- VÔ MÔN QUAN
-
無門関
- Chữ Vô của Phương Đông
- Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin
- Biên dịch: Nguyễn Nam Trân
- Bản Thảo - 2009 -
Tắc số 12:
Thụy Nham đóng trò (Nham hoán chủ nhân)[1].
巌喚主人
Bản tắc:
Mỗi ngày, hòa thượng Thụy[2]
Nham Sư Ngạn[3]
một mình cất tiếng gọi:
-Ông chủ ơi!
Xong tự trả lời lấy:
-Thưa vâng!
Lúc đó lại nói tiếp:
-Hãy mở mắt thức tỉnh đi ông! Vâng.
Từ rày cũng đừng để ai đánh lừa nhé, ông? Vâng, vâng!
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Cái lão Thụy Nham này một mình bán,
một mình mua. Đem đủ loại mặt nạ thần, mặt nạ quỉ kỳ quái ra đóng trò
một mình. Vì cớ gì vậy? Nhìn đây thì rõ! Một kẻ gọi, một kẻ trả lời, một
kẻ tỉnh giấc, một kẻ bị người lừa. Chấp nhận làm một trong những con
người của lão đã là sai lầm rồi. Còn như bắt chước đóng trò như lão thì
đâm ra chúng ta hiểu thiền theo cách của dã hồ[4]
mất.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Học đạo chi nhân bất thức chân,
Chỉ vị tùng tiền nhận thức thần[5].
Vô lượng kiếp lai sinh tử bản,
Si nhân hoán tác bản lai nhân.
學 道 之 人
不 識 真
只 為 從 前
認 識 神
無 量 劫 來
生 死 本
痴 人 喚 作
本 來 人
(Học đạo sao mà chửa nhận chân,
Khổ vì nghiệp-thức mới trầm luân.
Trong vòng sinh diệt bao nhiêu kiếp,
Người mụ mà nhầm chính bản thân).
Lược dịch lời bàn của Giáo sư
Akizuki Ryômin:
Làm gì có chuyện nếu Thụy Nam không gọi,
ông chủ ấy sẽ biến mất đâu! Cho nên, nhất định việc gọi cái ngã tức ông
chủ của mình không giúp cho mình tự giác về mình. Câu chuyện này chỉ là
trò vui chơi đối với Pháp trong trạng thái vô tâm (du hí tam muội) của
thiền sư Thụy Nham đó thôi. Ông muốn bày tỏ niềm vui đã tìm thấy lẽ đạo
(dặn lòng từ rày về sau không còn bị đánh lừa bởi những cái ngã giả tạo
do nghiệp thức) và tự nhiên, tư thế vui đạo của ông trở thành khuôn mẫu
đạo gửi đến mọi người.
Khi đến đạo tràng, thiền sinh thường
thấy tấm biển viết bốn chữ “chiếu cố cước hạ” nghĩa là “xin ngoảnh lại
nhìn xuống chân”. Trước hết phải xếp dày dép lại cho ngay ngắn trước khi
leo lên. Tuy nhiên lời nhắn bảo ấy không chỉ có chừng đó ý nghĩa.
Khi bắt đầu tham gia vào nhiếp-tâm
tức chỗ mọi người đến học tập trung tư tưởng để tọa thiền, các bậc đàn
anh lại thường căn dặn “không được gây tiếng động chóp chép[6]”.
Những việc “ nhìn xuống chân” hay “không nên gây tiếng động” đối với
thiền sinh không phải chỉ thuần túy là lễ phép tối thiểu, nó là những sự
chuẩn bị có mục đích giúp ta chế ngự được nội tâm không cho bay bổng ra
ngoài.
