận
ra cái tâm chưa hiểu đó là cái gì, dù Mã Tổ đã chỉ thẳng cho ông ta,
ông vẫn tiếp tục dùng trí phân biệt để dấn sâu vào những sai lầm
khác. Mã Tổ vẫn kiên trì trong khi trả lời, bằng những sự việc cụ thể
đã được thể hiện ra nơi người hỏi, mà trả lời những câu hỏi của
ông ta; nhằm đánh thức khơi dậy được cái tâm vô phân biệt nơi người
hỏi thể hiện ra bên ngoài mà chỉ thẳng. Ở đây, cũng như công án trên
thay vì Vô Nghiệp sẽ " Dạ" khi Mã Tổ gọi đến tên mình, nhưng
ông không dạ mà xoay đầu lại. Chính cái xoay đầu lại này đã thể hiện
cái mà Mã Tổ cần chỉ thẳng cho ông. Cái gì xoay đầu lại? Xoay đầu lại
bằng cái hữu tâm hay vô tâm? Và ở đây, sao gọi là kẻ đần độn? Ai
hiểu được chỗ lãnh hội được của Vô Nghiệp thì lãnh hội được tại
sao Mã Tổ bảo Vô Nghiệp là kẻ đần độn, nếu không thì làm kẻ ấm
ức thay giùm cho Vô Nghiệp.
Cũng trong cung cách đánh thức chỉ thẳng này thiền sư Pháp
Loa khi nghe chúng tụng kinh hỏi một vị tăng rằng:
" Chúng đang làm gì?
Tăng thưa:
- Chúng niệm Phật tâm.
Sư bảo:
- Nếu nói là tâm, thì tâm không Phật. Nếu bảo là Phật
thì Phật không tâm. Vậy, cái nào gọi là tâm?
Vị tăng này đáp không được, Sư lại hỏi một vị tăng
khác:
- Chúng đang làm gì?
Tăng thưa:
- Niệm Phật.
Sư bảo:
- Phật vốn không tâm thì niệm cái gì?
Tăng thưa:
- Chẳng biết.
Sư bảo:
- Ngươi nói chẳng biết, vậy ai nói đó !?
Tăng không đáp được."
Lâu lâu trắc nghiệm tiến trình tâm linh của đệ tử,
nhưng rõ ràng tâm thức cả hai đều chưa đến độ chín mùi, thành ra cũng
chỉ là công dã tràng. Từ những phép phủ định đưa vào ngõ bí, để từ
đó có thể đả thông cho đệ tử. Song hai người đệ tử từ bí này đẻ
ra bí khác chứ không thể nào mở được cho mình một con đường sống,
cho dù thiền sư ướm thêm một chút nữa, nhưng vẫn không chuyển não được
người đệ tử trong pháp chỉ thẳng này.
Ở đây, chữ " Ai" một phản diện của bộ mặt
thật đã được thầy đặt ra và, trình diện cho chính người bị hỏi,
nhưng người bị hỏi vẫn mù tịt. Thường cách chỉ thẳng bằng biểu tượng
phản diện này được các thiền sư sử dụng rất nhiều và đa dạng,
như trong lời đối đáp giữa thiền sư Vân Nham và Đạo Ngô.
" Vân Nham đang nấu trà, Đạo ngô hỏi:
- Nấu trà cho ai?
Sư đáp:
- Có một người cần.
Đạo Ngô hỏi:
- Sao không dạy Y nấu!?
Sư đáp:
- Hiện nay đang có tôi ở đây!"
Đối với các thiền sư đó là một cách thăm dò hố
thẳm của nhau, cụ thê 堦#273;ơn giản rõ
ràng như ban ngày bằng chính cuộc sống của các ngài. Điều đó chứng tỏ
rằng cái chân tâm luôn luôn hiện hữu nơi mọi người, trong cuộc sống bình
thường này. Nhưng chúng ta không nhận ra được thôi, chứ không phải
chúng không hiện hữu, hay chúng không có nơi chúng ta, mà chúng ta phải đi
tìm kiếm ở đâu bên ngoài cuộc sống chính chúng ta.
Như Hoàng bá trả lời khi tướng quốc Bùi Hưu hỏi về
Cao Tăng qua công án.
" Tướng quốc Bùi Hưu vào chùa Khai Nguyên, thấy hình
vẽ trên vách hỏi thầy trú trì:
- Hình gì đây?
Thầy đáp:
- Hình Cao Tăng.
Bùi Hưu hỏi:
- Hình thì có thể thấy nhưng Cao tăng thì ở đâu?
Thầy trú trì không đáp được, Bùi Hưu hỏi:
- Ở đây có thiền nhơn không?
