- VÔ MÔN QUAN
-
無門関
- Chữ Vô của Phương Đông
- Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin
- Biên dịch: Nguyễn Nam Trân
- Bản Thảo - 2009 -
Tắc số 30:
Tâm tức là Phật (Tức tâm tức Phật)[1].
即心即仏
Bản tắc:
Có một hôm, Hòa Thượng Mã Tổ[2]
nhân Đại Mai[3]
hỏi:
-Phật là gì vậy?
Bèn trả lời:
-Tâm, ấy là Phật.
Bình Xướng:
Vô Môn nói rằng:
Nếu có người nào lĩnh hội được
ngay lời dạy của Mã Tổ thì có thể mặc áo Phật, ăn cơm Phật, nói chuyện
Phật, hành động như Phật và, cứ như thế ấy, anh ta là Phật. Dầu vậy, cái
lão Đại Mai Pháp Thường này khéo dẫn dắt mọi người đến chỗ ngộ nhận khi
dạy họ những điều sai trái[4]
như thế. (Đại Mai ơi,) có biết tại sao chỉ cần mở miệng nhắc tới chữ
Phật là cả ba ngày phải súc miệng không? Người mà thông hiểu Phật Pháp,
mới nghe giảng đến câu kiểu như “Tâm, ấy là Phật” (Tâm, tức thị Phật),
đã phải bịt tai, nhanh chân chạy trốn ngay thôi.
Tụng:
Bèn có bài tụng:
Thanh thiên bạch nhật,
Thiết kỵ tầm mịch.
Cánh vấn như hà,
Bão tang[5]
khiếu khuất.
青 天 白 日
切 忌 尋 覓
更 問 如 何
抱 臟 叫 屈
(Dưới trời thanh, nắng sáng trong,
Ngu gì của cấm mất công tìm hoài.
Lại đi hỏi Phật là ai,
Tay ôm tang vật, cổ dài kêu oan!)
Lược dịch lời bàn của Giáo sư
Akizuki Ryômin:
Tương truyền trong đám môn hạ của Thiền
Sư Mã Tổ Đạo Nhất có đến hơn 80 thiện trí thức (kẻ có năng lực chỉ đạo).
Mã Tổ là một đại sư tiêu biểu cho thời Thiền học hưng thịnh nhất ở Trung
Quốc. Về các cao đồ của ông, ta có thể kể tới những tên tuổi như Bách
Trượng, Nam Tuyền, Diêm Quan, Ma Cốc và Đại Mai Pháp Thường.
Nhân một hôm, Đại Mai đưa ra câu hỏi:
“Như hà thị Phật?” và tôn sư đã trả lời: “Tức tâm thị Phật!” Ta thấy có
hai chữ “tức” trong cái tựa đề “Tức tâm tức Phật”của công án. Chữ “tức”
thứ hai là một tiếng phó từ (chỉ trạng thái) có nghĩa “cứ như thế” .
Nhân vì “thị” là một hệ từ (để móc nối) được hiểu đơn thuần như “là” cho
nên câu trả lời của Mã Tổ có thể hiểu: A cứ như thế là B (A tức thị B)
(Tâm tức thị Phật). Còn chữ “tức” thứ nhất là một tiếng để giới hạn và
cường điệu chữ “tâm” theo sát đằng sau nó. “Tức tâm” hàm ý “không gì
khác hơn cái tâm, chính cái tâm”. Mã Tổ muốn giải thích: “Chính cái tâm
với tất cả tích, dục, tăng, ái là Phật đấy!”. Nó không khác mảy may với
những kiểu nói: “Phiền não tức bồ đề”, “Sinh Phật nhất như” (chúng sinh
với Phật là một) hay “Bình thường tâm thị đạo”. Sau khi nghe xong lời
thầy, Đại Mai tức khắc nhìn thấy hiệu quả của bao năm khổ công tu hành.
