- VÔ MÔN QUAN
-
無門関
- Chữ Vô của Phương Đông
- Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin
- Biên dịch: Nguyễn Nam Trân
- Bản Thảo - 2009 -
Tắc số 6: Phật chìa nhánh hoa (Thế
Tôn niêm hoa)[1].
世尊拈花
Bản tắc:
Xưa Đức Thế Tôn[2]
trong một pháp hội trên núi Linh Thứu, cầm lấy một
nhánh hoa rồi chìa ra trước mặt mọi người.Không thấy ai phản ứng gì cả,
chỉ có tôn giả Ca Diếp[3]
mặt rạng rỡ, miệng mỉm cười. Đức Thế Tôn mới nói
rằng:
Ta có nhiều pháp môn vi diệu
như Chính Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Thực Tướng Vô Tướng[4]...Bằng
phương pháp bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền[5],
sẽ trao cả cho Ma Kha Ca Diếp.(Ta nhờ ngươi đấy, Ca Diếp nhé!)
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Cái lão Cồ Đàm (Gotama, tức Thích
Ca) mặt vàng[6]
thật là bàng nhược vô nhân. Cứ như kiểu đó thì lão
coi bên cạnh mình chẳng có ai cả, và xem bát phương đại chúng hiền lành
như thể đám nô lệ[7].
Thuyết rằng mình còn để dành cái pháp “vị hiển chân thực” mà chìa nhành
hoa là treo đầu dê để bán thịt chó đấy. Tưởng cao siêu lắm, hóa ra chỉ
có chừng nớ. May lúc đó còn có Ca Diếp mỉm miệng cười. Nếu Ca Diếp không
cười thì cái Chính Pháp Nhãn Tạng làm cách nào mà truyền cho ai được.
Còn nhỡ đại chúng tất cả đều cười thì lại hỏng chuyện mất! Ông Thích Ca
ơi, lúc đó đem Chính Pháp Nhãn Tạng truyền người nào bây giờ! Nếu bảo
Chính Pháp Nhãn Tạng có thể truyền cho là ông đã đánh lừa lũ dân quê
chất phác. Còn ngược lại, nếu bảo pháp ấy không thể đem truyền cho được,
thế thì tại sao ông có thể chọn một mình Ca Diếp làm người thừa kế?
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Niêm khởi hoa lai,
Vĩ ba dĩ lộ.
Ca Diếp phá nhan,
Nhân thiên võng thố.
拈
起
花
來
尾
巴
已
露
迦
葉
破
顏
人
天
罔
措
(Vừa nhấc hoa lên,
Đuôi thầy đã ló.
Ca Diếp mỉm cười,
Mọi người lớ ngớ).
Lược dịch lời bàn của Giáo sư
Akizuki Ryômin:
Truyện Thích Ca Mâu Ni trên ngọn Linh
Thứu chìa một nhánh hoa ra trước thiên thượng địa hạ tám vạn bốn nghìn
đại chúng trở thành công án nổi tiếng nói về nguồn gốc của Thiền Tông.
Vì “tứ thập cửu niên, vị hiển chân thực” cho nên hôm đó Phật sẽ giảng về
cái pháp mà bốn mươi chín năm giảng đạo chưa hề thực sự bộc lộ. Trước
đại chúng đang nóng lòng chờ đợi ngày hôm đó, Thích Ca chỉ chìa ra trước
mặt họ một cành hoa sen (kim-ba-la-hoa) do một cư sĩ tên Đại Phạm Thiên
Vương cúng dường. Hình thức của lối biểu hiện này cũng giống như
nhất-chỉ-đầu-thiền (thiền một ngón tay) của Thiên Long và Câu Chi mà quí
độc giả vừa xem. Ở đầu cành hoa đưa lên, Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn
Diệu Tâm...tất cả đều hiển lộ. Chìa ra cho mọi người nhưng tất cả đều im
lặng, chỉ có Ca Diếp mỉm cười tiếp nhận. “Duy Phật tả Phật”, (chỉ có
Phật hiện ra trước Phật) như hình ảnh thấy giữa hai mặt kính đối diện.
Trong hoàn cảnh ấy, lần đầu tiên đại pháp mới được nối tiếp bằng sự
truyền thụ từ thầy sang trò. Lúc đó không cần có chữ viết (bất lập văn
tự) và pháp được bàn giao ngoài hình thức dạy dỗ (giáo ngoại biệt truyền)
bằng cách “dĩ tâm truyền tâm” nghĩa là lấy sự đồng cảm giữa tâm hồn làm
căn bản. Và như thế, Thích Ca đã trông cậy vào Ca Diếp để nối tiếp con
đường mình đi. Từ đó, những kẻ có ấn khả của thiền đều truyền nó cho đệ
tử của mình bằng cách giúp người đó đạt được cùng một tâm cảnh như mình.