Thầy trú trì đáp:
- Vừa có một vị tăng vào chùa làm công quả rất giống
thiền giả.
Tướng quốc Bùi Hưu thưa:
- Xin thỉnh đến thưa hỏi được không?
Thầy trú trì đi mời Hoàng Bá đến, tướng quốc Bùi Hưu
thấy sư vui mừng thưa:
- Bùi Hưu tôi vừa có một câu hỏi, nhưng chư đại đức
ở đây tiếc lời. Giờ xin thượng nhơn thay họ đáp cho.
Hoàng Bá nói:
- Mời tướng quốc hỏi.
Bùi Hưu lập lại câu hỏi trước. Hoàng bá liền cao tiếng
gọi:
- Bùi Hưu!
Tướng quốc ứng tiếng dạ!
Hoàng bá hỏi:
- Ở đâu?
Ngay đó, tướng quốc nhận ra ý chỉ, như được hạt châu
trên búi tóc."
Hỏi-kêu-ứng tiếng dạ, ở đâu? Bùi Hưu nhận ra ý chỉ
là ý chỉ gì? Thật ra chả có ý chỉ gì để cho Hoàng Bá trao cho Bùi Hưu
cả, và ngược lại Bùi Hưu cũng chả có nhận được gì nơi Hoàng Bá
trao cho, vì mỗi người tự hiện hữu một cao tăng nơi chính mình, tự
mình không nhận ra thôi! Ông Phật ở đâu mà bày trò tìm kiếm?
Để rõ ràng hơn tí nữa chúng ta theo dõi cuộc đối thoại
giữa Linh Hựu Qui Sơn và Viên Trí.
Linh Hựu Qui Sơn hỏi Viên Trí:
- Từ đâu đến?
Viên Trí đáp:
- Xem bệnh đến.
Qui Sơn hỏi:
- Có bao nhiêu người bệnh?
Viên Trí đáp:
- Có ngưòi bệnh có người chẳng bệnh.
Qui Sơn nói:
- Có người không bệnh, đâu không phải là Viên Trí đầu
đà!?
Viên Trí đáp:
- Bệnh cùng chẳng bệnh đều không can hệ đến việc của
nó. Nói mau! nói mau!"
Có bệnh không có bệnh đều không can hệ đến việc của
nó là một câu chỉ thẳng. Ở đây, nếu bệnh và không bệnh có can hệ
đến, thì chính nó bị các pháp chi phối trói buộc, và ngược lại nếu
nó can hệ đến bệnh và không bệnh, thì chính nó tự buộc tự trói
mình. Vậy thì ở đây, chủ thể và đối tượng không phải hai đường.
Khi mê thì có chủ thể và đối tượng, khi ngộ ra rồi thì cả hai đều
vô sự, không can hệ lệ thuộc nhau. Do đó chúng dung nhiếp nhau, thông hội
nhau không phải hai cũng không phải một, đó chính là thái độ tự tại
giải thoát của các vị thiền sư trong cuộc sống vô sự của các ngài
được thể hiện qua công án trích dẫn sau đây.
" Hoà thượng Tuyết Phong vào núi nhặt được nhánh
cây giống hình con rắn, và đề trên lưng một câu: 'Vốn tự thiên nhiên
chẳng nhờ bào gọt' gởi tặng Đại An.
Đại An nhận và bảo:
- Người vốn sắc núi, không tỳ vết dao búa."
Cái gì đã bị bàn tay can thiệp của con người vào,
thì đó chính là một sự thể hiện đúng sai của nhân quả, chúng sẽ bị
bóp méo không còn như thật chính nó. Ở đây chính nó là cái vốn tự
nhiên như nhiên của thiên nhiên chẳng nhờ bào gọt, và cũng chính vì thế
mà Đại An phải phán: 'Người vốn sắc núi không tỳ vết dao búa' . Kể
ra hai lão đã nhận ra bộ mặt xưa nay của chính họ, qua cung cách ứng xử
trong việc thể hiện, mà ở đó chính họ đã tự thể nghiệm qua cách
trình bày chỉ thẳng này, trong cuộc sống thường nhật hằng ngày cũng
như Linh Hựu bảo Huệ Tịch khi cùng chúng đi hái trà.
" Linh Hựu cùng chúng đi hái trà, Linh Hựu bảo Huệ
Tịch:
- Suốt ngày hái trà chỉ nghe tiếng con, mà chẳng thấy
hình con. Hãy hiện bổn hình cho ta thấy coi !
Huệ Tịch liền rung cây trà.
Linh Hựu bảo:
- Chỉ được cái dụng còn cái thể của nó chưa được!
Huệ Tịch thưa:
- Chưa biết Hoà thượng thế nào?
Linh Hựu im lặng.
