- VÔ MÔN QUAN
-
無門関
- Chữ Vô của Phương Đông
- Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin
- Biên dịch: Nguyễn Nam Trân
- Bản Thảo - 2009 -
Tắc số 10:
Sư Thanh Thoát nghèo khó (Thanh Thoát cô bần)[1].
清税孤貧
Bản tắc:
Hòa thượng Tào Sơn[2]
nhân có một tăng sĩ hỏi:
-Thanh Thoát
[3]tôi
nghèo khó cô đơn. Dám xin đại sư có gì chẩn tế cho.
Tào Sơn bèn gọi:
-Nầy thầy Thanh Thoát![4]
Thoát bèn thưa:
-Vâng!
Tào Sơn lúc đó mới bảo:
-Rượu ngon Thanh Nguyên[5]
của họ Bạch, đã uống cạn ba bát lớn rồi mà thầy
vẫn chưa thấy môi mình ướt hay sao![6]
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Thanh Thoát thoạt nhìn ra vẻ nghiêm
trang nhưng đang vụng về mánh mung thử thách chi đây. Tào Sơn lại là kẻ
có con mắt soi thấu gan ruột kẻ đứng trước mặt. Đành vậy, nhưng thử hỏi
Thanh Thoát đã uống được thứ mỹ tửu đó ở đâu cơ!
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Bần tự Phạm Đan[7],
Khí như Hạng Vũ.
Hoạt kế tuy vô,
Cảm dữ đấu phú[8].
貧 似 笵 丹
氣 如 項 羽
活 計 雖 無
敢 與 闘 富
(Nghèo tựa Phạm Đan,
Hăng như Hạng Võ.
Không cách kiếm ăn,
Cũng dám đọ của)
Lược dịch lời bàn của Giáo sư
Akizuki Ryômin:
Thanh Thoát đến gặp Tào Sơn, có vẻ hết
sức tự hào về cái nghèo khó của mình, nghĩa là muốn khoe rằng lòng mình
trống không (chân không vô tướng), mảy may không có gì (vô nhất vật), tự
mãn vì mình đã đạt được chữ Không, nghĩa là đã giác ngộ.
Tào Sơn bèn đột ngột gọi “Thoát xà-lê!”
và Thanh Thoát bất chợt “Vâng!” theo phản xạ. Xà-lê xưa có nghĩa là tiên
sinh, dùng để xưng hô với lòng tôn kính các bậc cao tăng nhưng giữa
người tu thiền, nó chỉ có nghĩa thường là thầy, ông, mà thôi.
Kinh Thánh Tân Ước chép rằng: “Phước
thay cho người nghèo khó vì họ sẽ được thấy mặt Chúa!”Lại có chuyện một
vị giáo sư đại học nọ đến thăm Bạch Sơn đạo tràng của cụ Nan.in (Nam
Ẩn), phát biểu dông dài về tôn giáo.Lão tăng lắng nghe không nói gì và
chỉ lên tiếng mời ông ta uống chén trà. Dầu tách trà đã tràn đầy mà nhà
sư già vẫn không ngừng rót. Trà đã tràn ngập mặt chiếu, cụ không chịu
thôi cho. Lúc đó, cầm lòng không đậu, vị giáo sư kia yêu cầu cụ ngừng
rót. Cụ mới cười bảo: “Thì nó cũng giống như trường hợp của giáo sư. Bên
trong đã đầy rồi thì bên ngoài có đưa gì vào nữa cũng chỉ là vô ích”.
Nơi một chén trà, cái gì là quan
trọng? Có phải hình thức, kiểu cọ, cách nung, hay là vì nó là di phẩm
truyền lại từ một đại trà sư cỡ Sen no Rikyuu[9]?
Không đâu, cái quan trọng nhất trong chén trà là khoảng trống không của
nó. Chén không trống thì trà, vật quan trọng hơn cả, không thể đổ vào.
Vì thế kẻ có con tim thanh bần mới là kẻ hạnh phúc hơn cả.
