- VÔ MÔN QUAN
-
無門関
- Chữ Vô của Phương Đông
- Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin
- Biên dịch: Nguyễn Nam Trân
- Bản Thảo - 2009 -
Tắc số 24:
Dẹp bỏ ngôn ngữ (Ly khước ngữ ngôn)[1].
離却語言
Bản tắc:
Hòa Thượng Phong Huyệt[2]
nhân có tăng hỏi:
-Ngôn ngữ hay sự im lặng nguyên
lai chỉ thể hiện được phân nửa cái li vi (sự chân thực)
[3].Phải
làm thế nào để cho dù có nói hay nín thinh cũng không phạm lỗi và thể
hiện thông suốt sự chân thực[4].
Hòa Thượng mới (mượn câu thơ Đỗ Phủ
để) trả lời như sau:
-Trường ức Giang Nam tam nguyệt lý,
Chá cô đề xứ bách hoa hương.
(Giang
Nam gặp lúc mùa xuân chín,
Nhớ mãi hương hoa, tiếng chá
cô.)[5]
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Cái máy động (thiền cơ) nơi Hòa
thượng Phong Huyệt như là ánh chớp, trong nháy mắt đã đến nơi phải đến.
Dầu vậy, lưỡi ông ta chưa đoạn tuyệt được với câu nói của tiền nhân[6],
thật đáng tiếc làm sao! Nếu các bạn nhìn thấu suốt được chỗ này, có thể
phá được chấp, một mình tìm lấy con đường giải thoát. Nào, vừa mới tách
khỏi phạm vi ngôn ngữ lý luận (của thiền gia), hãy thử diễn tả điều đó
bằng một vần thơ xem sao!
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Bất lộ phong cốt[7]
cú,
Vị ngữ tiên phân phó.
Tiến bộ khẩu nam nam,
Tri quân đại võng thố.
不 露 風 骨 句
未 語 先 吩 咐
進
步
口 喃 喃
知 君 大 罔 措
(Thầy Phong muốn dấu ý thơ sâu,
Chưa nói mà như giảng trọn câu.
Nếu thầy sấn tới, mồm leo lẻo,
Nhà bác thôi đành đếch biết sao!)
Lược dịch lời bàn của Giáo sư
Akizuki Ryômin:
Nhân có tăng đến hỏi Thiền sư
Phong Huyệt Diên Chiểu cách thể hiện thông suốt cái li vi (chân như) mà
không phạm vào sai lầm (bất phạm) thiên về một bên nào bởi vì hai phương
tiện mà con người có là ngôn ngữ (ngữ) và im lặng (mặc) đều chỉ diễn tả
được sự chân thực một cách phiến diện.
“Ngôn mặc thiệp li vi” (Lời nói và
im lặng đều khó dẫn đến sự chân thực) (thấy trong nguyên văn, LND) do
câu nói trong sách Bảo Tàng Luận phần Li Vi Thể Tĩnh Phẩm Đệ Nhị của
pháp sư Tăng Triệu : “Phàm đi vào gọi là li, bước ra gọi là vi. Li là
bản chất tuyệt đối của một vật, vi là hiện tượng muôn mặt của nó khi
biến hóa”.
Li là “cứ” (chỗ ở) lúc “nhập”, vi là
“dụng” (máy động) khi “xuất” nhưng cả hai đều là cách thể hiện của một
“chân lý bản lai thanh tĩnh” cho nên li vi không phải hai nhưng một. Chỗ
bình đẳng, bản thể của vũ trụ (chân như), nơi đoạn tuyệt với tất cả sắc
tướng gọi là “li”, còn như chỗ các sự dị biệt của các hiện tượng biểu lộ
ra thì gọi là “vi”. Khi bình đẳng và dị biệt hòa nhập với nhau, chúng sẽ
tạo thành một vật đồng nhất gọi là bản lai thanh tĩnh (không) của chân
như. Bản thể của vũ trụ, nói khác đi, cái chân như ấy, chính là li vi
vậy. Tuy nhiên li vi không nên đọc là “li và vi” nhưng là “li-vi” đọc
một hơi.