Giống như những gì đã xãy ra giữa thầy trò Sơ Tổ Đạt Ma và Nhị Tôn Thần
Quang (xem tắc 41 Đạt Ma an tâm), thầy trò Mã Tổ và Đại Mai nơi đây cũng
đã đạt đến chỗ an tâm, ý khí hợp nhất, tự giác được “diệu tâm”.
Về sau, Đại Mai vào ở ẩn trong Đại Mai
Sơn, ra sức thánh thai trường dưỡng (tu hành sau khi liễu ngộ). Nhân lúc
trong đám môn đệ (hội hạ) theo học Thiền Sư Diêm Quan Trai An có một
tăng sĩ lạc lối trong núi, tình cờ bắt gặp một kẻ giống như người rừng
đang tọa thiền. Sau đây là cuộc vấn đáp giữa hai bên:
Hỏi: Hòa thượng vào núi này đã được mấy
năm rồi?
Đáp: Ta chỉ nhìn thấy núi bốn bên lúc
xanh, lúc ngã vàng thôi.
Hỏi: Từ nơi đây ra thôn xóm, phải đi
đường nào?
Đáp: Cứ lần theo dòng nước mà đi.
Tăng sĩ đó sau trở về kể chuyện với
thầy. Diêm Quan biết ngay rằng người rừng hẳn là Pháp Thường, đồng môn
với mình ở cửa Mã Tổ mà từ khi vào ở ẩn trong Đại Mai Sơn, không có tin
tức.Ông mới dặn học trò đi tìm một lần nữa, mãi về sau, Đại Mai mới
xuống núi, bắt đầu ra tay cứu độ chúng sinh.
Câu chuyện đến tai Mã Tổ. Ông mới gửi
một ý chỉ qua người học trò và bảo anh ta đi gặp Đại Mai. Hỏi rằng:
-Tôi nghe hòa thượng xưa tham thiền ở
cửa Mã Tổ và đã ngộ đạo. Thế thì ngày nay đã thể đắc gì rồi và nói cho
kẻ khác nghe được chăng?
Đại Mai đáp:
- Xưa Mã tôn sư khi ta đặt câu hỏi, đã
trả lời “Tức tâm tức Phật”. Bây giờ thì ta sống trong núi này thôi.
Tăng lại hỏi:
-Thế nhưng gần đây Mã đại sư lại giảng
pháp cách khác. Không dạy “Tức tâm tức Phật” nữa mà dạy “Phi tâm phi
Phật (xem tắc 33 Phi tâm phi Phật) cơ đấy!
Nghe thấy thế, Đại Mai mới nói:
-Lão già ấy bây giờ lại còn đặt điều như
thế để lừa bịp thiên hạ đấy phỏng? Lão muốn nói gì thì mặc, ta chỉ một
đường theo “Tức tâm tức Phật”!
Mã Tổ nghe thuật chuyện, bảo rằng:
-Thế sao? Hắn nói thế à? Quả mai (mơ) đã
chín rồi đấy!
Câu nói đó là bằng chứng ấn khả mà Mã Tổ
ban cho Đại Mai.
Câu chuyện thiền trên thật có ý nghĩa và
chúng ta sẽ có dịp đào sâu sau. Còn bây giờ, nếu không làm phiền quí vị,
xin trình bày một chuyện khác. Người góp mặt trong chuyện là Bàng Cư sĩ,
kẻ về sau trở thành đại cư sĩ trong thiên hạ, vốn có duyên với cửa Mã
Tổ, đã từ xa xôi đến gặp Đại Mai.
Bàng cư sĩ hỏi:
-Lâu năm ái mộ danh tiếng hòa thượng Đại
Mai. Dám hỏi quả mai (mơ) đã chín chưa?
Đại Mai:
-Vừa chín tới nơi. Thế ông ăn nó kiểu
nào?.
-Cắn lấy rồi nhai cho nó nát nhừ ra.