Huệ Tịch thưa:
- Hoà thượng chỉ được cái thể còn cái dụng của nó
chưa được !
Linh Hựu bảo cho con hai chục gậy."
Nhằm vào mọi thi vi động tác trong cuộc sống, qua đó
mọi cử chỉ mọi hành động, nói năng, đi đứng nằm ngồi v.v... được
thể hiện như là những tín hiệu thông tin cho nhau, được đem ra áp dụng
chỉ thẳng hằng ngày, trong những cuộc tiếp xúc trắc nghiệm nhau, mà
theo đó chúng mang một sắc thái trần truồng như thật. Ở đó, không những
thiền sư tự thể hiện một cách tự tại vô phân biẹ 䴬 mà những người phàm tục như chúng ta, cũng được thể
hiện qua cuộc sống. Nhưng vì chúng ta còn mê nên không nhận ra bộ mặt
thật chính mình được thể hiện.
Như Huệ Tịch đã có kinh nghiệm khi trả lời cho Qui Sơn.
Qui Sơn hỏi Huệ Tịch:
- Nghiệp thức chúng sanh mênh mông trên quả đất không gốc
có thể tựa, ông làm sao có thể biết họ có hay không?
Huệ Tịch đáp:
- Con có chỗ kinh nghiêﭬ Bỗng có một vị tăng đi ngang
qua, Huệ Tịch gọi Xà Lê ! Vị tăng xoay đầu lại. Huệ Tịch thưa:
- Bạch Hoà thượng kẻ này là nghiệp thức mênh mông
không gốc có thể tựa.
Qui Sơn khen:
- Đây là một giọt sữa sư tử làm tan sáu đấu sữa lừa."
Ở đây, nếu vị Xà Lê nọ mà biết hai
lão già bê bối này đem mình ra để trắc nghiệm cho nhau, thì có lẽ vị
tăng nọ ói máu đen ra rồi ! Bỡi vì không biết cho nên ông đã
trần truồng thể hiện qua cái quay đầu lại, và cũng nhờ đó mà Qui Sơn
thấy rõ Huệ Tịch qua cái quay đầu lại của kẻ khác này. Đó chính là
cái nghiệp thức mênh mông không gốc có thể tựa được của Thiền Tông.
Qua đây, nếu ai thấy được cái không gốc mà có thể tựa được
thì thấy được trí tuệ " Vô sở đắc" của Bát Nhã Tâm kinh,
và " Vô sở trụ" của Kim Cương kinh. Tuy nhiên khi đã thấy được
" Vô sở đắc" và " Vô sở trụ" rồi thì cái vô sở đắc
vô sở trụ này không còn đất đứng nữa. Té ra chúng chỉ là một trò
đùa, được các lão dàn dựng lên để lừa bịp thiên hạ cho vui; thật
ra chúng chả can hệ gì đối với tánh bình đẳng của các pháp. Do đó
khi nghe đến những từ ngữ này thì các lão, hoặc là vì để dỗ dành
mà bịt tai chạy không kịp thở, hoặc mặc kệ tự chúng tùy nghi.
Qua những trích dẫn ở trên, cho chúng ta một cái nhìn mới
toanh về sự thể hiện qua đó, chân tâm được thể hiện bày tỏ một
cách bình thường sống động trong cuộc sống, mà chúng ta không nhận ra
được, và đã bỏ quên nó. Ở đây, những gì được thể hiện mà chúng
ta coi như không có tác dụng đối với mọi giá trị nhân quả, thì cái đó
được các ngài dùng để chỉ thẳng. Cái gì không có tác dụng giá trị
nhân quả, thì cái đó được thể hiện trần truồng, không mang nhãn hiệu
do trí phân biệt đẻ ra áp đặt lên nó, cái này là cái không nhân không
quả, chúng không lệ thuộc vào bất cứ nhận thức phân biệt nào của
chúng ta. Chúng sẽ xuất hiện tùy duyên và biến theo đó như là một định
thức duyên khởi, do đó chúng không tùy thuộc vào thời gian hay không gian.
Ở đây, chúng là không thời, nên ở đó mọi tự tại được xuất hiện
một cách đơn sơ dễ dãi mộc mạc quê mùa.
Cách thể hiện được chỉ thẳng này cũng chính là nếp sống
thể hiện thường nhật hằng ngày của các thiền sư trong cuộc sống qua
đó nhà thiền gọi là nếp sống "Thỏng tay vào chợ," mọi trói
buộc đều được mở toan ra hết, được bóc vỏ sạch sành sanh, trần
truồng như thật chính nó.
xem thêm bài Thỏng tay
vào chợ của cùng
tác giả
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/to-007-chithang.htm
|
|