Thiền xưng là Phật Tâm Tông, Phật Giáo
Tổng Phủ hay cốt lõi của đạo Phật. Cái phật tâm ấy được truyền từ Thích
Ca đến Ca Diếp, từ Ca Diếp đến A Nan. Người thừa kế tứ thất bên Tây
Thiên là Đạt Ma chính là tổ sư đời thứ 28 (theo cách tính tứ thất hay 4
lần 7).Ngài cũng là tổ thứ nhất của Đông độ, và từ đó truyền xuống Huệ
Khả, Huệ Khả xuống Tăng Xán...theo cách tính 2 lần 3 hay nhị lục để có
sáu vị (lục tổ) mà người thứ sáu là Huệ Năng Thiền Sư. Như thế, thiền từ
đó đã Trung Quốc hóa.
Ngày nay các nhà nghiên cứu chỉ tìm tòi Phật pháp của
Thích Ca qua những kinh điển nguyên thủy. Và nếu so sánh với giáo lý cơ
sở của Thích Ca thì ta thấy rằng Thiền tông đã thay hình đổi dạng rất
nhiều. Dù trong Phật Giáo Đại Thừa có “phi Phật thuyết” hay không, phải
làm cách nào để nhìn thấy cách truyền thụ gọi là “nhân pháp” nghĩa là
giữa người với người, tâm với tâm, Phật với Phật, mà khỏi cần dùng đến
kinh điển. Thiền quả có phát triển và biến dạng trong dòng lịch sử lâu
dài đấy, thế nhưng, xuyên qua suốt dòng lịch sử, đạo Phật chính là cái
đạo truyền từ người này đến người nọ mà Thích Ca đã diễn đạt bằng “con
mắt nhìn được chân lý chính đáng” (Chính Pháp Nhãn Tạng) và “tấm lòng
liễu ngộ về nguyên lý bất sinh bất diệt” (Niết Bàn Diệu Tâm) .
[1]
Đây là một truyện trích trừ một ngụy kinh (kinh giả mạo) của Trung
Quốc tên gọi Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi Kinh, trong
Niêm Hoa Phẩm đệ nhị.
[2]
Biểu âm của tiếng Phạn Bhagavat, chỉ bậc tôn quí trên đời.
Một trong mười cách gọi Thích Ca (Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri,
Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật Thế Tôn).
[3]
Biểu âm của tiếng Phạn Makhakasyapa (Ma
Kha Ca Diếp), lược thành Ca Diếp. Một trong mười đại đệ tử của Thích
Ca. Tiểu sử có chép trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển 1.
[4]
Chính Pháp Nhãn Tạng tức là con mắt Phật nhìn
được chân lý chính đáng đang tàng ẩn thâm sâu, là cái bất khả tư
nghì, bất khả đắc. Niết Bàn Diệu Tâm là tấm lòng liễu ngộ về nguyên
lý bất sinh bất diệt, bởi vì không thể giảng nghĩa được nên mới gọi
là diệu tâm. Còn Thực Tướng Vô Tướng có nghĩa là thực tướng với vô
tướng vốn giống nhau mà thôi.
[5]
Chữ dùng thấy trong bài tựa của Thiền Nguyên Chư
Thuyên Tập, nói về cách truyền giáo của Đạt Ma khi sang Đông độ. Lại
nữa, trong sách Tổ Đình Sự Uyển có nói rằng lúc đầu các tổ truyền
pháp thường sử dụng ba tạng kinh lớn, đến Đạt Ma tổ sư thì mới có
tâm ấn đơn truyền, phá chấp hiển tông. Điều đó thường được gọi là
giáo ngoại biệt truyền bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm kiến tính
thành Phật.
[6]
Nguyên văn “hoàng diện Cồ Đàm”, thân Phật lấp
lánh vàng nên mặt màu vàng. Có thuyết khác cho rằng vì Phật sinh ở
Kapilavastu (thành Hoàng Sắc) nên mới có tên gọi như thế. Để ý ở
Trung Quốc còn có những lối gọi tên Phật khác như Hoàng Lão, Hoàng
Diện Lão Tử, Hoàng Đầu. Sở dĩ như thế vì họ xem Thích Ca cũng như
Lão Tử.
[7]
Nguyên văn “yếm lương vi tiện”. Theo Tư Trị Thông
Giám, quyển 23 nói về sự kiện trong tháng 2 năm Thiên Phúc thứ 8,
câu này nguyên nghĩa là “mua con cái lương dân để làm nô tì”.
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/vomonquan_09.htm