Đại Mai chìa tay ra:
-Nếu thế trả hạt lại ta nhé!
Bàng cư sĩ không biết đáp thế nào,
đành lặng thinh. Lúc đó, mới biết người tầm cỡ như Bàng cư sĩ mà cũng
chưa thực thấu triệt lẽ đạo[6].
Do đó, người như Hòa Thượng Đại Mai, một
khi thấu hiểu “Tâm, ấy là Phật” đã áp dụng điều đó ngay trong sinh hoạt
thường nhật, và cứ thế mà là Phật. Thiền Sư Nhật Bản Dôgen (Đạo Nguyên)
cũng nói: “Uy nghi tức Phật Pháp. Tác pháp thị tôn chỉ”, cho nên mặc áo,
ăn cơm cũng là thiền. Rời Phật ngữ, làm những Phật hành trong cuộc sống
là những “máy động” của Phật vậy.
Dầu nói thế, hãy còn một sự dị biệt, dù nó chỉ nhỏ
bằng sợi lông thỏ. Ấy là, những ai hiểu được “tức tâm tức Phật”, “chúng
sinh bản lai Phật”, có “quan niệm ngộ” rồi, vẫn không có quyền chễnh
mãng trong việc “thực tham thực cứu”. Như thiền sư Nhật Bản Hakuin (Bạch
Ẩn) có đề cập đến, người ta thường mắc lầm lẫn rơi vào vòng của cái gọi
là “vô sự bất sinh thiền” (thiền theo lối vô sự bất sinh). Có lẽ trong ý
nghĩa đó, Vô Môn mới phê bình Hòa Thượng Đại Mai đã đưa người ta đến ngộ
nhận. Tuy nhiên đây cũng là kiểu nói đùa bỡn (niêm lộng) của nhà thiền
chứ thực ra ông xem lời chỉ bảo (thùy thị) ấy của Đại Mai hết sức quí
giá.
[1]
Thoại này có chép trong Mã Tổ Ngữ Lục. Đối ứng với tắc thứ 33 Phi
Tâm Phi Phật (Không phải tâm, chẳng phải Phật) cũng thấy chép ở đây.
[2]
Mã Tổ Đạo Nhất (709-788), thiền tăng đời Đường. Học trò cháu (pháp
tôn) ba đời của Lục Tổ. Khai tổ của tông Hồng Châu. Ông nhận pháp tự
của Nam Nhạc Hoài Nhượng (677-744). Với những câu nói bất hủ “Bình
thường tâm thị đạo”, “Tức tâm thị Phật”, đã xác định được chỗ đứng
của Thiền Trung Quốc. Để lại “Mã Tổ Đạo Nhất Thiền Sư Ngữ Lục” 1
quyển. Tiểu sử chép trong Đường Văn Túy quyển 64, Tổ Đường Lục quyển
14, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 6 và Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 3.
[3]
Đại Mai Pháp Thường (752-839), người nhận pháp tự của Mã Tổ Đạo Nhất.
Để lại “Đại Mai Pháp Thường Thiền Sư Ngữ Lục” 1 quyển. Tiểu sử chép
trong Tổ Đường Lục quyển 15, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 7 và Ngũ
Đăng Hội Nguyên quyển 3.
[4]
Nguyên văn : thác nhận Định Bàn Tinh (nhìn lầm dấu của ngôi sao ở
đầu cán của chòm sao Thiên Bình) nghĩa bóng: cố bám víu vào điều
không cần thiết. Ở đây điều ấy ý nói câu hỏi “Phật là gì?”
[5]
Bão tang: ôm lấy tang vật.
[6]
Phải chăng Bàng cư sĩ không hiểu rằng đạo như quả mơ, dù có chín
nhũn vẫn còn cái hột (không ai có thể tự phụ đạt đạo) và không phải
dễ nuốt (truyền đạt) như thế. Xin thỉnh giáo! (LND).
http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/vomonquan_33.htm