Thiền sư Thụy Nham mỗi ngày gọi mình là
ông chủ rồi trả lời vâng vâng dạ dạ, vui với đạo, nhưng không phải vì
nếu ông ta không gọi, ông chủ ấy sẽ biến đi mất đâu. Khi đã giác ngộ
điều đó, cái gọi là đạo sẽ không rời khỏi ta dù một khoảnh khắc. Sách
Trung Dung cũng nói “Đạo không rời dù trong một tu du”. Phải hiểu là ta
“không nên rời” và ta “không thể rời” đạo được. Dù vậy, cho đến khi ngộ
đạo, ta phải nhẹ nhàng tìm về trạng thái “phóng tâm” (cái tâm an nhiên,
thoát ra khỏi cái thân) như chữ dùng của Mạnh Tử. Nếu là bản chất của
mình thì gọi hay không gọi đến, nó cũng không hề rời mình dù nó đóng
vai ông chủ. Pháp là cái đã được cụ bị đầy đủ nơi mọi người, tuy nhiên
nếu không tu hành thì nó không thể hiện và không chứng đắc. Đó là lời
của Dôgen. Ở điểm đó “tu chứng” là điều quan trọng.
Trích Thủy lão sư ở Thiên Long Tự có để
lại vấn nạn (hạ ngữ): “Thụy Nham tự gọi mình là ông chủ vốn có ý gì?”.
Cổ nhân khi bàn về cách hiểu công án này, có người đề ra hai câu như
sau:
Sơn thâm vô quá khách,
Chung nhật văn viên thanh.
山 深 無 過 客
終 日 聞 猿 声
(Núi sâu không bóng người lai vãng,
Sớm tối nghe hoài tiếng vượn kêu)
Để thành một bồ tát thực sự trong Đại Thừa, không thể
nào một thân mình mình tự ngộ được “vô tướng bình đẳng” như chuyện của
thầy Thanh Thoát trong tắc số 10. Từ trong chỗ “chân không vô tướng”,
nhờ ở “cái tâm đại từ bi như một giọt nước không bên bờ” (nhất trích vô
duyên đại bi tâm), cái diệu dụng phải khởi dậy lên được “máy động tuyệt
diệu” của nó. “Trong chốn thâm sơn không bóng người, chỉ có tiếng vượn
kêu suốt ngày đêm” thì đấy là tiếng kêu ấy chứa đầy lòng từ bi của bồ
tát đang muốn tìm mọi cách để nhắc bảo cho con người điều hết sức quan
trọng nghĩa là chân lý vốn nằm trong Phật pháp. Trên kia tôi vừa mới nói
đây là trò du hí tam muội của Thiền Sư Thụy Nham nhưng nghĩ lại, nó
không gì khác hơn là lời kêu gọi đại từ đại bi của bồ tát hướng về chúng
ta. Trong lời bàn (trình ngữ) về tắc này, Nam Thiên Bổng lão sư có nói:
“Năm trăm năm sau, tất có bậc vương giả dấy lên” (Ngũ bách niên hậu, tất
hữu vương giả khởi”. Ý người muốn bảo là cổ nhân đã có lòng thương mến
mà gắng gổ giúp ta như thế thì nhất định trong tương lai sẽ tạo ra được
những con người giác ngộ.
[1]
Truyện có chép trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 7, truyện Thụy Nham
Sư Ngạn. Có dịch giả đọc là Thoại Nham.
[2]
Nhiều người đọc là Thoại, không hiểu có liên quan đến việc kỵ húy
hay không?
[3]
Chỉ biết là thiền gia đời Đường, không rõ năm sinh năm mất. Nhận
pháp tự của hòa thượng Nham Đầu (828-887). Tiểu sử xem Tổ Đường Lục
quyển 9, Truyền Đăng Lục quyển 17.
[4]
Ý nói thiền kiểu chồn hoang (dã hồ thiền) tức hiểu sai về thiền hay
tham thiền thiếu chân thực.
[5]
Thức thần cũng là “nghiệp thức” của nhiều đời, từ quá khứ qua hiện
tại đến tương lai. Người ta vướng nghiệp vì thường lầm tưởng sự hiểu
biết của mình là cái ngã chân thực.
[6]
Nguyên văn: không được nhai củ cải muối dưa (takuan) gây tiếng ồn.
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/vomonquan_15.htm