Trong khi thiền, ta ngồi trên tấm bồ
đoàn, để cho tâm thân thống nhất và an định, trước tiên phải phủ định
ngoại cảm. Chăm chỉ ngồi thiền được lúc lâu thì ngoại giới tuy không
mất hẳn nhưng tan biến dần, như thể có đó mà không có đó. Chẳng khác nào
khi tập trung xem một đoạn phim, ta quên cả tiếng quạt máy đang quay vù
vù trên đầu. Đối với người ngồi thiền, nó tương đương với chữ Vô. Tiếp
theo, ta sẽ phủ định nội cảm.Đây là chuyện khó thực hiện bởi vì
vọng tưởng muốn xóa vọng tưởng lại là một vọng tưởng cũng như “dùng máu
để rửa máu” cho nên vọng tưởng sẽ không bao giờ hết tuyệt. Phải dùng
“nước để rửa máu”. Nước ấy chính là Sổ Tức Quán (quán pháp đếm số hơi
thở xuất nhập trong lúc ngồi thiền). Nếu tinh tiến được trong phép ấy,
nội giới cũng như ngoại giới đều tan rã và người tu thiền đến gần trạng
thái “thuần nhất vô tạp”. Lúc đó, trong tâm, một cái lông thỏ cũng không
còn, sẽ nhập vào cảnh “chân không vô tướng”. Đó là tâm cảnh thanh bần,
trong lòng không có mảy may gì. Hòa thượng Thanh Thoát đã mang theo tâm
cảnh đó đến đứng trước Thiền sư Tào Sơn, như thể một thách thức.
Khi Tào Sơn lên tiếng hỏi và Thanh Thoát
trả lời “Vâng!” thì Tào Sơn xem như Thanh Thoát không thấy cái “diệu
dụng” của “chân không” mà chỉ ràng buộc mình vào với cái “đản không”
(chỉ là không mà thôi). Tào Sơn mới trách đã uống được ba bát rượu ngon
rồi còn nói không là thế nào?
Truyện trên cũng cùng ý nghĩa với câu
chuyện về một tăng sĩ đến gặp Hòa thượng Triệu Châu và hỏi:
-Khi không mang một vật (vô nhất vật)
nào đến thì phải làm sao?
Triệu Châu trả lời:
-Phải đặt nó xuống! (Phóng hạ trước!)
Rồi lúc khách hỏi:
-Không mang vật gì đến mà sao lại bắt hạ
nó xuống?
Thì hòa thượng mới trả lời:
-À ra thế! Nếu vật ấy quí giá đến cỡ đó
thì vác nó đem đi đi!
Như thế, Triệu Châu đã phủ định chữ
Không trong “vô nhất vật” của tăng sĩ cũng như Tào Sơn đã phủ định cái
Không trong sự “cô bần” của Thanh Thoát.
Người học thiền bắt buộc phải qua giai
đoạn thể nghiệm cái “cô bần” của Thanh Thoát. Tọa thiền vì thế không dễ
dàng. Thế nhưng “chân không” là “vô tướng” cũng là “diệu dụng” (cái máy
động tuyệt diệu), và phải “diệu dụng” mới được. Người thầy dẫn đến chân
không (ông thầy thiền) đôi lúc còn phải lột mất đi cái không đơn thuần (đản
không) trong tâm cảnh của người học thiền.
[1]
Thoại này chép trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 17, chương nói
về Tào Sơn.
[2]
Thiền sư đời Đường, tên gọi Tào Sơn Bản Tịch (840-901).Nhận pháp tự
của Động Sơn Lương Giới, giúp ông gây dựng phái Tào Động. Có viết
Phủ Châu Tào Sơn Bản Tịch Thiền Sư Ngữ Lục 2 quyển. Tiểu sử có trong
Tào Sơn Lục (xem Vạn Tục Tạng), Tổ Đường Lục quyển 8 và Tống Cao
Tăng Truyện quyển 13, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 17.
[3]
Không rõ là ai. Có khi viết Thanh Thoát (một cách đọc của chữ Thuế),
có khi viết là Thanh Nhuệ.
[4]
Thoát xà lê! Xà lê nguyên văn Phạn ngữ là A xà lê (Acarya) dịch là
“chính hành” hay “qui phạm”. Tiếng xưng hô đối với các tăng lữ.
[5]
Thanh Nguyên là tên đất nơi làm rượu ngon. Họ Bạch là tên người cất
rượu, chú thích xưa cho biết Bạch gia còn có thể là Bách hiên gia (nhà
trăm hiên).
[6]
Đã uống xong mà cứ kêu ầm là mình chưa uống.
[7]
Còn gọi là Phạm Nhiễm, tự là Tử Vân, thụy hiệu Trinh Tiết tiên
sinh.Truyện có chép trong Hậu Hán Thư Liệt
Truyện. Người nghèo kiết xác nhưng biết sống an nhiên tự tại. Có bài
hát về ông như sau: “Trong chum bụi đóng. Trong nồi cá lội”.
[8]
Thi đua xem ai giàu hơn như Vương Khải đấu của với Thạch Sùng.
[9]
Thiên, Lợi Hưu (1522-1591). Trà đạo gia nổi tiếng thời Azuchi
Momoyama.Được coi như một nhà văn hóa lớn.
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/vomonquan_13.htm