Như thế, câu hỏi của vị tăng trong
công án có nghĩa là: “Nếu nói ra là đã “phạm”
vào cái “vi”, còn giữ im lặng lại “phạm” vào cái “li”. Bề gì cũng chỉ có
thể bày tỏ chân như một cách phiến diện. Xin dạy tôi cách thức thấu suốt
được chân như mà “bất phạm” tức là không rơi vào một trong hai lỗi lầm
nói trên”. Thay vì trả lời thẳng, thiền sư Phong Huyệt đã mượn ý thơ của
Đỗ Phủ để gián tiếp truyền đạt tư tưởng của mình: “ Ta nhớ mãi vào tiết
tháng ba ở Giang Nam, ở giữa chỗ chim giá cô kêu có trăm thức hoa tỏa
hương thơm”. Phong cảnh đó là tâm cảnh giúp ta thấu suốt chân như mà
không phạm phải sai lầm. Người Nhật ngày xưa thường bảo rằng hai chữ
“trường ức” (nhớ mãi một việc đã qua) vốn có “tự nhãn” (là chữ có tính
cách quyết định để phán đoán một câu thơ hay, dở). Về điều này, xin các
bạn hãy hầu chuyện các sư gia trong thất để hiểu thêm!
“Li”
với “vi” là vấn đề khá khúc mắc, trầy trượt cho người nghiên cứu Phật
học (giáo tướng). Nếu muốn nói một cách đơn sơ, ta có thể gọi “li” là
bình đẳng, là bản thể tuyệt đối, là “chân không vô tướng” và “vi” là
“chân không diệu hữu” hay “diệu dụng”, “hiện tượng giới của tương đối,
của dị biệt”. Chữ li-vi đọc liền một hơi có thể xem như cái “chân như vô
tướng” của “bình đẳng tức[8]
dị biệt” . Đó là nơi mà cả “ngữ ngôn tam muội” (ngôn ngữ lý luận) lẫn
“mặc nhiên lương cửu” (trầm mặc nín thinh) đều không thể đạt tới được.
[1]
Thoại này có trong Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 11 chương nói về Phong
Huyệt Diên Chiểu.
[2]
Hòa thượng Phong Huyệt Diên Chiểu (896-973), thiền gia đầu đời Tống.
Tổ sư đời thứ 4 tông Lâm Tế.Nhận pháp tự của Nam Viện Huệ Quả
(860-930?). Tiểu sử chép Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 13, Ngũ Đăng
Hội Nguyên quyển 11.Có để lại Phong Huyệt Thiền Sư Ngữ Lục 1 quyển,
lưu trong Cổ Tôn Túc Ngũ Lục.
[3] “Li
vi”, Ryômin dịch là “chân như”, còn Eshin dịch là “thực tại”.
[4]
Nguyên văn “Như hà thông bất phạm”.
[5]
Phong Huyệt mượn câu thơ này của Lão Đỗ để trình bày một thế giới (chỉ
có chim hót, hoa đưa hương) vượt lên trên cả trầm mặc lẫn ngôn ngữ.
Có người giải thích rằng “trường ức” là “trầm mặc” còn “chá cô đề”
là “ngôn ngữ”.
[6]
Bày tỏ ý tưởng của mình mà phải vay mượn lời nói của kẻ khác (tiền
nhân là Đỗ Phủ).
[7]
Phong cốt chỉ thi phong và cách điệu như thơ đời Ngụy, vốn có tính
cách trữ tình cao. Phong Huyệt không muốn lộ phong cốt (ý thơ sâu)
là không muốn sai phạm, rơi vào cái hạn chế của ngôn ngữ.
[8]
Chữ “tức” ở đây cùng lúc là “tức khắc” và “tức là” chăng ? (LND).
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/vomonquan_27.htm